Lê
Nguyên
24/05/2014
Văn
hóa Nghệ An: Tình hình đất nước ta đang có không ít khó khăn.
Vấn đề cơ bản nhất, khó khăn nhất là phải đối phó với chủ nghĩa bành trướng Đại
Hán của nhà cầm quyền Trung Quốc. Họ đang có nhiều âm mưu, thủ đoạn vừa tinh
vi, xảo quyệt, vừa trắng trợn, lỗ mãng nhằm thôn tính Biển Đông và các quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Làm gì và làm như thế nào để bảo vệ chủ quyền
của đất nước? Đây đang là mối quan tâm của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Bài
phân tích tình hình của Lê Nguyên mà chúng tôi giới thiệu là một trong nhiều ý
kiến để bạn đọc tham khảo. Đây là ý kiến của cá nhân Lê Nguyên, không phải là
quan điểm của VHNA.
---------------------
Nếu lấy cái mốc 2007-2008 là thời điểm có những sự
kiện quan trọng mang tính bước ngoặt – trong nước, năm 2007, lần đầu tiên có sự
bùng nổ các phong trào biểu tình chống Trung Quốc vốn kết tụ từ những âm ỉ
trước đó, và trong quan hệ với quốc tế, từ năm 2008, Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của WTO – thì có thể thấy trong vòng dăm năm trở lại đây, Việt
Nam đang dần tiến tới một khúc quanh quan trọng mang tính quyết định cho vận
mệnh của chính mình. Nếu đặt Việt Nam giữa các “ông lớn” trên bàn cờ thế giới
hiện nay và thu gọn lại thành một quan hệ tay ba Việt Nam – Trung Quốc – Hoa Kỳ
thì có thể công thức hóa khúc quanh quan trọng này dưới dạng các câu hỏi mang
tính chiến lược, và việc lựa chọn đáp án nào sẽ mang tính quyết định cho vị thế
của Việt Nam trên sân khấu chính trị châu Á – Thái Bình Dương cũng như thế giới
nói chung:
1. Đi gần hơn nữa với Trung Quốc trên mặt trận chống
lại sức ảnh hưởng (ảnh hưởng vốn có và nỗ lực ảnh hưởng trở lại mang tính chiến
lược) của Mỹ?
2. Cố gắng giữ thăng bằng, hay là đu dây, giữa các
cường quốc mà đặc biệt là giữa hai gã khổng lồ của thế kỉ 21 là Mỹ và Trung
Quốc?
3. Trở thành đồng minh với Mỹ trong nỗ lực ngăn chặn
Trung Quốc?
Thực ra đã có nhiều bài báo từ nhiều phía, nhiều lực
lượng khác nhau trực tiếp hoặc gián tiếp cổ xuý và vận động cho từng đáp án
này. Trước hết đánh giá một cách sơ bộ về 3 câu hỏi: câu 1 dường như ít có khả
năng xảy ra, bất chấp những cáo buộc, đôi khi là cực đoan, của các tiếng nói
bất mãn trong và ngoài nước trước những phản ứng có vẻ như quá nhu của Việt Nam
trước các động thái của Trung Quốc trong thời gian gần đây. Ngoại trừ những
tuyên bố phần nhiều là có tính toán về mặt ngoại giao và thường được để cho
giới lãnh đạo cấp cao Việt Nam về bên Đảng lên tiếng, cộng với những tuyên bố
vừa cứng rắn, dọa dẫm, vừa phủ dụ lôi kéo của phía Trung Quốc được thể hiện qua
tờ Hoàn cầu Thời báo, thì khó có thể tưởng tượng được kịch bản 1 này lại được
Việt Nam lựa chọn. Hai lựa chọn còn lại (giữ thăng bằng, đu dây, hay liên minh
với Mỹ) thường gây nhiều tranh cãi nhất, và sẽ là trọng tâm mà tôi phân tích ở
đây.
Do vậy, trong bài báo này tôi sẽ đặt mối quan hệ này
vào một bối cảnh rộng hơn với việc khu biệt hoá thành 6 lực lượng trên sân khấu
chính trị châu Á – Thái Bình Dương hiện nay: 1/ Việt Nam – 2/ Trung Quốc – 3/
Hoa Kỳ - 4/ Đông Nam Á – 5/ Các cường quốc bậc trung hoặc từng là siêu cường có
mối ràng buộc gần với những động thái giữa ba bên (Việt – Trung – Mỹ) bao gồm
Ấn Độ, Nhật, Hàn Quốc, Australia, và Nga – 6/ Liên Âu và phần còn lại của thế
giới nói chung. Sau khi phân tích những vấn đề nội tại trong sự phát triển của
Việt Nam và mối quan hệ giữa Việt Nam với các lực lượng còn lại, tôi sẽ cố gắng
đi tới câu trả lời là một lựa chọn nước cờ cho Việt Nam.
Về cơ bản, mối tương tác giữa các lực lượng nêu trên
là mối tương tác dựa trên sự ràng buộc giữa giá trị và lợi ích. [i] Mối quan hệ
giữa Việt Nam với các lực lượng còn lại do vậy cần được các nhà hoạch định
chính sách nhìn nhận trong mối tương tác giữa giá trị và lợi ích này. Trong
điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng vào một thế giới toàn cầu hóa, không quá
khó để xác định và đánh giá bình diện giá trị: đó là các giá trị về tự do, dân
chủ và luật chơi quốc tế. Đó là các yếu tố cần thiết vừa đem lại chính “giá
trị” và “lợi ích” cho người dân trong nước, vừa tạo nên “quyền lực mềm” cho
quốc gia với tư cách là một đối thủ trong cuộc chơi toàn cầu. Bình diện còn
lại, “lợi ích,” mới là yếu tố khó giải quyết vì bản chất của con người – xét ở
cấp độ cá nhân cũng như một thực thể lớn hơn và trừu tượng hơn là quốc gia – là
lòng tham. Lòng tham này được kích thích hay chế ngự dựa vào các yếu tố, thứ nhất
là thực lực của bản thân từng đối thủ, và thứ hai là các “giá trị.” Nếu một lực
lượng nào đó trên bàn cờ chính trị này bị chi phối quá lớn bởi bình diện “lợi
ích” và bất chấp cả bình diện “giá trị,” lúc đó tất yếu nảy sinh mâu thuẫn và
xung đột với các lực lượng còn lại. Các thế lực có thực lực yếu hơn, do vậy
thường nhấn mạnh bình diện “giá trị,” dựa vào “giá trị” để bảo vệ mình, tất
nhiên đồng thời với đó là tranh thủ thời gian để phát triển thực lực, tăng sức
mạnh thực tế hỗ trợ cho cuộc cạnh tranh.
Trong thời gian qua, có thể quan sát thấy Việt Nam
đã có những bước đi khá khôn ngoan và đúng hướng trong việc nhấn mạnh “giá trị”
đồng thời ra sức củng cố và phát triển thực lực của mình. Bên cạnh việc mua sắm
thêm nhiều vũ khí hiện đại để xây dựng một lực lượng quân đội ngày càng tinh
nhuệ như là những biểu hiện cụ thể nhất của việc phát triển thực lực, ít nhất
là đủ sức răn đe đối thủ, việc Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu thông qua luật biển
vào cuối tháng 6 vừa rồi với những điều chỉnh cho phù hợp hơn với luật quốc tế,
chính là những điều chỉnh khôn ngoan để phát triển bình diện “giá trị,” tranh
thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Đó chính là những động tác cụ thể trong chiến lược
xây dựng và bảo vệ đất nước thực hiện theo nguyên tắc tự lực tự cường mà Việt
Nam đã quá thấm thía trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Song đặt trong bối
cảnh toàn cầu hoá, cộng với một thực tế là thực lực của mình còn rất yếu nếu so
sánh với Trung Quốc sát cạnh như một gã khổng lồ và tham lam, những động tác
trên là không đủ nếu thiếu đi những tương tác với các lực lượng bên ngoài còn
lại trong sơ đồ nêu trên. Vấn đề cần đặt ra, do vậy, là phải đánh giá được “giá
trị,” “lợi ích” và ý đồ của mỗi thế lực nêu trên trong cuộc chơi để từ đó có
những bước đi hợp lí trong quan hệ với từng đối tượng.
Cho đến thời điểm này thì có thể nói không quá khó
để nhận ra ý đồ, tham vọng của từng bên trong mối quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc. Với Việt Nam, trước hết là bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình theo
đúng quy định của luật quốc tế về phạm vi 200 hải lí của khu vực đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa của Việt Nam; tiếp theo, bảo vệ phần đảo (Hoàng Sa và Trường
Sa) mà mình đã chiếm hữu và quản lí liên tục trong lịch sử. Với Trung Quốc,
hiện tại khó có thể dám phiêu lưu vào một xung đột quân sự trên biển Đông, song
tham vọng lợi ích của nó đã quá rõ ràng: quyết tâm cướp đoạt Hoàng Sa và Trường
Sa, biến 80% diện tích biển Đông thành cái ao nhà của mình, từ đó thực hiện
tham vọng lớn hơn: dùng biển Đông làm bàn đạp tiến ra xưng hùng với thế giới.
Do vậy, trong mối quan hệ trực tiếp với Trung Quốc,
bên cạnh gấp rút trở thành một thực lực đủ mạnh về kinh tế lẫn quốc phòng, Việt
Nam cần phải cho Trung Quốc thấy giới hạn của sự hòa hiếu và tính nguyên tắc
trong việc quyết tâm bảo vệ chủ quyền của mình. Bên cạnh một số chiến lược đã
và đang được các nhà lãnh đạo Việt Nam thực hiện như chiến lược “nhím xù lông”,
chiến lược “chống tiếp cận”, Việt Nam cần phải sử dụng đa dạng các phương cách
khác nhau như ngoại giao nhân dân, ngoại giao đa phương, tranh thủ nước lớn và
cộng đồng quốc tế. Đặc biệt Việt Nam có thể sử dụng truyền thông và tiếng nói
của các học giả để nói cho Trung Quốc hiểu rằng Việt Nam sẵn sàng chiến đấu đến
cùng một khi bị dồn đến chân tường, rằng gây sự với Việt Nam, Trung Quốc có thể
lặp lại sai lầm trong lịch sử: 600 năm trước, bại trận ở Việt Nam đã khiến nhà
Minh phải co về cố thủ nội địa và từ bỏ mộng vươn ra đại dương của mình. Lần
này cũng vậy, sa lầy vào một xung đột quân sự lâu dài với Việt Nam có thể sẽ
khiến Trung Quốc trở nên khốn đốn và tan tành mộng bá chủ toàn cầu.
Trong quan hệ giữa Việt Nam với lực lượng ngoài
Trung Quốc, lực lượng số 6, tức “EU và phần còn lại của thế giới nói chung”, là
ở xa nhất và có tác động ít trực tiếp nhất. Song EU với tư cách là một thực thể
kinh tế quan trọng và cái nôi của các giá trị toàn cầu như tự do, dân chủ, vai
trò của nó cũng không hề nhỏ. Về mặt kinh tế, có thể thấy sự ràng buộc rất lớn
giữa EU như là một khu vực đang phải đối diện với những khó khăn rất lớn về
kinh tế, và Trung Quốc như là một thế lực kinh tế mới nổi, có dự trữ ngoại tệ
rất lớn và một công xưởng sản xuất hàng hóa cho toàn thế giới. Sự phụ thuộc về
mặt kinh tế, tài chính của EU và Trung Quốc là điều có thể trông thấy rõ, song
không vì thế mà Trung Quốc có thể hoàn toàn khuất phục được EU trong việc ủng
hộ các tham vọng quá đáng về lợi ích của mình. Bên cạnh đó, các nước EU cũng
ngày càng tỏ ra e ngại Trung Quốc không chỉ như một thế lực hung hãn đang trỗi
dậy, mà còn vì bản chất của nó là một sự kết hợp giữa nền toàn trị phi dân chủ với
một chủ nghĩa tư bản hoang dã sẵn sàng vi phạm các cam kết về an toàn thực phẩm
cũng như về luật lệ quốc tế và về nhân quyền nói chung chỉ để thực hiện các
tham vọng lợi ích của mình. Do vậy, trong mối quan hệ với lực lượng này (EU và
phần còn lại của thế giới nói chung), Việt Nam cần có những cải cách mạnh mẽ
hơn nữa về kinh tế và chính trị để biến mình thành một địa chỉ hấp dẫn cho quan
hệ kinh tế với EU, xây dựng sự ràng buộc lợi ích lớn hơn giữa hai bên. Những
cải cách về chính trị cũng là để đi gần hơn với EU và tranh thủ sự ủng hộ của
EU trên bình diện “giá trị”.
Trong mối quan hệ với lực lượng EU và phần còn lại
của thế giới nói chung, Việt Nam cần có những cải cách mạnh mẽ hơn nữa về kinh
tế và chính trị để biến mình thành một địa chỉ hấp dẫn cho quan hệ kinh tế với
EU, xây dựng sự ràng buộc lợi ích lớn hơn giữa hai bên. Những cải cách về chính
trị cũng là để đi gần hơn với EU và tranh thủ sự ủng hộ của EU trên bình diện
“giá trị”.
Các cường quốc bậc trung trong vùng (Ấn Độ, Nhật,
Hàn Quốc, Australia, và Nga) ở các mức độ khác nhau đều có xung đột về lợi ích
với Trung Quốc và ngày càng cảnh giác trước một Trung Quốc hung hãn. Nhật, Hàn
Quốc, Australia và ở một góc độ nào đó là Ấn Độ, đều là đồng minh của Mỹ. Tuy
có thể không nói ra trực tiếp, song kiềm chế một nước Trung Quốc độc đảng và
tham lam đều là mục tiêu chung của các quốc gia này dưới sự dẫn dắt của Mỹ.
Trường hợp của Nga có phức tạp hơn. Nga từng là siêu cường một thời, song với
tình hình hiện thời, uy thế ngày xưa đã mất cũng như mối ràng buộc quyền lợi
của Nga với Việt Nam và vùng Đông Nam Á không còn trực tiếp thiết thân như xưa,
cho nên trong bài toán Việt – Trung hiện nay, tạm thời có thể xếp Nga vào nhóm
các cường quốc bậc trung trong vùng này. Nga có quan hệ lợi ích kinh tế mật
thiết với Trung Quốc và có thể liên minh tạm thời với Trung Quốc để kiềm chế
Mỹ. Song về lâu dài, Nga không thể trở thành đồng minh với Trung Quốc và vẫn
luôn cảnh giác với Trung Quốc, không muốn Trung Quốc vươn lên lãnh đạo thế
giới. Xét về bình diện“giá trị”, dù hiện thời chính quyền Putin có là một chế
độ độc tài được bọc ngoài bởi một lớp nhung dân chủ, thì về lâu dài, xã hội –
văn hóa Nga vẫn gần gũi Mỹ – Âu hơn là với Trung Quốc. Chiến lược của Việt Nam
do vậy phải không ngừng củng cố quan hệ kinh tế và chính trị với các cường quốc
này, lôi kéo các cường quốc này can dự sâu hơn vào vấn đề biển Đông, tăng cường
sự ràng buộc về mặt lợi ích với các nước, đồng thời cần cải cách chính trị,
phát huy tự do dân chủ để tranh thủ sự ủng hộ của các cường quốc này trên bình
diện “giá trị”.
Thực ra hai lực lượng khó giải quyết nhất chính lại
là ASEAN và một phần nào đó là Mỹ. Với ASEAN, trước hết phải có những phương
thức ngoại giao khác nhau để các nước trong khối thấy được yêu cầu đoàn kết để
tiếng nói chung bởi Trung Quốc sẽ là một thế lực có tiềm năng gây nguy hại
không chỉ với những nước có can hệ trực tiếp về mặt lợi ích với Trung Quốc, mà
còn đối với cả khu vực và thậm chí là cả khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Song, đối phó với việc Trung Quốc đang dùng quyền lực của cơ bắp lẫn đồng tiền
để khiến ASEAN phải thúc thủ, Việt Nam không thể đủ tài chính và cơ bắp để chạy
đua theo cách đó với Trung Quốc. Một chiến lược thu phục lâu dài đối với các
nước ASEAN mà Việt Nam cần tạo ra phải là sự thu phục bằng quyền lực mềm, bằng
“giá trị”. Muốn làm được điều đó, bản thân Việt Nam phải chứng tỏ mình sẵn sàng
tạo nên và đi theo các “giá trị” ấy, thông qua đó tác động lên những nước đang
hoặc có nguy cơ rơi vào vòng tay Trung Quốc, giúp các nước cảnh giác trước
những mối lợi trước mắt do Trung Quốc đem lại, và nhận ra rằng các bình diện
“giá trị” như tự do, dân chủ, pháp quyền là cái đích tất yếu cần phải đi đến để
đảm bảo một sự phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, giúp mỗi quốc gia kia tự
xây dựng nên “sức đề kháng” đối với một gã láng giềng khổng lồ, độc tài và tham
lam.
Song những diễn biến căng thẳng của diễn đàn khu vực
ASEAN lần thứ 19 vừa diễn ra tuần rồi với sự thất bại của cả khối không đưa ra
được tuyên bố chung buộc các nhà lãnh đạo Việt Nam phải thấy rằng với toàn bộ tính
chất phức tạp về lịch sử, tôn giáo, chính trị, địa dư, … giữa 10 nước, phải mất
một thời gian khá dài, có thể lên tới tầm ít nhất vài thập kỉ, thậm chí là nửa
thế kỉ nữa thì ASEAN mới có thể tạo ra được một sự thống nhất như của châu Âu
hiện thời. Dựa vào ASEAN là cần thiết nhưng không đủ, đặc biệt không kịp cho
diễn tiến phát triển dồn dập của bàn cờ chính trị khu vực, và cho những tình
huống cấp bách có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Con bài chốt, chung quy lại,
không ai khác, chính là Mỹ.
Với Mỹ, bên cạnh sự khó khăn mà nền kinh tế khổng lồ
này đang gặp phải, sự phụ thuộc về mặt kinh tế vào Trung Quốc, Mỹ còn tỏ ra e
dè ngại va chạm với Trung Quốc phần nhiều vì những lý do lịch sử: những va chạm
và thất bại của Mỹ ở Đông Á (chiến tranh Triều Tiên) và Đông Nam Á (chiến tranh
Việt Nam) trong thế kỉ 20 luôn luôn nằm trong thế kình địch với Trung Quốc. Đó
vẫn là những vết thương lịch sử khiến Mỹ thận trọng và cân nhắc kỹ cho mỗi hành
động trong hiện tại. Trong mối quan hệ Việt – Mỹ, hai bên đã có những bước tiến
dài đáng kinh ngạc sau khi bình thường hóa vào năm 1995, song mối nghi kị lẫn
nhau vẫn chưa phải là hoàn toàn chấm dứt. Mỹ với tư cách là lãnh đạo của thế
giới tự do, ở một mức độ nào đó hẳn vẫn còn cái nhìn nghi ngại về Việt Nam.
Ngược lại, Việt Nam hẳn cũng vẫn còn nghi ngại Mỹ rất nhiều vì vẫn chưa quên
nỗi đau về việc bị các cường quốc trong thế kỉ 20 thỏa hiệp trên lưng mình,
trong đó có Mỹ. Song, quá khứ là bài học cần phải nhớ để rút ra kinh nghiệm cho
bài toán hiện tại và tương lai; trong khi đó, xét trên tổng thể, chỉ có Mỹ là
lực lượng duy nhất có thể làm đối trọng với Trung Quốc hiện nay.
Như vậy, qua sự phân tích các bình diện “giá trị”,
“lợi ích” và ý đồ của từng lực lượng trong sơ đồ trên, có thể đi đến một nhận
định: bài toán then chốt nhất trong số các bài toán trên là phát triển mối quan
hệ với Mỹ, lấy Mỹ làm đối trọng chính hỗ trợ cho sự đương đầu với Trung Quốc.
Và trước hết, vấn đề then chốt trong bài toán then chốt cần giải này là phải cố
gắng xoá tan sự nghi ngại đến từ cả hai phía, xây dựng và phát triển lòng tin
lẫn nhau.
Làm thế nào để đạt được điều đó? Câu trả lời là:
phải làm thế nào để cho hai bên tương hợp về “giá trị” và “lợi ích.” Tương hợp
về “lợi ích” gần như đã không cần bàn cãi: bên cạnh yếu tố kinh tế thì xét về
mặt địa – chính trị chiến lược, trong khi Việt Nam cần Mỹ làm đối trọng với
Trung Quốc, Mỹ cũng rất cần Việt Nam như là một mắt xích quan trọng trong việc
thực hiện kiềm chế tham vọng của Trung Quốc để cố gắng giữ ngôi vị bá chủ và
tham vọng toàn cầu của mình.
Sự “quyền biến” của Mỹ trong mối quan hệ với hai
nước đồng minh của mình là Nhật Bản với Phillipines trong cuộc đối đầu với
Trung Quốc vừa qua đưa ra cho Việt Nam những bài học quan trọng: Mỹ sẵn sàng
“cắt nghĩa” bản hiệp ước an ninh với Nhật theo hướng có lợi cho Nhật, tuyên bố
có trách nhiệm bảo vệ quần đảo Senkaku (mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư Đài) cho
Nhật bởi một thực tế thấy rõ là Nhật có thực lực. Trong khi đó, tình hình ngược
lại với Phillippines trong vụ xung đột ở bãi đá ngầm Scarborough bởi thực lực
của nước này quá yếu, đặc biệt là về mặt quân sự – quốc phòng.
Những cố gắng trong việc giữ thăng bằng giữa hai
cường quốc Mỹ và Trung Quốc, kéo các cường quốc khác tham gia vào cuộc chơi để
tăng thanh thế cho bản thân, đồng thời bên cạnh đó là những bước đi thận trọng,
kín đáo ngày càng gần gũi hơn với Mỹ, là những nước đi khôn ngoan của các nhà
lãnh đạo Việt Nam. Song một vấn đề chiến lược quan trọng mà các nhà lãnh đạo
Việt Nam phải thống nhất được với nhau, đó là giữ mối cân bằng này đến mức nào,
đằng sau mối cân bằng này là mục tiêu chiến lược nào cần hướng đến. Liệu mối
cân bằng này có duy trì mãi được không? Và quan trọng hơn, liệu mối cân bằng
này có là giải pháp tối ưu hỗ trợ Việt Nam trong cuộc đối đầu với Trung Quốc
hay không? Nếu câu trả lời là “không” thì lãnh đạo Việt Nam phải trả lời tiếp
câu hỏi: Vậy phải xây dựng mối quan hệ với Mỹ đến mức độ nào mới đủ sức làm
thoái lui dã tâm của Trung Quốc và trong tình huống khẩn cấp xảy ra (một cuộc
xung đột vũ trang chẳng hạn) thì lập tức có ngay lực lượng hỗ trợ đủ mạnh để
đập tan ý chí của Trung Quốc? Trả lời câu hỏi này đồng nghĩa với việc các Việt
Nam cần phải xác quyết một mục tiêu chiến lược rạch ròi, phải thống nhất được
với nhau và quyết tâm đi tới mục tiêu đó. Mục tiêu đó là gì?
Dự đoán chính trị là một điều rất khó. Trong khoa
học chính trị, người ta thường đưa ra các dự báo dựa trên các biến thiên (tham
số) là các hành động của mỗi bên trong cuộc chơi chung, theo công thức: nếu các
tham số a, b thì sẽ cho ra kết quả X; nếu các tham số là c, d thì sẽ cho ra kết
quả Y. Trong bài toán đang đặt ra cho Việt Nam ở đây cũng vậy. Một kịch bản tốt
đẹp và có phần lí tưởng là Trung Quốc sẽ gạt bỏ “lợi ích” của mình để tuân theo
“giá trị” chung; lúc đó chiến lược giữ thăng bằng của Việt Nam hẳn tiếp tục phát
huy tác dụng. Song dựa trên các dữ kiện lịch sử với các tham số như chủ nghĩa
dân tộc của người Trung Quốc và chủ nghĩa bành trướng đại Hán cũng như diễn
biến dồn dập và căng thẳng gần đây, rõ ràng kịch bản trên khó lòng xảy ra.
Trung Quốc có vẻ không sẵn sàng từ bỏ “lợi ích” của mình và đồng thời có vẻ
không còn che giấu cho tham vọng soán ngôi bá chủ toàn cầu. Do vậy Việt Nam
cũng phải sẵn sàng các bước đi cần thiết cho chiến lược của mình trong cuộc
chơi này. Theo đó, Việt Nam cần tiếp tục cố gắng giữ thăng bằng trong chừng mực
còn thấy nó cần thiết, trong khi đó phải luôn tỉnh táo quan sát và dự báo động
thái của đối thủ. Đồng thời, bằng các cách thức không khoa trương gây ồn ào và
khó chịu không cần thiết cho đối thủ, Việt Nam càng thân thiết với Mỹ càng tốt
để làm sao có thể thiết lập một mối quan hệ Việt – Mỹ có tính đồng minh không
chính thức hay có thể gọi là đồng minh dự bị, chẳng hạn như mối quan hệ giữa Mỹ
và Singapore hiện nay. Mối quan hệ đồng minh dự bị có sự ràng buộc cần thiết
nhất định nào đó về mặt hỗ trợ quân sự giữa hai bên, đồng thời nó có tính bước
đệm cho một quan hệ đồng minh chính thức khi cần thiết.
Song vấn đề đặt ra là trong khi khéo léo giữ mối
thăng bằng, phải làm sao để cho các bước đi này có tiến độ nhanh hơn. Để đạt
được tiến độ cần thiết cũng như là một mục tiêu chiến lược cần hướng đến, Việt
Nam còn nhiều việc cần phải làm. Xét từ mối quan hệ giữa “giá trị” và “lợi ích”
mà tôi nêu trên, rõ ràng lời giải là phải làm cho “giá trị” và “lợi ích” giữa
hai bên trở nên tương hợp. Mỹ kêu gọi Việt Nam tham gia vào TPP và Việt Nam đã
có phản hồi tích cực, sẵn sàng tham gia, đó là những bước đi rất quan trọng và
hữu ích. Mỹ cũng nên có một số hành động mang tính biểu tượng, chẳng hạn hủy bỏ
lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam để thứ nhất, thể hiện sự hợp tác
toàn diện về mặt quân sự; thứ hai, nó như là một sự khuyến khích động viên cho
Việt Nam tiếp tục cải cách; và thứ ba, rõ ràng Mỹ cũng thu được mối lợi của
việc xuất khẩu vũ khí mà lâu nay, bất chấp lệnh cấm trên của Mỹ, Việt Nam vẫn
có nguồn cung ứng hữu hiệu từ Nga.
Song mong muốn là một chuyện, thực tế lại là chuyện
khác và phức tạp hơn nhiều. Không phải cứ muốn kết ước đồng minh là lập tức có
thể đặt bút kí kết ước đồng minh. Bên cạnh việc phải có những nước đi khéo léo
và tiệm tiến, tránh gây sốc cho một Trung Quốc khổng lồ ngay sát bên, thì còn
một trở ngại khác quan trọng hơn cần phải giải quyết: dù sao đi nữa cũng khó có
thể tưởng tượng được việc Mỹ lại có một đồng minh là một quốc gia cộng sản và
là kẻ thù cũ của nhau. Đó là những trở ngại khó vượt qua cho việc đi đến kết
ước đồng minh. Nhưng nếu cả hai bên cùng có thiện chí trên tinh thần tôn trọng
lẫn nhau thì vẫn có thể đạt được mục đích. Phạm vi bài viết này không cho phép
bàn quá rộng, song có thể dễ dàng đồng ý với nhau là nền kinh tế phát triển
mạnh và vững chắc, bền vững chỉ khi được hỗ trợ bởi một thể chế dân chủ, và sự
vững mạnh về kinh tế phải đi kèm với sự giàu có, sự tự do và các giá trị dân
chủ cho mỗi người dân.[ii] Nếu bước đi này xảy ra, Mỹ có thể (và nên) phản hồi
theo hướng tích cực là hình thành một quan hệ đồng minh dự bị với Việt Nam để
khi chín muồi, mối quan hệ đồng minh dự bị này có thể dễ dàng phát triển ở mức
cao hơn.
Một khi đã phân tích thấu đáo từng lực lượng trên
bàn cờ chính trị thế giới, dự đoán các kịch bản khác nhau cho cuộc chơi này, từ
đó xác quyết cho mình chiến lược cần theo đuổi và cái đích cần đi tới, thì việc
đạt được kết quả hay không chỉ còn phụ thuộc vào ý chí và sự khôn ngoan của các
nhà lãnh đạo Việt Nam. Một điều tưởng đã nhàm, song chung quy lại, rõ ràng cái
cần phải làm ngay và làm xuyên suốt, vẫn là tiếp tục dân chủ hoá đất nước, xây
dựng một nhà nước pháp quyền thực sự với một thể chế tam quyền phân lập. Đó là
điều cần thiết để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh đặng theo đuổi triết lí
tự lực tự cường đã được đúc rút qua chiều dài lịch sử chống ngoại xâm.
L.N.
Nguồn: Văn hóa Nghệ An (bài đã bị
rút xuống)
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:55
No comments:
Post a Comment