Thursday 30 August 2012

DIỄN TIẾN QUAN HỆ VIÊT - TRUNG (Nguyễn Gia Kiểng)




Ghi chú:

Được đăng ngày Thứ tư, 30 Tháng 11 -0001 00:00

04.1977: Quân Khmer Đỏ tấn công biên giới An Giang, tiến sâu vào trong lãnh thổ Việt Nam, sau đó liên tục khiêu khích. Tháng 9.1977 thêm một đợt tấn công dữ dội khác. Ngày 31.12 Việt Nam tung sáu sư đoàn phản công, đuổi quân Khmer Đỏ sâu trong lãnh thổ Campuchia trong một tuần lễ rồi rút về.

19.07.1977: Mỹ không phủ quyết việc Việt Nam gia nhập LHQ. Ngày 20.09.1977 Việt Nam trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc. Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền đưa đề nghị nên mềm dẻo với Mỹ nhưng "bốn vị lãnh đạo chủ chốt của ta lúc đó" (lời thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ) gạt đi. Lập trường của ĐCSVN là chỉ chấp nhận bình thường hóa quan hệ với Mỹ nếu viện trợ cho Việt Nam 3,2 tỷ USD theo hiệp định Paris 1973, một hiệp định mà chính họ đã không tôn trọng.
Các thành viên bộ chính trị lúc đó là Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công, Chu Huy Mân. Dự khuyết : Tố Hữu, Võ văn Kiết, Đỗ Mười.
Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Văn Linh đồng thời cũng là thành viên ban bí thư.
It lâu sau ngày 30.04.1975, ngày 12.06.1975, Mỹ gửi thông điệp cho sứ quán Việt Nam tại Paris đề nghị bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Ngày 23.06.1976 Kissinger gửi thông điệp cho Nguyễn Duy Trinh bày tỏ ý muốn bình thường hóa. Lãnh đạo CSVN vẫn kiên định lập trường: Mỹ phải viện trợ 3.2 tỷ USD mới được bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.

19.05.1978: Brzezinski, cố vấn an ninh của Jimmy Carter thăm Trung Quốc. Mỹ chọn liên kết với Trung Quốc để chống Liên Xô. Lúc đó ảnh hưởng Liên Xô phát triển rất nhanh chóng. Sau Việt Nam, Lào và Campuchia năm 1975, một loạt quốc gia rơi vào quỹ đạo Liên Xô: Angola, Ethiopia, Yemen, Somalia, Nicaragua. Phần lớn các nước Ả Rập cũng thiên về Liên Xô. Ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô trở thành quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ và khối tư bản. Cùng với chọn lựa liên kết với Trung Quốc Hoa Kỳ không còn tìm cách bình thường hóa quan hệ với Việt Nam nữa.

23.08.1978: Đặng Tiểu Bình tuyên bố Trung Quốc là một đồng minh của Hoa Kỳ và phương Tây: "Trung Quốc là NATO ở phương Đông, Việt Nam là Cuba ở phương Đông", và Trung Quốc "chống đại bá Liên Xô, tiểu bá Việt Nam".

1978: Trung Quốc chính thức cắt viện mọi trợ cho Việt Nam.
Thực ra từ lâu viện trợ Trung Quốc chỉ còn là hình thức, Việt Nam đã đứng hẳn về phía Liên Xô trong thế kình địch Liên Xô : Trung Quốc. Năm 1976 ĐCSTQ không gửi phái đoàn tham dự đại hội IV ĐCSVN.
Theo Trần Quang Cơ vào năm 1978 Việt Nam và Albania là hai nước chống đế quốc dữ dội nhất.

09.1978: Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và vụ trưởng vụ Bắc Mỹ Trần Quang Cơ sang New York đàm phán với Richard Holbrooke, đồng ý bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ không điều kiện nhưng đã trễ, Mỹ không còn sẵn sàng nữa. Holbrooke nói Mỹ lo ngại Liên Xô lập căn cứ tại Cam Ranh. Trước đó Mỹ đề nghị bình thường hóa không điều kiện nhưng Việt Nam không chịu, đòi Mỹ bồi thường chiến tranh 3.2 tỷ USD theo hiệp định Paris.

03.11.1978: Việt Nam gia nhập COMECON và ký hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô. Henri Kissinger tuyên bố:"Mỹ cần Trung Quốc để hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam trong khu vực."

23.12.1978: Quân Việt Nam tấn công Campuchia, ngày 06.01.1979 chiếm Phnom Penh. Cuộc tiến công này được thế giới nhìn như nằm trong khuôn khổ cuộc tiến công toàn cầu của khối cộng sản dưới sự lãnh đạo của Liên Xô. Quân Liên Xô tràn vào Afghanistan ngày 25.12.1979 (để rồi tháo chạy tháng 2/1989). Mỹ và phương Tây phản công quyết liệt. Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance tuyên bố các cuộc đàm phán để bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam đã tan vỡ.

29.01 – 04.02.1979: Đặng Tiểu Bình thăm viếng Mỹ xiết chặt bang giao giữa hai nước. Cả thế giới đánh giá chuyến công du là rất thành công.

17.02.1979:Trung Quốc tấn công các tỉnh phía Bắc để "dạy cho Việt Nam một bài học". Quân Trung Quốc rút lui sau 1 tháng nhưng vẫn chiếm giữ nhiều địa điểm. Đây chỉ là đợt tiến công đầu trong ba đợt quan trọng. Chiến tranh Việt – Trung vẫn tiếp tục cho tới 1989.
Đợt 2 trong hai tháng 5 và 6.1981
Đợt 3 từ tháng 4 đến tháng 7.1984. Nga và Mỹ không lên tiếng. Không những thế Nga còn khuyên Việt Nam nên điều đình với Trung Quốc và Hoa Kỳ.

08.03.1980:Trung Quốc đơn phương chấm dứt vòng 2 đàm phán Việt Trung về bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Việt Nam không cần vì đang thách thức Trung Quốc.
Vòng 1 từ 18.04-1979 đến 18.05.1979 (một tháng sau đợt 1 chiến tranh biên giới)
Vòng 2 từ 28.06.1979 đến 06.03.1980

18.12.1980: Biểu quyết và ban hành hiến pháp 1980 với lời nói đầu thù địch với Trung Quốc.
"Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hoà bình đểxây dựng Tổquốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ởCam-pu-chia. Phát huy truyền thống vẻvang của dân tộc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệTổquốc chống bọn phản động Cam-pu-chia ởbiên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ởbiên giới phía Bắc, bảo vệđộc lập, chủquyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổcủa mình."

27-31.03.1982: Đại hội V của ĐCSVN.
ĐCSVN xác định lập trường chống Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh, thân Trung Quốc, nguyên phó bí thư đảng ủy cục R, bị loại khỏi bộ chính trị.
Bộ chính trị gồm: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Tố Hữu , Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Đức Tâm. Ủy viên dự khuyết: Nguyễn Cơ Thạch, Đồng Sỹ Nguyên.
Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm đồng thời cũng là thành viên ban bí thư.
Bản điều lệ Đảng được sửa đổi với lời nói đầu đề cao cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung như một chiến thắng vẻ vang và khẳng định sự gắn bó với Liên Xô và chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời cũng nhấn mạnh quan hệ đặc biệt giữa "ba nước Đông Dương":
(…)Đảng ra sức giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của xã hội và trở thành hệ tư tưởng của toàn dân. (…) Đảng thường xuyên chăm lo tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ta với Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô, Lào, Campuchia…

10.1982: Bắt đầu đàm phán Trung Quốc – Liên Xô để bình thường hóa quan hệ sau hơn một thâp niên xung đột. Một bất ngờ choáng váng cho ĐCSVN. Từ đó Trung Quốc không đàm phán với Việt Nam nữa.
Cuộc đàm phán kéo dài tới vòng 7, tháng 10.1985.

15.04.1984: Trần Quang Cơ trả lời phỏng vấn của báo Kledlap của Thái Lan, tỏ ra vẫn chống Trung Quốc.

06.1984: Ngay giữa lúc quân đội Trung Quốc đang tấn công dữ dội vào Lạng Sơn, Liên Xô không cứu giúp Việt Nam mà còn tuyên bố cần phải có một giải pháp thương lượng cho vấn đề Campuchia; Liên Xô đòi Việt Nam giải quyết qua thương lượng với Trung Quốc. Việt Nam hốt hoảng cầu hòa. Trung Quốc không chịu, đòi "Việt Nam phải rút hết quân khỏi Campuchia thì hai bên mới có thể đàm phán".

08.01.1985: Nguyễn Cơ Thạch gửi thư cho ngoại trưởng Trung Quốc Ngô Học Khiêm xin đàm phán. Ngày

21.01.1985 Ngô Học khiêm trả lời, từ chối đàm phán: "Chỉ sau khi Việt Nam cam kết và thực hiện rút quân khỏi Campuchia thì đàm phán mới có ý nghĩa".

06.1985: ĐCSVN họp Hội nghị Trung Ương 8. Nguyễn Văn Linh được bầu vào bộ chính trị và làm bí thư thành ủy Sài Gòn. Một năm sau, tháng 6.1986, ông Linh lại được bầu vào ban bí thư và làm thường trực ban bí thư. Việt Nam chính thức thay đổi chính sách đối với Trung Quốc, từ chống đối sang thần phục.

21.08.1985: Bộ ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Trung Quốc tuyên bố sẽ rút hết quân khỏi Campuchia trong năm 1990 và đề nghị đàm phán.

06.09.1985: Đại sứ quán Trung Quốc trả lời: Trung Quốc vẫn không chấp nhận đàm phán, Trung Quốc coi việc Việt Nam đặt đàm phán như là điều kiện để rút quân là vô lý và thiếu thiện chí, đàm phán như vậy vô ích. Nếu Việt Nam cần nói gì thì cứ trao đổi qua hai tòa đại sứ.

03.1986: Chính phủ Liên Hiệp Campuchia Dân Chủ (Sihanouk, Son Sann, Khmer Đỏ) ra tuyên ngôn 8 điểm.
Trung Quốc tuyên bố Việt Nam phải nói chuyên với CPLHCDC. Trung Quốc chỉ nói chuyện với Việt Nam sau khi vấn đề Campuchia đã được giải quyết theo cách của Trung Quốc.

07.1986: Lê Duẩn chết, Trường Chinh thay thế Lê Duẩn đảm nhiệm chức vụ tổng bí thư đến đại hội VI, tháng 12.1986

9.07.1986:Bộ chính trị ĐCSVN họp và ra nghị quyết 32/BCT xác định cần có giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia để có thể bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc ("điều chỉnh chính sách ngoại giao và tiến tới giải pháp về Cam-pu-chia"; "cùng tồn tại hòa bình với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ". Theo Trần Quang Cơ tác động mạnh nhất và trực tiếp nhất lên Việt Nam và Campuchia là việc Liên Xô hòa hoãn với Trung Quốc (và không còn đỡ đầu cho họ để chống Trung Quốc nữa).

10.1986: Trung Quốc tuyên bố Việt Nam phải rút xong quân khỏi Campuchia Trung Quốc mới chấp nhận đàm phán với Việt Nam. Trước đây Trung Quốc chỉ đòi Việt Nam cam kết rút quân.

10 – 11.12.1986: Trần Quang Cơ được cử sang Lào giúp Lào bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, với hy vọng nhân đó bắt liên lạc với Trung Quốc.

12.1986: Đại hội VI của ĐCSVN.
Nguyễn Văn Linh lên làm tổng bí thư.
Bộ chính trị gồm Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, Võ Chí Công, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Cơ Thạch, Đồng Sỹ Nguyên, Trần Xuân Bách, Nguyễn Thanh Bình, Đoàn Khuê, Mai Chí Thọ. Uỷ viên dự khuyết: Đào Duy Tùng.
Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức Tâm, Trần Xuân Bách, Đào Duy Tùng đồng thời là thành viên ban bí thư.
Đỗ Mười làm thường trực ban bí thư và trở thành thủ tướng thay Phạm Văn Đồng năm 1988.

07.02.1987: Đàm phán Liên Xô Trung Quốc vòng 10. Trung Quốc buộc Liên Xô phải buộc Việt Nam giải quyết xong vấn đề Campuchia thì mới bình thường hóa quan hệ Xô – Trung.

07.03.1987:BCT họp và lấy quyết định đề nghị đàm phán mật với Trung Quốc. BCT nhận định Trung Quốc có hai mặt, vừa xã hội chủ nghĩa vừa bá quyền, và chọn đường lối hợp tác hữu nghị thay vì đối đầu như từ gần hai thập niên qua. BCT khẳng định chủ trương giải quyết vấn đề Campuchia qua thương thuyết với Trung Quốc.
Ngay sau buổi họp, Lê Đức Thọ sang Lào họp với BCT đảng cộng sản Lào.

04.1987: Lê Đức Thọ sang Campuchia cùng với Lê Đức Anh và Trần Quang Cơ đưa "giải pháp Đỏ" (Hòa giải giữa Hun Sen với Khmer Đỏ để cùng cầm quyền) vói niềm tin là giải pháp này làm vừa lòng Trung Quốc)

09.04.1987:Thành lập nhóm nghiên cứu chiến lược đối ngoại CP87 do Trần Quang Cơ điều khiển. Trần Quang Cơ trở thành thứ trưởng ngoại giao chuyên trách Campuchia.
Nhóm CP87 gồm Trần Quang Cơ, Đặng Nghiêm Hoành (vụ trưởng vụ tổng hợp) tổ phó, Nguyễn Phượng Vũ (vụ trưởng vụ Trung Quốc), Trần Xuân Mận (vụ trưởng vụ Á Châu 2). Thành viên không thường trực: Đặng Nghiêm Bái (vụ trưởng vụ Bắc Mỹ), Tạ Hữu Canh (vụ trưởng vụ Liên Xô), Nguyễn Can (vụ trưởng vụ Á Châu 3), Trịnh Xuân Lãng (Vụ trưởng vụ báo chí).
CP87 có nhiệm vụ giúp BCT thực hiện nghị quyết 32/CP (bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, giải quyết vấn đề Campuchia, phối hợp với Liên Xô)
CP87 làm việc với nhóm B1 của Campuchia do thứ trưởng ngoại giao Dith Munty đứng đầu.

14.05.1987: Đặng Tiểu Bình tiếp tổng thư ký LHQ Javier de Cuellar và nhờ nhắn với Việt Nam: chỉ khi nào vấn đề Campuchia được giải quyết theo ý Trung Quốc, nghĩa là có chính phủ liên hiệp 4 bên và quân Việt Nam đã rút hết thì mới có thể có đàm phán để bình thường hóa quan hệ Việt Trung.

14.05.1987: Họp CP87 thảo luận sôi nổi;
Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch nói: "Phải thỏa thuận cả với Mỹ, chỉ húc đầu vào một con đường nói chuyện với Trung Quốc là không đúng."
Nhận định của nhóm CP87:
-Ta chỉ biết có Trung Quốc thì Trung Quốc sẽ chèn ép vì ta yếu và cô lập. Đó là lý do khiến Trung Quốc đã buộc ta làm hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác;
-Trong ban lãnh đạo cộng sản lúc đó nói đến quan hệ với các nước phương Tây là điều húy kỵ
-Việc bộ ngoại giao đề nghị mở rộng quan hệ hợp tác ngoài thế giới XHCN là chuyện động trời.

25.05.1987: Bộ ngoại giao (Nguyễn Cơ Thạch và Trần Quang Cơ) kiến nghị xin sửa lời nói đầu của hiến pháp để bỏ đoạn coi Trung Quốc là kẻ thù.

26.07.1987:Nguyễn Cơ Thạch gặp đại sứ Trung Quốc chuyển lời thủ tướng Phạm văn Đồng xin thương thuyết bí mật. Hai ngày sau, 28.07.1987, Ngô Học Khiêm nhắn lại là chưa trả lời Phạm văn Đồng. Theo Trần Quang Cơ (Hồi ức và suy nghĩ) thì từ 1980 đến 1988 Việt Nam đã xin đàm phán "ngót 20 lần" nhưng Trung Quốc đều từ chối.

22.12.1987: Liên Xô đề nghị gặp gỡ giữa Cộng Hòa Nhân Dân Campuchia ( Heng Somrin và Hun Sen) và Khmer Đỏ để hòa giải. Trung Quốc không chấp nhận.

14.03.1988: Hải quân Trung Quốc đánh chiếm nhiều đảo đá của Việt Nam tại Trường Sa, gây nhiều thương vong cho quân đội Việt Nam (64 chết, 11 bị thương, 9 bị bắt làm tù binh). Chính quyền CSVN không tổ chức một cuộc biểu tình lên án nào, cũng không có một tuyên ngôn mạnh nào.

25.05.1988: BCT ra nghị quyết 13: Giải quyết vấn đề Cam-pu-chia; phấn đấu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau. Khắc phục những tư tưởng lệch lạc chỉ thấy Trung Quốc là bá quyền mà không thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xã hội hay ngược lại.

30.07.1988: Chủ trương cầu hòa với Trung Quốc của Việt Nam đã quá rõ ràng; tại hội nghi JIM1 (Jakarta) Hun Sen cay đắng nói: "Chúng tôi căm thù bọn Khmer Đỏ, nhưng Việt Nam cần bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc nên buộc chúng tôi thỏa hiệp với chúng…"

26.08.1988: Quốc hội Việt Nam sửa lời nói đầu hiến pháp, bỏ đoạn coi Trung Quốc là kẻ thù

15.12.1988: Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gửi thư cho Tiền Kỳ Thâm đề nghị đàm phán (sau khi được Liên Xô cho biết là ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm đã sang thăm Liên Xô hôm 6.12.1988 và tỏ ra sẽ chấp nhận đàm phán với Việt Nam)

24.12.1988: Tiền Kỳ Thâm trả lời Nguyễn Cơ Thạch; yêu cầu Việt Nam gửi một thứ trưởng ngoại giao sang Bắc Kinh để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ cấp ngoại trưởng.

16-19.01.1989: Đàm phán Việt – Trung vòng 1 (Đinh Nho Liêm và Lưu Thuật Khanh)

8-10.05.1989: Đàm phán Trung Quốc-Việt Nam vòng 2. Không kết quả. Trung Quốc sau đó tuyên bố muốn bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc Việt Nam không những phải rút hết quân khỏi Campuchia mà còn phải giải quyết các hậu quả của việc đem quân vào Campuchia.

01.1989: Hun Sen xuất bản cuốn "Campuchia, con đường mười năm" bác bỏ giải pháp Đỏ

30.07 – 30.08.1989: Hội nghị Paris.

03.08.1989: Tại hội nghị Paris ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin gặp ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm; thứ trưởng Lưu Thuật Khanh trả lời: Tiền Kỳ Thâm không có thì giờ nên không thể gặp Nguyễn Cơ Thạch nhưng nếu Trần Quang Cơ muốn gặp thì đồng ý.

07.10.1989: Đặng Tiểu Bình tiếp Kaysone Phomvihan, phê phán nặng lời Lê Duẩn và hết lời ca tụng Nguyễn văn Linh, nhắc lại năm 1963 đã tổ chức đưa Nguyễn Văn Linh sang Bắc Kinh qua ngả Hồng Kông để gặp Đặng.

12.10.1989: Hun Sen tuyên bố dứt khoát không chấp nhận Khmer Đỏ.

09.11.1989: Bức tường Berlin sụp đổ. Các chế độ cộng sản đều hốt hoảng. Trước đó, đầu tháng 10, Nguyễn văn Linh vừa đi dự lễ kỷ niệm 40 năm quốc khánh CHDCĐ và rất phục Đông Đức. Nguyễn Văn Linh cũng gặp Ceaucescu trong dịp này và đánh giá rất cao Ceaucescu. Ngày 25.12.1989 Ceaucescu bị lật đổ và hành quyết. Nguyễn Văn Linh và bộ chính trị hoảng hốt. Theo TQC (Hồi ức và suy nghĩ) lập trường áp đảo trong bộ chính trị là nhấn mạnh Trung Quốc là một nước XHCN và phải bắt tay ngay với Trung Quốc bằng mọi giá để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, để chống Mỹ và các thế lực đế quốc khác.

06.11.1989: Nguyễn Cơ Thạch nhờ đai sứ Trung Quốc chuyển thông điệp miệng của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh mong sớm bình thường hóa quan hệ Việt Trung.
Ba tuần sau Nguyễn Cơ Thạch lại gửi thư cho Tiền Kỳ Thâm nhắc nhở thỉnh cầu này.

12.12.1989: Đại sứ Trung Quốc đến gặp Nguyễn Cơ Thạch chuyển thông điệp miệng của Trung Quốc trả lời Nguyễn Văn Linh: Trung Quốc chỉ xem xét yêu cầu bình thường hóa của Việt Nam sau khi vấn đề Campuchia đã được giải quyết theo ý của Trung Quốc (cơ chế giám sát LHQ để kiểm chứng rằng quân Việt Nam đã rút hết, chính
phủ liên hiệp 4 bên do Sihanouk đứng đầu).

03.1990: Hội nghị trung ương 8, Trần Xuân Bách, bị kỷ luật, loại khỏi bộ chính trị và trung ương đảng vì tuyên bố thuận lợi cho đa nguyên, đa đảng

03.4.1990: Trung Quốc đột ngột chấp nhận Đinh Nho Liêm tới Bắc Kinh để đàm phán cấp thứ trưởng.

10.4.1990: Họp bộ chính trị. Nguyễn văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sỹ Nguyên tỏ ra cuồng nhiệt chống Mỹ nhấn mạnh âm mưu của đế quốc Mỹ muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, coi việc bức tường berlin sụp đổ là do âm mưu của Mỹ.
Nguyễn Văn Linh nói: "Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xã hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu của đế quốc Mỹ xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phải cùng nhau chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác giải quyết sau". Nguyễn Cơ Thạch lưu ý có thể ưu tiên của Trung Quốc là tranh thủ sự hợp tác với Hoa Kỳ và phương Tây chứ không phải là bảo vệ chủ nghĩa xã hội nhưng không ai nghe. Quan điểm chung của bộ chính trị là phải cùng Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc.

16.04.1990: Nguyễn Cơ Thạch sang Campuchia đề nghị giải pháp chính phủ liên hiệp hai bên. Phnom Penh phản đối. Lãnh đạo ĐCSVN cố tìm cách áp đặt "giải pháp Đỏ" để làm vừa lòng Trung Quốc trong khi Trung Quốc lại chỉ muốn một giải pháp vừa lòng Hoa Kỳ và phương Tây!

02.05.1990: Đinh Nho Liêm đến Bắc Kinh đàm phán với Từ Đôn Tín, phụ tá bộ trưởng ngoại giao. Việt Nam không nói Khmer Đỏ là diệt chủng nữa. Trung Quốc tỏ ra thờ ơ với lời kêu gọi hai nước xích lại gần nhau để cứu chủ nghĩa xã hỗi. Phía Trung Quốc thông báo trợ lý ngoại trưởng Trung Quốc Từ Đôn Tín sẽ sang Việt Nam đầu tháng 6.

30.5.1990: ĐCSVN họp BCT. Nguyễn Văn Linh thông báo dự định gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín trước khi Từ Đôn Tín gặp Trần Quang Cơ. Đỗ Mười và nhiều người khuyên không nên nhưng Lê Đức Anh lại nhiệt liệt ủng hộ.

05.06.1990: Nguyễn Văn Linh mời đại sứ Trương Đức Duy đến nhà khách Trung Ương nói chuyện thân mật trước khi Từ Đôn Tín đến để tỏ lòng kính trọng đối với Bắc Kinh. Sau đó, ngày 09.06. Trương Đức Duy tiết lộ cho vụ Trung Quốc bộ ngọai giao biết những điểm chính mà Nguyễn Văn Linh đã nói cuộc nói chuyện này: 1/ Nguyễn Văn Linh nhìn nhận Việt Nam đã có sai phạm đối với Trung Quốc, đang sửa sai và mong gặp cấp cao Trung Quốc để "trao đổi những vấn đề lớn giữa quan hệ giữa hai nước; 2/ Liên Xô đã lung lay, Trung Quốc cần dương cao ngọn cờ XHCN, Việt Nam sẽ theo. Những người cộng sản chân chính phải đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội; 3/ Cùng là cộng sản, Pol Pot và Hun Sen phải hợp tác với nhau.

06.06.1990: Lê Đức Anh cũng mời Trương Đức Huy ăn cơm nói chuyện riêng không cho ai trong BCT biết. Mãi đến 16.9 mới tiết lộ có cuộc gặp gỡ này.

11,12,13.06.1990: Đàm phán Trần Quang Cơ –Từ Đôn Tín tại Hà Nội. Trước đó Lê Đức Anh gọi điện thoại dặn dò Trần Quang Cơ phải thận trọng và kiên nhẫn nghe nhiều hơn nói. Nguyễn Cơ Thạch hỏi TQC: "vậy đồng chí theo ý kiến bộ trưởng quốc phòng hay bộ trưởng ngoại giao?". Rạn nứt lớn giữa bộ ngoại giao và bộ quốc phòng. Từ Đôn Tín tỏ ra xấc xược. Theo TQC qua hai buổi tiếp xuc với Trương Đức Huy Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã "quá nhún mình, quá sơ hở" và gây khó khăn cho bộ ngoại giao trong việc đàm phán.
Nguyễn Cơ Thạch đụng chạm lớn với Từ Đôn Tín vì thái độ cao ngạo của Từ.

19.06.1990:BCT họp để đánh giá cuộc đàm phán với Từ Đôn Tín. Nguyễn Văn Linh vào Sài Gòn không tham dự, dặn cứ thảo luận nhưng đừng bàn về phương hướng tới. Trần Quang Cơ báo cáo: Từ Đôn Tín đã nói rõ là Trung Quốc không chấp nhận đề nghị hai nước đoàn kết chống đế quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc chỉ coi quan hệ với Việt Nam sau này như là quan hệ giữa hai nước láng giềng. Từ Đôn Tín nhấn mạnh quan hệ này không được gây lo ngại cho Mỹ và ASEAN.

17.07.1990: Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Lưu Thuật Khanh nói với Đặng Nghiêm Hoành, đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh, là Trung Quốc không chấp nhận giải pháp Đỏ. Khanh nói thêm: " cần giải pháp 4 bên do Sihanouk đứng đầu mới được thế giới chấp nhận".

27.07.1990: Trong một cuộc chiêu đãi của sứ quán Ai Cập tại Hà Nội, đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy nói với vụ phó vụ Trung Quốc Vũ Thuần rằng : "giải pháp Đỏ không thực tế vì làm như vậy là hút tất cả các mũi tên về mình, tự cô lập mình. Hiện nay Trung Quốc không chủ trương giương cao ngọn cờ XHCN về mặt đối ngoại".
Theo Trần Quang Cơ: Gorbachev là cha đẻ của giải pháp này, song người "bảo dưỡng" giải pháp Đỏ nhất lại là lãnh đạo Việt Nam. (Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ văn Kiệt, Đào Duy Tùng, Đoàn Khuê, Nguyễn Hà Phan). Trung Quốc không chỉ không chấp nhận giải pháp Đỏ mà còn tiết lộ với Hoa Kỳ và phương Tây rằng Việt Nam đã đề nghị giải pháp Đỏ để chứng tỏ Việt Nam giả dối lật lọng, ngoài thì lấy cớ Pol Pot diệt chủng để xâm lăng Campuchia, trong thì đề nghị với Trung Quốc giải pháp Đỏ để bắt tay với Pol Pot.

02.08.1990: Họp BCT ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh hỏi Nguyễn Cơ Thạch trước khi vào họp rằng có nên nhắc lại với Trung Quốc yêu cầu gặp gỡ cấp cao và giải pháp Đỏ không. Nguyễn Cơ Thạch trả lời rằng Trung Quốc đã ba lần khẳng định là họ không chấp nhận giải pháp Đỏ. Võ Chí Công nói thêm đó chỉ là ảo tưởng ngây thơ.

05.08.1990 và 13.09.1990: Hai cuộc thảo luận giữa Trần Quang Cơ và đại sứ Trương Đức Duy.
TQC: "Hai nước chúng ta cần hợp tác với nhau trước mắt cũng như lâu dài".
TĐD: "Trung Quốc coi trọng quan hệ Trung - Việt nhưng phải làm từng bước".

28.08.1990: Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy thông báo cho chính quyền Việt Nam biết tổng bí thư Giang Trạch Dân và thủ tướng Lý Bằng muốn gặp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và thủ tướng Đỗ Mười cùng với cố vấn Phạm Văn Đồng để bàn về quan hệ giữa hai bên ngày 3.9.1990 tại Thành Đô.
Đây là lệnh triệu tập chứ không phải đề nghị. Trung Quốc ấn định ngày giờ, địa điểm và những ai sang Trung Quốc. Họ cũng buộc hai nhân vật quyền lực nhất chế độ, tổng bí thư đảng cộng sản và thủ tướng phải bỏ ngày quốc khánh Việt Nam để sang chầu. Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã có mặt tại thành Đô ngày 02.09.1990,ngày quốc khánh của chế độ CSVN. (Trong Hồi ức và suy nghĩ Trần Quang Cơ nói rằng phái đoàn Việt Nam đã đến Thành Đô ngày 02.09.1990 nhưng theo Trương Đức Duy viết trong một bài báo thì ba vị này ra đi ngày 03.09 chứ không phải 02.09).
Phái đoàn gồm Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười. Tháp tùng có Hồng Hà (chánh văn phòng Trung Ương đảng, Hoàng Bích Sơn (trưởng ban đối ngoại TƯĐ) và Đinh Nho Liêm.
Việt Nam chấp nhận giải pháp 6+2+2+2+1 mà Từ Đôn Tín đã từng đưa ra và Trần Quang Cơ thay mặt chính quyền Việt Nam bác bỏ. Trung Quốc bác giải pháp Đỏ. Lý Bằng nói: "trong tình hình hiện nay hai đảng cộng sản mà bắt tay nhau thì không có lợi".
Hôi nghị Thành Đô là bí mật trên nguyên tắc nhưng Trung Quốc gián tiếp hay trực tiếp thông báo cho nhiều nước trong khi Việt Nam tiếp tục giữ bí mật.
Bộ chính trị họp nhiều lần bàn cãi về chuyến đi này nhưng chỉ đến khóa họp ba ngày từ 15 đến 17.05.1991, khi thảo luận về chính sách đối ngoại cho đại hội VII, mới thảo luận kỹ. Buổi họp có Nguyễn văn Linh, Phạm văn Đồng, Võ Chí Công, Đỗ Mười, Võ văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sỹ Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình. Phạm Văn Đồng ân hận, Nguyễn Văn Linh nguỵ biện chạy tội. Đỗ Mười tiếc là đã không có Nguyễn Cơ Thạch cùng đi.
Trần Quang Cơ: "Cuộc gặp gỡ Thành Đô là một sai lầm hết sức đáng tiếc" " Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm họa diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Trung Quốc vừa bác đề nghị liên kết chống tư bản bảo vệ CNXH vừa tiết lộ cho các nước khác biết đề nghị của Việt Nam để cô lập Việt Nam.

05.09.1990: Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Cơ Thạch sang Phnom Penh thông báo kết quả hội nghị Thành Đô nhưng lại không nói là đã chấp nhận công thức 6+2+2+2+1 mà vẫn thuyết phục Hun Sen chấp nhận "giải pháp Đỏ". Lê Đức Anh: "Mỹ muốn xóa cộng sản. Nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất, phải tìm đồng minh, đồng minh là Trung Quốc".
Hun Sen bác giải pháp Đỏ.

19.09.1990: Báo Bangkok Post tiết lộ toàn bộ nội dung thỏa hiệp Thành Đô.
Hun Sen cho Nguyễn Cơ Thạch hay là Trung Quốc đưa toàn bộ băng ghi âm cuộc nói chuyện ở Thành Đô cho Hun Sen.
Theo Ngô Điền, đại sứ Việt Nam tại Campuchia, thì từ sau hội nghị Thành Đô chính quyền Hun Sen không còn tin tưởng Việt Nam nữa.

13.04.1991: BCT họp để thảo luận về đường lối đối ngoại chuẩn bị cho đại hội VII. Bất đồng ý kiến giữa bô ngoại giao và bộ quốc phòng. Bên ngoại giao ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đọc báo cáo "Tình hình thế giới và chiến lược đối ngoại của Đảng và nhà nước ta". Bên bộ quốc phòng Lê Đức Anh giới thiệu đại tá Lân cán bộ của Cục 2 trình bày báo cáo: "Tình hình thế giới và mưu đồ đế quốc". Theo ý kiến của cố vấn Phạm Văn Đồng BCT đồng ý ba ngành ngoại giao, quốc phòng và an ninh gặp nhau để "nhất trí về tình hình còn công tác thì mỗi ngành làm riêng".
Về sau Cục 2 bộ quốc phòng trở thành Tổng Cục 2 và không thấy đại tá Lân, tức Lân Thọt, xuất hiện nữa.

02.05.1991: Ba ngành ngoại giao, quốc phong và an ninh gặp nhau. Bên ngoại giao có ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và bốn thứ trưởng, bên an ninh có bộ trương công an Mai Chí Thọ, bên quốc phòng có Lê Đức Anh, Trần Văn Quang và đại tá Lân, bên ban đối ngoại TƯĐ có ba phó ban Nguyễn Thị Bình, Trịnh Ngọc Thái và Nguyễn Quang Tạo.
Trần Quang Cơ nhận định: "Thu hoạch của cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự nhất trí trong nhận định tình hình, chỉ nhất trí được mấy điểm lý luận chung chung.

15,16,17.05.1991: Một tháng trước đai hội 7, bộ chính trị họp để thảo luận về "dự thảo báo cáo về tình hình thế giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội 6 và phương hướng tới.
Bàn cãi gay go. Nguyễn Cơ Thạch "xin được nói thẳng" phe phán "hai ông anh" (Nguyễn Văn Linh và Phạm Văn Đồng) nhượng bộ "hơi sớm". Võ Văn Kiệt "Mình bị nó (Trung Quốc) lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc là cạm bẫy". Họp ba ngày không nhất trí. Nguyễn Đức Tâm kết luận: "Chưa làm dự thảo nghị quyết ngay được, (…) bộ chính trị còn khác nhau về đánh giá đúng thành tích, đúng bạn thù, đối sách. Tuy vậy vẫn phải có kết luận vì không còn thì giờ nữa. Bản kết luận chứa đựng rất nhiều điểm "có tranh luận" mà không có kết luận.
-diễn biến hòa bình và tụt hâu kinh tế nguy cơ nào lớn hơn? Đa số có vẻ tin rằng sức mạnh của một nước là an ninh quốc phòng chứ không phải là sức mạnh kinh tế , xã hội.
-Tập hợp lực lượng (chọn đồng minh) theo ý thức hệ hay theo lợi ích dân tộc?
-Mỹ đang mạnh hơn hay yếu đi?
-Thế giới đang tiến tới trật tự một cực (Mỹ là siêu cường duy nhất) hay trật tự đa cực?
-Tại sao các nước trong khu vực đều muốn Mỹ có mặt để bảo đảm ổn định trong khi Việt Nam lại coi Mỹ là mối đe dọa nguy hiểm nhất?
-Tại sao các nước trong khu vực đều lo ngại Trung Quốc trong khi Việt Nam lại muốn Trung Quốc là đồng minh chiến lược?
-Trong hai mặt của Trung Quốc, bành trướng bá quyền và xã hội chủ nghĩa mặt nào là chính?
-Mỹ cần Việt Nam để kiềm chế Trung Quốc hay Mỹ đặt quan hệ với Trung Quốc làm ưu tiên hàng đầu nên Mỹ sẵn sàng thí Việt Nam để làm vừa lòng Trung Quốc?
-Việt Nam có nên sớm gia nhập ASEAN không?

17-27.06.1991: Đại hội VII ĐCSVN
Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư.
Lê Đức Anh: Uỷ viên thường trực bộ chính trị kiêm bí thư trung ương phụ trách ba ngành quốc phòng, ngoại giao và an ninh, đồng thời là chủ tịch nước.
Võ Văn Kiệt, thủ tướng.
Đào Duy Tùng thường trực ban bí thư,
Võ Nguyên Giáp ra khỏi BCH TƯ
Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi bộ chính trị.
Bộ chính trị gồm: Đỗ Mười ; Lê Đức Anh ; Võ Văn Kiệt ; Đào Duy Tùng; Đoàn Khuê; Vũ Oanh; Lê Phước Thọ; Phan Văn Khải; Bùi Thiện Ngộ; Nông Đức Mạnh; Phạm Thế Duyệt ; Nguyễn Đức Bình; Võ Trần Chí ; Lê Khả Phiêu (bổ sung từ tháng 12-1993); Đỗ Quang Thắng (bổ sung từ tháng 12-1993); Nguyễn Mạnh Cầm (bổ sung từ tháng 12-1993); Nguyễn Hà Phan (bổ sung từ tháng 12-1993).
Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Lê Phước Thọ, Nguyễn Hà Phan, Lê Khả Phiêu đồng thời cũng là thành viên ban bí thư.

28.07.1991: "Đoàn đại diện đặc biệt của Đảng CSVN", gồm Lê Đức Anh, Hồng Hà (bí thư TƯĐ phụ trách đối ngoại) và Trịnh Ngọc Thái (phó ban đối ngoại TƯĐ) sang Bắc Kinh thông báo về kết quả đại hội VII.
Theo Trần Quang Cơ, mặc dù mục đích chính thức của đoàn là để gặp lãnh đạo cao cấp Trung Quốc nhưng Lê Đức Anh (chủ tịch nước) và Hồng Hà (trưởng ban đối ngoại trung ương đảng) đã xin gặp Từ Đôn Tín (phụ tá ngoại trưởng) tới hai lần để tạ tội bất kính trong chuyến viếng thăm Việt Nam năm trước của Từ Đôn Tín mặc dù chính Từ Đôn Tín đã xấc xược chứ không phải Nguyễn Cơ Thạch. Lê Đức Anh nói : "Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang Việt Nam đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra…"
Để dự trù cho cuộc thảo luận cấp thứ trưởng Việt Trung sắp tới Hồng Hà hỏi Từ Đôn Tín : "Tôi muốn hỏi đồng chí phương hướng giải quyết nên như thế nào để chúng tôi có thể góp phần đạt kết quả tốt?". Xin lệnh đối phương trước khi thương thuyết!

04.08.1991:Sau khi từ Bắc Kinh về. Lê Đức Anh và Hồng Hà gặp Trần Quang Cơ và Nguyễn Dy Niên (thứ trưởng ngoại giao, người sắp sang Bắc Kinh đàm phán).
Trần Quang Cơ thông báo rằng đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh vừa điện về báo tin cuộc đàm phán cấp thứ trưởng sẽ chỉ có một ngày thay vì ba ngày như dự trù. Bắc Kinh chỉ muốn áp đặt chứ không muốn thảo luận.
Hồng Hà nói: "Trung Quốc lo cho cuộc đàm phán thất bại. Họ muốn bình thường hóa quan hệ với ta nên họ lo".
Trần Quang Cơ: "Về mặt này thì phải nói là Việt Nam lo hơn vì Việt Nam mót bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc hơn".

23.10.1991: Ký kết hiệp định Paris về Campuchia với nội dung rất gần với yêu cầu của Trung Quốc và các nước phương Tây.

05.11.1991: Tổng bí thư Đỗ Mười và thủ tướng Võ Văn Kiệt sang Bắc Kinh đánh dấu sự bình thường hóa, Trần Quang Cơ gọi là sự lệ thuộc hóa đối với Trung Quốc.


1992: Bill Clinton đắc cử tổng thống Mỹ. Mỹ giảm sự hiện diện quân sự tại Châu Á – Thái Bình Dương. Chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (mở cửa kinh tế nhưng vẫn duy trì độc tài đảng trị) của Trung Quốc mà Việt Nam cố bắt chước không gặp khó khăn.

11.07.1995: Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ.

28.07.1995: Việt Nam gia nhập khối ASEAN

31.12.1999: Việt Nam và Trung Quốc ký hiệp định biên giới Việt – Trung trên đất liền. Ngày 20.06.2000 Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn. Hai nước đã hoàn tất việc cắm mốc biên giới.

25.12.2000: Việt Nam và Trung Quốc ký hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và hiệp định hợp tác nghề cá. Ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc hội Việt Nam khoá XI thông qua hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và lễ trao đổi văn thư phê chuẩn đã diễn ra ngày 30 tháng 6 năm 2004

03-11.01.2001: Tại đại hội toàn quân chuẩn bị cho đại hội 9 cuả ĐCSVN Lê Đức Anh đã tố cáo Lê Khả Phiêu (tổng bí thư ĐCSVN từ 1998) là trong lúc đi Trung Quốc đàm phán với Giang Trạch Dân đã dâng đất cho Trung Quốc, không đem theo ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm để dễ "thậm thụt". Nguyễn Chí Trung, thiếu tướng, trợ lý của Lê Khả Phiêu biện hộ cho Lê Khả Phiêu như sau:
-Về nhượng đất: "Ta thỏa thuận chữa lại cột mốc biên giới ở…do Trung Quốc yêu cầu, họ lập luận trước kia do công nhân đưa cột mốc không tới đỉnh núi đành bỏ lại sườn núi, bây giờ đưa cột mốc lên đỉnh núi".
-Về sự vắng mặt của ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm trong phái đoàn đàm phán biên giới: "Cầm không dự vì không đúng thành phần do Trung Quốc quyết định".

11.01.2007: Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (WTO). Trung Quốc gia nhập ngày 11.12.2001. Việt Nam đã có thể gia nhập năm 1998 nhưng giờ chót đã đổi ý mà không đưa ra lý do nào. ĐCSVN không cải chính dư luận cho rằng Việt Nam không dám gia nhập WTO trước Trung Quốc.






1 comment:

View My Stats