05:55:am 25/01/14
Theo một tài liệu phổ biến năm 2010 của Cộng Đồng
Liên Bang Úc châu, thì hiện có đến 4.5 triệu người Việt sống ở hải ngọai. Con
số này lớn hơn con số thường được phổ biến từ trước là chỉ có khỏang trên 3.5
triệu người. Đọc kỹ lại, ta thấy trong tài liệu từ Úc châu thì có ghi rõ : Số
người Việt sinh sống tại nước láng giềng Cambodia đã lên tới 900, 000 người
rồi. Tài liệu này cũng ghi con số người Việt sinh sống ở Đài Loan, Đại Hàn và
mấy nước Á châu khác nữa. Như vậy, tổng số người Việt sinh sống riêng ớ Á châu
đã có thể lên đến gần 1,5 triệu người rồi. Kết cục là con số người Việt hiện
sinh sống tại các quốc gia thuôc Âu châu, Mỹ châu và Úc châu cũng chỉ vào
khỏang trên 3 triệu người. Trong đó riêng ở nước Mỹ và Canada, hiện có đến 2
triệu người gốc Việt.
Bài viết này nhằm ghi nhận một ít suy nghĩ về vấn đề
Hội nhập của người Việt chúng ta tại xã hội Âu Mỹ – tức là tại các quốc gia
thuộc Âu châu (cả Tây Âu và Đông Âu), Mỹ châu và Úc châu. Để bạn đọc dễ dàng
theo dõi câu chuyện, tôi xin được trình bày vấn đề qua các mục chính yếu như
sau:
I – Sơ lược về bối cảnh chính trị văn hóa xã hội tại
các quốc gia Âu Mỹ.
II – Mức độ Hội nhập khác nhau tùy theo từng thế hệ
người Việt.
III – Làm sao để hội nhập mà vẫn giữ lại được bản
sắc dân tộc của mình?
* *
*
I
– Bối cảnh chung về chính trị xã hội và văn hóa tại các quốc gia Âu Mỹ.
Dù có sự khác biệt rất lớn giữa các quốc gia trong
hai châu lục Âu và Mỹ, ta vẫn nhận thấy có một sự tuơng đồng sâu sắc trong lòng
xã hội của các quốc gia này. Cụ thể ta có thể nêu ra một số nét chính yếu như
sau :
A/ Về phuơng diện chính trị, thì rõ rệt là các quốc
gia ở Âu và Mỹ châu hiện đã thiết lập được một nền dân chủ tương đối vững vàng
hòan chỉnh và thông thóang. Kể cả tại các nước cựu cộng sản tại Đông Âu, các
nước được tách ra khỏi Liên bang Xô Viết thì từ 25 năm nay, nhân dân và chính
quyền tại đây đều đã lần hồi xây dựng được một chế độ chính trị tương đối tiến
bộ với sự tôn trọng nghiêm túc về Phẩm Giá và về Quyền Con Người.
Đặc biệt là những sắc dân thiểu số hay mới nhập cư
đều có quyền và có cơ hội thuận lợi để tranh đấu cho những đòi hỏi chính đáng
của mình. Tại Úc châu, chính sách đa chủng tộc, đa văn hóa (multi-ethnic,
multi-cultural) được giới chính khách tích cực đề cao tôn trọng.
B/ Về phương diện xã hội, các chế độ bảo hiểm y tế,
bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội…là sự thể hiện vững chắc của tinh thần liên đới
huynh đệ giữa các tầng lớp nhân dân (Fraternal Solidarity). Điển hình là tại
các quốc gia phía Bắc Âu châu như Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, chính sách thuế
khóa được sử dụng thật khôn khéo như là một phương tiện để điều tiết sự phân
phối lợi tức quốc gia – mà nhờ đó tầng lớp kém may mắn với thu nhập thấp kém
được bù đắp với những phúc lợi xã hội thật hào phóng dồi dào. Người dân luôn
sẵn sàng đóng thuế cao để được hưởng chế độ an sinh xã hội khá tốt đẹp.
Đáng kể nhất là vai trò của các nghiệp đòan công
nhân trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của tập thể giới lao động trong các
công ty xí nghiệp.
Mặt khác, vì có tự do lập hội, tự do ngôn luận, tự
do hội họp v.v…, nên các tổ chức thuộc khu vực Xã hội Dân sự có điều kiện thỏai
mái để phát huy tác dụng của mình trong cố gắng cải thiện môi trường sống cả về
mặt vật chất cũng như về mặt tâm linh tinh thần. Càng ngày, vai trò của các
“tác nhân không phải là nhà nước” (Non-State Actors) như thế đó càng đóng vai
trò quan trọng hơn trong công cuộc xây dựng và phát triển nếp sinh họat đa dạng
phong phú của tập thể cộng đồng xã hội.
C/ Về mặt văn hóa, các quốc gia Âu Mỹ kể ra đã rất
thành công trong việc tiếp nối và phát huy cái truyền thống quý báu của nền văn
minh Hy lạp và La mã (La-Hy = Latino-Greek) – đặc biệt về các mặt học thuật, tư
tưởng, khoa học và luật pháp.
Và điểm đáng chú ý hơn cả – đó là Thiên chúa giáo
gồm Công giáo, Tin lành và Chính thống giáo đã ăn rễ sâu xa nơi đời sống văn
hóa, tư tưởng, nghệ thuật tại các quốc gia Âu Mỹ – tương tự như vai trò của Tam
giáo Phật Lão Nho trong xã hội Á Đông chúng ta như Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản
và Trung Hoa.
Mặc dầu ngày nay, làn sóng vô thần đang phát triển
mạnh – và mặc dầu chế độ cộng sản do Liên Xô lãnh đạo trong trên nửa thế kỷ đã
tìm mọi cách thâm độc để tiêu diệt tôn giáo – thì Thiên chúa giáo vẫn còn là
một thế lực tinh thần quan trọng trong đời sống tâm linh và văn hóa của người
dân Âu Mỹ. Nổi bật nhất là người dân tôn trọng sự đa dạng về tôn giáo và đề cao
tính cách bao dung về tôn giáo (Religious Diversity/Tolerance). Mọi biểu hiện
của nạn kỳ thị sắc tộc, kỳ thị tôn giáo và nhất là sự cuồng tín tôn giáo đều bị
công luận phê bình lên án nghiêm khắc.
Cái môi trường chính trị văn hóa xã hội tiến bộ
thông thóang như thế rõ ràng là một thứ “Đất lành Chim đậu” rất thuận lợi cho
mấy triệu người Việt chúng ta tìm kiếm để mà đem cả gia đình tới định cư
lập nghiệp lâu dài vậy.
II
– Mức độ Hội nhập khác biệt giữa các thế hệ người Việt định cư tại Âu Mỹ.
Nhằm đơn giản hóa sự trình bày, ta có thể xếp lọai
thành ba thế hệ như sau :
a) Thế hệ I gồm Ông Bà hiện ở vào
lớp tuổi 60 – 70(trưởng thành ở VN)
b) Thế hệ II gồm Cha Mẹ hiện vào lớp
tuổi 40 – 50(sinh trưởng ở VN)
c) Thế hệ III gồm lớp Cháu cỡ tuổi
20 – 30 (lớp này hầu hết được sinh ra ở nước ngòai).
1 – Thế hệ I gồm những người lớn tuổi đã trưởng
thành, có sự nghiệp vững vàng ở Việt nam, nhưng khi đến định cư ở nước ngòai
thì gặp nhiều khó khăn trở ngại trong việc hội nhập văn hóa xã hội nơi môi
trường sở tại – điển hình là khó vượt qua được cái hàng rào ngôn ngữ, cũng như
khó thích nghi được với lối sống của dòng chính trong xã hội địa phương. Chính
vì thế mà nhiều người chỉ tìm cách sống quần tụ riêng với nhau trong cộng đồng
người Việt – mà ít tiếp cận với người địa phương. Từ đó mà phát sinh ra cái não
trạng “ốc đảo” (ghetto mentality) – sống cô lập khép kín giữa các đồng hương
với nhau mà thôi. Họ thường còn bị ràng buộc bởi những hòai niệm, những nuối
tiếc về cái thuở vàng son của thời quá khứ nơi quê nhà. Do đó mà không có sự
hăng say năng nổ tìm kiếm những phương thức hành động thích nghi với môi trường
xã hội mới lạ vốn đòi hỏi một viễn kiến sâu rộng và năng lực khai phá mạnh bạo
không hề chùn bước trước mọi nghịch cảnh thách đố.
2 – Thế hệ II là lớp con của thế hệ I, sinh trưởng ở
VN mà đi định cư ở nước ngòai lúc còn trẻ (cỡ trên dưới 20 tuổi) – do vậy mà dễ
thích nghi được với môi trường văn hóa xã hội sở tại. Phần đông lại được học
bậc cao đẳng hay đại học ở nước ngòai, nhờ vậy dễ kiếm được việc làm nơi các cơ
sở kinh doanh của người địa phương. Và từ đó mà có nhiều cơ hội tiếp cận và
sống hòa đồng với xã hội sở tại. Hơn thế nữa, vì phải chăm lo hướng dẫn cho lớp
con là thế hệ III vốn sinh ra ở nước ngòai, nên phải cố gắng trau dồi thêm về
mặt chuyên môn – nhất là về văn hóa để gia đình cùng hòa nhập êm thắm với dòng
chính của địa phương.
3 – Thế hệ III là lớp cháu của thế hệ I, thì được
sinh ra ở nước ngòai và được theo học ở địa phương ngay từ các nhà trẻ, lớp mẫu
giáo lên đến cấp tiểu học, trung học và cả đại học – y hệt như các bạn cùng lứa
tuổi trong các gia đình sở tại. Do vậy mà thế hệ này có những điều kiện hòan
tòan thuận lợi để mà hội nhập vào với dòng chính của quốc gia sở tại – có thể
là bị cuốn hút đến độ đồng hóa sâu sắc với người bản xứ chính hiệu. Nhưng sự
kiện này lại có mặt trái của nó – đó là thế hệ III không có sự hiểu biết và
không còn gắn bó gì với cội nguồn văn hóa dân tộc VN nữa. Tình trạng “mất gốc”
này (uprooted) chính là điều làm cho thế hệ I của ông bà quan tâm lo lắng.
Tuy các cháu vẫn kính trọng hiếu nghĩa đối với ông
bà cha mẹ, nhưng xem ra có phần lơ là đối với chuyện thuần phong mỹ tục, với
nền luân lý dân tộc. Và nhất là các cháu không thiết tha gì lắm với lập trường
chính trị của thế hệ I vốn hầu hết là nạn nhân khốn khổ của chế độ độc tài tàn
bạo của cộng sản – mà cũng vì thế mà gia đình phải bỏ nước ra đi lập nghiệp ở
nước ngòai.
III
– Làm sao để hội nhập mà vẫn giữ đươc bản sắc dân tộc của mình?
Đây chính là cái môí ưu tư của bất kỳ lớp người di
dân nào mà phải rời bỏ quê hương bản quán để ra đi lập nghiệp tại một xứ sở xa
lạ nào khác – chứ không phải chỉ là của riêng khối người Việt chúng ta hiện
đang định cư tại khắp các châu lục trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Âu Mỹ.
Từ xa xưa, cha ông chúng ta vẫn thường nhắc nhở :
“Nhập gia tùy tục” để mà khuyến khích con dân phải biết cố gắng thích nghi với
hòan cảnh khác biệt tại nơi mình mới đến nhập cư lập nghiệp. Trong ngôn ngữ
ngày nay, người ta sử dụng từ ngữ “Hội nhập” (Integration) để mô tả cái quá
trình gọt giũa uốn nắn bản thân mỗi người để làm sao thích nghi được với hòan
cảnh mới – hầu có thể gia nhập êm thắm vào với môi trường xã hội tại địa phương
nơi mình đã chọn lựa đến cư ngụ để sinh sống lập nghiệp lâu dài.
1 – Riêng đối với tập thể người Việt chúng ta, thì
như đã phân tích ở phần II trên đây – thế hệ I là lớp người lớn tuổi thì còn
lưu giữ được nhiều kỷ niệm, ký ức về phong tục tập quán trong truyền thống dân
tộc, nhưng lại ít hội nhập vào với dòng chính của xã hội sở tại. Hiện tượng này
trái ngược hẳn với chiều hướng của thế hệ III của lớp cháu sinh trưởng ở nước
ngòai – các cháu hầu như không còn ý thức rõ rệt về truyền thống dân tộc, mà
lại gần như đồng hóa hòan tòan với dòng chính của người bản xứ.
Thành ra, chỉ còn trông cậy nơi thế hệ II gồm lớp
trung niên hiện vẫn còn có sự gắn bó với truyền thống dân tộc mà cũng hội nhập
tương đối khá vững chắc với dòng chính của xã hội địa phương. Thế hệ này có thể
coi như là cái nhịp cầu nối giữa thế hệ I và thế hệ III – tiếp thu được kinh
nghiệm của các bậc tiền bối và rồi truyền đạt lại cho những hậu duệ trong gia
tộc của mình. Đó là một vai trò quan trọng để khích lệ và hướng dẫn cho thế hệ
III trong việc tiếp tục hội nhập mà vẫn lưu giữ được bản sắc dân tộc của cha
ông mình.
2 – Cụ thể là các lớp học Việt ngữ vẫn được nhiều
thày cô tình nguyện mở ra vào những ngày cuối tuần tại các chùa, các nhà thờ,
các trung tâm văn hóa để dạy cho lớp trẻ cả về tiếng Việt, cả về lịch sử và văn
hóa Việt nam. Rồi đến các khóa huấn luyện, các trại hè, các tổ chức sinh họat
dành riêng cho thiếu nhi, học sinh, sinh viên, các cuộc thi về văn hóa ngôn ngữ
tiếng Việt, các lễ hội dịp Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán v.v… Tất cả những cố
gắng bền bỉ liên tục từ năm này qua năm khác như thế đã có tác dụng truyền đạt
được cho thế hệ trẻ sự hiểu biết về nguồn cội của mình và nhất là cái ngọn lửa
say mê nhiệt thành trong công cuộc giữ gìn và phát triển gia sản vốn liếng tinh
thần quý báu của văn hóa và đạo đức truyền thống dân tộc.
Điển hình là trường hợp của một số phụ huynh cũng tự
nguyện tham gia sinh họat với tổ chức Hướng đạo cùng với lũ con của mình – nhằm
khuyến khích các cháu vui vẻ phấn khởi theo đuổi các công tác và sinh họat lành
mạnh của tổ chức đào tạo huấn luyện thanh thiếu niên đã từng có uy tín lâu năm
này.
3 – Nhìn chung, thì trong hơn 30 năm qua cái tiến
trình định cư lập nghiệp của trên 3 triệu người Việt chúng ta nơi các quốc gia
Âu Mỹ đã diễn ra một cách tương đối tốt đẹp êm thắm. Đó là nhờ ở hòan cảnh
khách quan cởi mở thông thóang tại chính các xã hội tiếp nhận và nhất là do ý
chí và nỗ lực kiên trì của cả tập thể số người Việt thuộc thế hệ I đã quyết tâm
ra đi để xây dựng cuộc sống mới tươi đẹp cho bản thân và cho gia đình của mình.
Dĩ nhiên đây là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm táo bạo
đày những thử thách cam go, nhưng chúng ta cũng thật vui mừng trước những thành
công to lớn mà tập thể người Việt hải ngọai đã gặt hái được – cả về phương diện
kinh tế vật chất, cả về phương diện văn hóa tinh thần trong những bước đầu định
cư ở nước ngòai. Sự thành công này không phải chỉ đem lại lợi ích cho riêng bản
thân các gia đình người Việt hải ngọai – mà còn có tác dụng góp phần tích cực
đáng kể vào công cuộc xây dựng và phát triển quê hương đất nước nơi mà hơn 90
triệu đồng bào đang hăng say phấn khởi chủ xướng phát động nhằm tạo dựng cho
bằng được một xã hội thịnh vượng, tự do và an hòa nhân ái trong một tương lai
không bao xa nữa vậy./
Costa Mesa California, Tháng Giêng 2014
© Đoàn Thanh Liêm
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment