Lê Trung
Tĩnh (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông)
06/05/2014
Ngày 19/1 năm 2014 đánh dấu 40 năm ngày Trung Quốc
sử dụng vũ lực xâm chiếm hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. 40 năm qua,
một phần lãnh thổ của Việt Nam bị chiếm đóng bất hợp pháp.
Không chỉ chiếm đóng các đảo, Trung Quốc còn tham
vọng áp đặt quyền chủ quyền lên các vùng biển quanh Hoàng Sa. Từ đầu năm 2014,
với “Biện pháp thực hiện Luật ngư nghiệp Trung Quốc của tỉnh Hải Nam”, các cơ
quan chấp pháp trên biển của Trung Quốc đã liên tục bắt giữ, xua đuổi, đối xử
vô nhân đạo với ngư dân Việt Nam hoạt động trong ngư trường truyền thống hàng
trăm năm nay ở quần đảo Hoàng Sa. Và mới đây nhất là việc Trung Quốc đưa giàn
khoan HD 981 vào trong vùng biển gần Hoàng Sa và ngay trong vùng Đặc quyền Kinh
tế của Việt Nam, càng khẳng định rõ tham vọng trên của nước này.
Nhiều ý kiến trong và ngoài Việt Nam gần đây nêu vấn
đề Việt Nam cần thách Trung Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra phân xử bởi một cơ
quan trọng tài quốc tế[1]. Các lý do đưa ra là việc giải quyết
tranh chấp bằng con đường đàm phán song phương không mang lại kết quả, vì Trung
Quốc không chấp nhận có tranh chấp trên quần đảo này. Nếu để lâu hiện trạng như
vậy sẽ càng ngày bất lợi cho Việt Nam.
Một câu hỏi quan trọng mà chúng ta cần phải trả lời
là: Trung Quốc sẽ trả đũa về kinh tế như thế nào nếu Việt Nam thách Trung Quốc
ra trọng tài quốc tế về vấn đề Hoàng Sa nói riêng, hay rộng ra là nếu Việt Nam
tham gia vào một tiến trình yêu cầu phán xử của một trọng tài quốc tế về các
tranh chấp trên Biển Đông?
Bài viết góp phần trả lời câu hỏi trên bằng cách
phân tích mối quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước, dự đoán các
phản ứng trả đũa có thể của Trung Quốc trong ngắn hạn cũng như dài hạn, vĩ mô
cũng như vi mô. Bài viết cũng nêu lên ảnh hưởng của các trả đũa này đối với
kinh tế Việt Nam, từ đó đề nghị những biện pháp chuẩn bị, đối phó.
1.
Tác động đối với cán cân thương mại Việt Nam - Trung Quốc
Để dự đoán các trả đũa có thể của Trung Quốc về kinh
tế, cần hiểu về quan hệ thương mại Việt-Trung.
Đối với Trung Quốc, từ năm 2001, Việt Nam liên tục
nhập siêu và cán cân thương mại ngày càng thâm hụt lớn. Biểu đồ [2] trong hình dưới cho thấy, trong khi Hoa
Kỳ và EU (Liên minh Châu Âu) là các đối tác mà Việt Nam liên tục xuất siêu, đối
với Trung Quốc, Việt Nam liên tục nhập siêu.
Biểu
đố 1
Theo số liệu thống kê, năm 2013, trao đổi thương mại
song phương Việt Nam-Trung Quốc đạt 50,2 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 13,26 tỷ USD (chiếm khoảng 10% tổng giá trị
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam), nhập khẩu đạt 36,94 tỷ USD (chiếm khoảng 28%
tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam).
Gần đây, chính phủ hai nước đã thống nhất tăng kim
ngạch thương mại hai chiều lên 60 tỉ USD vào năm 2015[3]. Nếu cán cân thương mại không được cải thiện,
vấn đề nhập siêu trong thương mại với Trung Quốc sẽ trở nên trầm trọng hơn, do
nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu. Đến nay, giá trị nhập khẩu gấp khoảng 2-3
lần giá trị xuất khẩu và không có dấu hiệu thu hẹp.
Khi
nhìn vào các con số trên, có thể nhận thấy hai điều:
a. Đối với Việt Nam, Trung Quốc là đối tác thương
mại lớn và quan trọng. Nếu Việt Nam thách Trung Quốc ra tòa, một kịch bản tưởng
tượng và cực đoan là Trung Quốc sẽ giơ đũa thần làm ngưng trệ hoàn toàn giao
thương giữa hai nước. Điều đó (nếu xảy ra) sẽ ảnh hưởng đến kinh tế, xuất khẩu
của Việt Nam, hay nói cách khác là công ăn việc làm, cuộc sống của người dân
Việt Nam.
Tuy nhiên, không phải là Trung Quốc không bị “đụng
chạm” gì trong trường hợp đó, vì chính Trung Quốc, và người lao động của họ,
hiện cũng đang xuất khẩu đến 36,94 tỷ USD sang Việt Nam (gấp gần 3 lần Việt Nam
xuất sang Trung Quốc). Dĩ nhiên ảnh hưởng của 36,94 tỷ USD đối với thương mại
Trung Quốc sẽ ít hơn của 13.26 tỷ USD đối với thương mại Việt Nam. Tuy nhiên
không thể nói nền kinh tế Trung Quốc hoàn toàn không bị ảnh hưởng.
b. Sự mất cân bằng trong thương mại Việt-Trung, với
phần thiệt thòi cho Việt Nam, là rõ ràng và càng ngày càng trở nên tồi tệ hơn
nếu tiếp tục như hiện nay. Các trả đũa về thương mại dưới bất cứ hình thức nào
của Trung Quốc, nếu có, cũng chỉ có thể làm Việt Nam nhập khẩu ít đi từ Trung
Quốc. Điều đó, nếu xảy ra, có thể làm khó khăn cho sản xuất Việt Nam trong ngắn
hạn, tuy nhiên về trung hạn và dài hạn sẽ hướng Việt Nam đến những bạn hàng
bình đẳng hơn, với cán cân thương mại thăng bằng hơn cho Việt Nam, ví dụ như
Hoa Kỳ và EU, và giảm sự phụ thuộc về kinh tế của Việt Nam vào Trung Quốc hơn.
2.
Tác động lên cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc
Khi đi sâu vào phân tích các mặt hàng Việt Nam nhập
từ Trung Quốc, chúng ta nhận thấy nhiều hàng nông sản, 40% là các hàng hóa cơ
bản, thâm dụng tài nguyên và công nghệ thấp. Theo Báo Pháp Luật Online[4]:
“…nông sản Trung Quốc đang tràn ngập các chợ Việt
Nam, trong khi Việt Nam có rất nhiều nông sản không chỉ phục vụ trong nước mà
còn phục vụ xuất khẩu. Số liệu từ các cơ quan xuất nhập khẩu cho thấy, các loại
nông sản, rau, củ, quả như khoai tây, gừng, chanh, nho, lê, táo, tỏi… xuất xứ
từ Trung Quốc tăng trên 25% so với cùng kỳ năm ngoái [2012]. Gần một nửa rau quả nhập từ nước ngoài vào Việt Nam là từ
Trung Quốc.”
Vì sao các mặt hàng đó lại vào Việt Nam và tràn ngập
thị trường? Có hai lý do chính: Các hàng rau củ quả Trung Quốc thuế nhập khẩu
là 0%, không chịu VAT nên lợi thế về giá đã khiến hàng Trung Quốc vượt xa hàng
Việt Nam. Việc kiểm dịch, kiểm tra chất lượng lại qua loa, dẫn đến chất lượng
kém, gây hậu họa lâu dài về sức khỏe người tiêu dùng.
Rõ ràng hàng nông nghiệp và các sản phẩm hàng hóa cơ
bản và công nghệ thấp là những sản phẩm mà Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động
sản xuất được. Nếu Trung Quốc dựng hàng rào thuế quan để chặn các hàng nhập
khẩu từ Việt Nam thì không có lý do gì Việt Nam không thể làm tương tự đối với
các mặt hàng nông sản, cơ bản và công nghệ thấp của Trung Quốc. Sự khan hiếm
các mặt hàng xuất xứ Trung Quốc loại này chỉ có thể là điều tốt cho nền sản
xuất Việt Nam trong trung và dài hạn.
Ngoài ra, Việt Nam có xu hướng nhập khẩu từ Trung
Quốc các sản phẩm để phục vụ sản xuất và xây dựng như hóa chất, điện tử, máy
móc thiết bị, sợi dệt, và sắt thép2. Đây là yếu điểm lớn nhất trong thương mại
Việt Nam-Trung Quốc và là điểm Trung Quốc có thể trả đũa để gây khó dễ cho nền
sản xuất Việt Nam.
Để đối phó với khả năng này và giảm thiểu ảnh hưởng
từ các trả đũa của Trung Quốc, Việt Nam cần phải đa dạng hóa nguồn nhập khẩu
các sản phẩm loại này. Ngoài ra việc Việt Nam phải nhập các sản phẩm như sắt
thép, máy móc thiết bị một phần lớn là do các nhà thầu EPC (Engnineering,
Procurement, Construction) Trung Quốc hay các dự án FDI (Foreign Direct
Investment) từ Trung Quốc không tuân thủ các chỉ tiêu sử dụng sản phẩm và nhà
thầu Việt Nam. Do đó, Việt Nam hoàn toàn có thể cải thiện và giảm thiểu nhập
khẩu từ Trung Quốc các dạng sản phẩm này nếu quản lý nghiêm chỉnh các dự án
FDI, các việc chấm thầu EPC. Điểm này sẽ được trình bày chi tiết hơn bên dưới.
3.
Đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam
FDI Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam không nhiều như
các nước khác. Ví dụ như trong năm 2013, năm FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam
tăng đột biến với gần 2 tỷ USD đầu tư mới để thành 2.3 tỷ USD[5], tuy thế vẫn xếp xa sau các nước Nhật
Bản, Singapore, và Hàn Quốc với FDI cấp mới cho năm 2013 lần lượt là 5,875 tỷ
USD, 4,76 tỷ USD, và 4,46 tỷ USD[6].
Tuy đầu tư vào Việt Nam không nhiều, hay nói cách
khác đem đến Việt Nam không nhiều ngoại tệ, Trung Quốc lại có mức độ hưởng lợi
cao hơn rất đáng kể so với các quốc gia khác[7]. Các dự án FDI từ Trung Quốc thường đưa
nhân công Trung Quốc tràn lan thành cả làng, cả phố Trung Quốc ngay trên lãnh
thổ Việt Nam[8]. Ngoài ra các công ty Trung Quốc lại kéo
theo những máy móc thiết bị công nghệ cũ, lạc hậu sang làm việc.
Đơn cử trong lĩnh vực xây dựng, do quản lý yếu kém
và tham nhũng, các gói thầu EPC thường rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc. Khi
đó các nhà chế tạo Việt Nam hầu như không có cơ hội tham gia như nhà thầu phụ,
tỷ lệ nội địa hóa = 0%[9].
Điều này kéo theo việc nhập khẩu nguyên liệu, máy
móc thiết bị từ Trung Quốc vào Việt Nam, thay vì sử dụng nguồn nguyên vật liệu
và nhân công tại chỗ, góp phần làm cho nhập siêu của Việt Nam tăng nhanh. Có
thể điểm qua một số các dự án mà Trung Quốc đã trúng thầu tại Việt Nam theo
hình thức EPC, như: Tổ hợp bauxit nhôm Lâm Đồng, Alumin Nhân Cơ - Đăk Nông,
Phân đạm Cà Mau…2
Theo báo Đầu Tư9:
Các nhà thầu Trung Quốc xuất hiện tràn lan trong các
dự án cung cấp thiết bị đồng bộ ở các ngành chính như nhiệt điện, xi măng, bô
xít.
…các ngành nhiệt điện, xi măng, bô xít, tổng giá trị
nội địa hóa cho nhóm sản phẩm thiết bị đồng bộ chỉ xấp xỉ 10%.
Trong lĩnh vực nhôm và bô xít, dù theo đánh giá của
Công ty Hatch (Australia), Việt Nam có thể tự chế tạo 50-70% thiết bị. Nhưng ở
cả hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC, tỷ lệ
nội địa hóa cũng chỉ vẻn vẹn 2%.
Do đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam không nhiều,
chiếm tỷ trọng nhỏ, trong trường hợp Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa, thì việc
Trung Quốc (nếu có) cắt giảm các nguồn đầu tư cũng không thể tạo thành một sức
ép đối với kinh tế Việt Nam.
Thậm chí như đã phân tích, rõ ràng có nhiều vấn đề
cần giải quyết đối với các dự án có yếu tố Trung Quốc. Và như bà Phạm Chi Lan
đã nói trên báo Đầu Tư9: “Riêng với lao động Trung Quốc, chúng ta còn quá
nương nhẹ, do e ngại, cả nể một cách quá đáng. Không nên nhầm lẫn giữa quan hệ
chính trị với quan hệ hợp tác kinh tế.” Nếu điều đó là sự thật thì một sự
trả đũa kinh tế của Trung Quốc sẽ càng cho thấy Trung Quốc đang nhập nhằng quan
hệ kinh tế và chính trị.
Và đó sẽ là bài học quý giá, là cơ hội để Việt Nam
có thêm động lực và ý chí để giải quyết các vấn đề: xử lý nghiêm minh các vụ
việc người Trung Quốc tràn lan ở Việt Nam, tuân thủ cơ chế đấu thầu minh bạch,
loại bỏ các nhà thầu Trung Quốc và các dự án FDI hạ giá bất kể chất lượng và
không tôn trọng các chỉ tiêu nội địa hóa của Việt Nam. Nói cách khác, tình hình
cho thấy Trung Quốc đã và đang “trả đũa” Việt Nam ngay hiện tại chứ không phải
đợi lúc Việt Nam đưa tranh chấp Hoàng Sa ra trọng tài quốc tế.
4.
Cần mở rộng quan hệ thương mại để tránh phụ thuộc
Nếu như năm 1986 Việt Nam mới chỉ có quan hệ trao
đổi hàng hóa với 43 quốc gia trên thế giới, năm 1995 là 100 quốc gia, năm 2000
là 192 quốc gia thì đến hết năm 2013, con số này đã lên tới gần 240 quốc gia và
vùng lãnh thổ[10].
Việt Nam là bạn hàng và đối tác của nhiều nước, tham
gia nhiều tổ chức kinh tế như WTO, và sắp tới là TPP, cộng đồng kinh tế ASEAN.
Việt Nam với dân số 90 triệu dân là một thị trường lớn, là một nhà sản xuất
tiềm năng.
Trung Quốc là đối tác thương mại quan trọng của Việt
Nam, nhưng không phải là đối tác thương mại duy nhất, và khó có thể là một đối
tác tốt, ổn định, bình đẳng và tuân thủ các giá trị công bằng, bảo vệ môi
trường, ít nhất nếu tình hình tiếp tục diễn tiến như hiện nay.
Trong khi đó, tư duy phát triển của cả thế giới đã
thay đổi[11], với những quan điểm tăng trưởng mới như
xanh, bền vững, sáng tạo, Việt Nam đang và sẽ phải đối mặt với những cải cách
lớn, như môi trường, biến đổi khí hậu, hay an sinh xã hội. Việc này bắt buộc
chúng ta phải chuyển dịch theo dòng chảy chung của thời đại, của thế giới. Để
làm điều đó, Trung Quốc không thể là đối tác, là người động hành chiến lược, và
có vị trí quá quan trọng như hiện nay.
Là láng giềng của Việt Nam, là nhà xuất khẩu số một
thế giới, việc Trung Quốc có ảnh hưởng tương hỗ đối với kinh tế Việt Nam là
điều dễ hiểu. Tuy nhiên Trung Quốc không thể (hay chưa thể) dùng ảnh hưởng đó
để chi phối hoàn toàn đời sống kinh tế Việt Nam và từ đó lung lạc các quyết
sách chính trị. Ít nhất Việt Nam may mắn không lệ thuộc năng lượng vào Trung
Quốc, điều mà Ukraina có thể đối với Nga. Lưu ý là 1/3 khí đốt của Ukraina đến
từ Nga; giá khí đốt và nhiệt độ sưởi cho mùa Đông của Ukraina có thể là kết quả
của các cuộc mặc cả chính trị mà phần thua thiệt chỉ thuộc về nước yếu hơn.
Để tránh viễn cảnh đáng buồn đó, Việt Nam cần nỗ lực
hướng đến những đối tác kinh tế bình đẳng và ổn định hơn.
5.
Các trả đũa tức thì và ngắn hạn
Ngay sau khi Việt Nam tuyên bố yêu cầu Trung Quốc ra
tòa về Hoàng Sa, có thể Trung Quốc sẽ có các trả đũa tức thì và ngắn hạn như
việc ngưng nhập một số sản phẩm nào đó trong một khoảng thời gian.
Một ví dụ tiêu biểu cho kiểu phản ứng này là trả đũa
của Trung Quốc khi có căng thẳng giữa hai nước này và Philippines trên vùng
biển quanh Scarbourough Shoal[12].
Sự việc diễn ra vào giữa tháng 4/2012 khi tàu của
Philippines nhắc nhở các tàu cá Trung Quốc hoạt động tại Scarbourough Shoal,
thay vì rút lui, Trung Quốc đã cử tàu hải giám ra và gia tăng đe dọa. Lập luận
họ đưa ra là Philippines xâm phạm Vùng Đặc quyền Kinh tế của Trung Quốc, trong
khi vùng đó nằm chỉ 124 hải lý từ đảo Luzon của Philippines. Căng thẳng dâng
cao và nhiều va chạm ngôn từ diễn ra từ giữa tháng 4 đến giữa tháng 6/2012 thì
cả hai nước dịu dần và rút tàu của mình ra.
Vào đỉnh điểm của căng thẳng, tức giữa tháng 5/2012
và sau ngày bắt đầu căng thẳng một tháng, Trung Quốc tuyên bố ngưng nhập 1200
containers trái cây của Philippines, đang đậu ở các cảng. Đồng thời Trung Quốc cũng
khuyến cáo ngừng du lịch vào Philippines. Việc này đã gây một số khó khăn cho
nông dân Philippines và chính quyền tổng thống Philippines.
Tuy nhiên một điều thú vị là suốt thời gian căng
thẳng này, mức độ ủng hộ của người dân và các đảng phái chính trị đối với tổng
thống Philippines đã lên cao. Toàn nước Philippines như đoàn kết lại một khối
sau tổng thống Aquino. Sau sự kiện này Philippines đã đệ đơn thưa Trung Quốc ra
trọng tài lập bởi Công Ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.
Các trả đũa kiểu như trên là các điều mà Việt Nam từ
chính phủ đến người dân phải chuẩn bị. Lịch sử sống bên cạnh láng giềng phương
Bắc có lẽ cũng làm người dân Việt Nam quen thuộc và có cách phản ứng tương ứng
với các kiểu cách trả đũa hay hành xử tương tự từ Trung Quốc: mua móng trâu[13], ốc bươu vàng, bán hàng rẻ va kém chất
lượng, thỉnh thoảng ách hàng tại biên giới…
Những đặc điểm bình thường là hạn chế của nền sản
xuất công, nông nghiệp Việt Nam như nhỏ lẻ, hay xáo động, lại phần nào trở nên
tích cực trong “thời chiến”, ví dụ như có khả năng thích ứng cao và tự điều
chỉnh linh hoạt trong nhiều tình huống khó khăn. Và cũng như Philippines, người
dân Việt Nam, một khi được đặt trước vấn đề chủ quyền dân tộc thường có phản
ứng kiên cường và chấp nhận hy sinh. Vấn đề là chính phủ phải phản ứng rõ ràng,
minh bạch và tạo được niềm tin trong dân chúng.
Tuy nhiên khác với căng thẳng Philippines và Trung
Quốc diễn ra trong vòng hai tháng, việc Việt Nam đưa Trung Quốc ra tòa là một
việc có thể diễn ra khá dài, vài tháng thậm chí vài năm. Do đó các trả đũa như
trên chỉ có thể là thời đoạn và gây những ảnh hưởng tức thời. Tiếp sau đó có
thể là các trả đũa kinh tế vĩ mô liên quan đến cán cân thương mại, hợp tác, đầu
tư như đã trình bày ở trên.
Điểm thú vị đáng lưu ý là từ khi Philippines đệ đơn
kiện Trung Quốc trước Tòa Trọng tài Luật Biển vào tháng 1 năm 2013 đến nay, hầu
như chúng ta không ghi nhận được một trả đũa kinh tế rõ ràng nào của Trung Quốc
đối với Philippines.
Một ví dụ khác là phản ứng của Trung Quốc sau khi
Việt Nam thông qua Luật Biển vào ngày 21/6/2012. Theo Carl Thayer[14], Trung Quốc đã biết về việc Việt Nam
soạn thảo Luật Biển và đã nhiều lần can thiệp đề nghị Việt Nam dừng lại. Tuy
nhiên, sau khi Việt Nam thông qua Luật Biển, các phản ứng của Trung Quốc là:
phản đối ngoại giao; Quốc Vụ viện Trung Quốc nâng cấp chính quyền “Tam Sa” từ
cấp huyện lên địa khu; Công ty Dầu khí Hải dương Quốc gia Trung Quốc cũng đã
mời thầu chín lô dầu khí trong đường chín đoạn. Tất cả các hành động trên đều
gặp phải phản ứng chính thức của Việt Nam, và không có một động thái “trả đũa”
kinh tế rõ ràng nào của Trung Quốc được ghi nhận.
Các ví dụ trên cho thấy Trung Quốc không dễ dàng,
hoặc không thể sẵn sàng sử dụng các biện pháp trả đũa kinh tế. Trung Quốc đang
có những ràng buộc kinh tế nhất định với các nước liên đới để không thể muốn ra
tay là làm được. Các mối quan hệ kinh tế, thương mại giữa các quốc gia và giữa
quốc gia và các tổ chức kinh tế ngày càng gắn kết, chặt chẽ, và đòi hỏi một sự
ổn định, hợp lý, và nhất quán trong cư xử. Nhất là Trung Quốc hiện giờ đang là
nước với kim ngạch thương mại đứng đầu thế giới, một động thái nào của họ cũng
đều được theo dõi và chỉ trích nếu “quá đáng” và kéo dài. Đó là lý do Trung
Quốc thường chọn cách tiếp cận gây sức ép chính trị ngấm ngầm, và cố gắng giữ
sự việc trong tầm mơ hồ, xử lý nội bộ với nhau.
Hiểu được điều này, Việt Nam hơn bao giờ hết cần sớm
đưa vấn đề ra ánh sáng, ra công lý quốc tế, bằng cách chính thức yêu cầu Trung
Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra xử lý bởi một trọng tài quốc tế. Vì chủ quyền
của Hoàng Sa và vì tương lai của đất nước.
6.
Kết luận
Từ 40 năm nay, Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Đến nay Trung Quốc thậm chí không chấp nhận có
tranh chấp Hoàng Sa và liên tục mở rộng yêu sách của họ trên khắp Biển Đông.
Trước thực tế đó, việc Việt Nam yêu cầu chính thức Trung Quốc đưa tranh chấp
Hoàng Sa ra phân xử bới một cơ quan trọng tài quốc tế là một hành động văn
minh, thể hiện tinh thần thượng tôn công pháp quốc tế và hòa bình. Đó là một
điều bình thường, một cách cư xử đúng đắn giữa các nước láng giềng với sự tôn
trọng tối thiểu dành cho nhau.
Tuy nhiên, kinh nghiệm đối với láng giềng phương Bắc
cho thấy khi thực hiện công việc lành mạnh đó, Việt Nam có thể gặp phải các trả
đũa về kinh tế của Trung Quốc.
Các trả đũa này có thể tức thì và thời đoạn như
ngừng nhập khẩu một số mặt hàng của Việt Nam hay cấm xuất khẩu cho Việt Nam các
sản phẩm cần thiết cho sản xuất. Điều này có thể gây các khó khăn cho người
dân, cho sản xuất của Việt Nam. Và đó là điều Việt Nam cần chuẩn bị tinh thần.
Tuy nhiên về trung hạn và dài hạn, các trả đũa này
nếu kéo dài sẽ là liều thuốc quý để Việt Nam giải quyết dứt điểm các vấn đề,
các điểm yếu trong mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc. Thứ nhất, thương mại hai
nước sẽ đi đến cân bằng hơn, Việt Nam sẽ hướng đến việc quay về với các sản
phẩm nông sản và cơ bản và của chính mình. Thứ nhì, Việt Nam sẽ và phải xử lý
các vấn đề liên quan đến FDI từ Trung Quốc hay của các nhà thầu EPC Trung Quốc:
công nhân Trung Quốc tràn lan ở Việt Nam, công trình kém chất lượng và không
tôn trọng các chỉ tiêu nội địa hóa của Việt Nam.
Sẽ có thể có khó khăn, tuy nhiên các khó khăn đó là
động lực, cơ hội để Việt Nam cải tổ cơ cấu, sản xuất, và tiêu dùng, và hướng
đến các đối tác thương mại bền vững hơn, thậm chí đạt được một mối quan hệ kinh
tế thương mại bình đẳng hơn với Trung Quốc. Chúng ta có thể làm điều này hiện
giờ, khi các dự án FDI của Trung Quốc vào Việt Nam còn hạn chế, và mặc dầu con
số thâm hụt mậu dịch khủng lồ đối với Trung Quốc, Việt Nam vẫn duy trì vị thế
tương đối độc lập về kinh tế và năng lượng. Dĩ nhiên thời gian sẽ không đứng về
phía người không hành động.
Hiểu rõ các khả năng trả đũa của Trung Quốc, dự đoán
và chuẩn bị thực lực kinh tế để đối phó và ít bị ảnh hưởng nhất là điều cần
làm. Tuy nhiên, Việt Nam không nên để những quan ngại về các trả đũa đó ngăn
chúng ta có những quyết định vì lợi ích dân tộc và chủ quyền đất nước.
L.
T. T.
Tác giả gửi BVN.
[1] Các ý kiến trong và ngoài
nước về việc Việt Nam cần thách Trung Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra phân xử
bởi một cơ quan trọng tài quốc tế:
http://diendanxahoidansu.wordpress.com/2014/03/14/viet-nam-can-dua-tranh-chap-hoang-sa-ra-trong-tai-quoc-te/
[2] Cải thiện cán cân thương mại
Việt – Trung, nhóm nghiên cứu DEPOCEN (TS. Nguyễn Ngọc Anh, Trần Anh Vũ, Trinh
Nhung, Phạm Văn Long)
http://kinhtevadubao.com.vn/dinh-huong-phat-trien/cai-thien-can-can-thuong-mai-viet--trung-2082.html
Hồ sơ thị trường Trung Quốc 4/2014, tài liệu của Ban
Quan hệ Quốc tế-VCCI (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
[5] http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140317-nguy-co-tu-viec-trung-quoc-gia-tang-dau-tu-vao-viet-nam
[7] http://baodatviet.vn/kinh-te/doanh-nghiep/fdi-trung-quoc-lo-lach-luat-chen-ep-doanh-nghiep-viet-3032584/
[10] http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/2850/27-thi-truong-xuat-khau-va-17-thi-truong-nhap-khau-cua-viet-nam-dat-kim-ngach-tren-1-ty-usd-trong-nam-2013.aspx
[12] Renato Cruz de Castro, 2012.
China’s Realpolitik Approach in the South China Sea Dispute: The Case of the
2012 Scarborough Shoal Stand-Off. International Confenrence on the
Sovereingity of Hoang Sa and Truong Sa at Pham Van Dong Univeristy, Vietnam,
2012.
[13] http://giaoduc.net.vn/Kinh-te/Thi-truong/10-ngon-don-hiem-ac-cua-thuong-lai-TQ-khien-dan-Viet-Nam-dieu-dung-post7321.gd
[14] Carlyle A. Thayer, 2013. The
Philippines’ Claim to the UNCLOS Arbitral Tribunal: Implications for Viet Nam.
Presentation to international workshop on the sovereignty over Paracel and
Spratly archipelagos–historical and legal aspects’, Pham Van Dong University,
Quang Ngai City, 27–28 April 2013.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 06:47
No comments:
Post a Comment