Thứ tư 29 Tháng Giêng 2014
Năm mới Giáp Ngọ 2014 đang tới. Trong tâm tưởng của người
Việt Nam, Năm Mới mang hình tượng con ngựa cùng một số ý nghĩa biểu tượng khác
báo hiệu những gì ? Một số nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà hoạt động xã hội từ
nhiều miền tại Việt Nam chia sẻ với RFI một vài suy nghĩ về vấn đề này.
Tạp chí Cộng đồng của RFI tuần
này xin chuyển đến quý thính giả những cảm nghĩ của một số nhà nghiên cứu, nhà
văn, nhà hoạt động xã hội từ nhiều nơi trên đất nước Việt Nam vào một thời điểm
đặc biệt của năm, khi đông đảo người Việt đều có tâm nguyện hướng về gia đình,
lắng tâm trở lại cội nguồn, trở lại những gì sâu xa nhất, để từ đó hướng đến
tương lai với những cảm nhận mới, hy vọng mới và sinh lực mới. Mong sao hoặc
điều này, hoặc điều khác trong những chia sẻ trước thềm Năm Mới mang lại một
điều gì đó bổ ích cùng quý vị.
Tham gia vào tạp chí hôm nay,
có tiếng nói của các nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn (từ Sài Gòn), Nguyễn Đắc
Xuân (từ Huế), nhà lịch học Lê Thành Lân, nhà văn Võ Thị Hảo và nhà hoạt động
xã hội Ngô Thị Hồng Nhung (từ Hà Nội).
Nghe
(15:48) : Phần trò chuyện với các vị khách mời 29/01/2014
Biểu tượng Ngựa « nhanh » - « sang trọng »
và những ám ảnh về thực trạng đất nước
Trong số các biểu tượng động
vật liên quan đến thời gian, « ngựa » được coi là một con vật đặc biệt
thông minh, khôn ngoan, được con người yêu quý, ngựa mang một ý nghĩa tinh thần
phong phú, tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ, đa dạng và tích cực trong đời sống
văn hóa Việt Nam. Theo một số quan niệm, ngựa còn là biểu tượng của sự kiên
nhẫn, bền bỉ, trung thành, là con vật mang lại may mắn, tài lộc... « Mã đáo
thành công » là lời chúc thường được mọi người trao nhau mỗi dịp đầu năm « con
ngựa ».
Trước hết, xin mời quý vị nghe
một số chia sẻ của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân về ý nghĩa của năm Giáp Ngọ
đối với ông và đối với đất nước.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân : Năm nay là năm con ngựa, phần lớn người ta nói
đến con ngựa là nhanh. Về phương diện chung, đất nước Việt Nam của tôi hiện nay
người ta quan tâm đến vấn đề kinh tế, tôi hy vọng là năm Giáp Ngọ này kinh tế
sẽ tốt hơn, chạy nhanh hơn. Đối với bản thân tôi, tôi lại thấy rằng mình cũng
phải chạy đua với « ngựa », do mình bị thúc ép bởi thời gian còn lại của cuộc
đời quá ít. Do đó, càng chạy nhanh thì càng có hiệu quả hơn, không còn thì giờ
để chậm trễ, để hẹn với ngày mai nữa.
Về không khí chung, con ngựa
gần gũi với con người và có vẻ nó sang trọng. Thường là nó xuất hiện ở những
nơi sang trọng, đàng hoàng, chứ không phải ở những nơi bẩn thỉu, như con heo,
con gà, hay con trâu. Tôi nghĩ rằng, cái văn hóa của Việt Nam « chạy nhanh
», nhưng phải « sang trọng ». Mấy năm qua văn hóa Việt Nam cũng có phát
triển, nhưng cũng có những biểu hiện đạo đức tầm thường, có thể là đôi khi
không xứng đáng với đất nước Việt Nam đổi mới hội nhập như thế này. Đó là cảm
tưởng của tôi trong năm Ngọ này.
Nhà văn Võ Thị Hảo đưa ra một
cái nhìn khác về triển vọng của năm con Ngựa, dựa trên những đối chiếu với hiện
trạng đời sống của xã hội Việt Nam theo cảm nhận của bà.
Nhà văn Võ Thị Hảo : Từ trước đến giờ người ta vẫn quan niệm sinh
tuổi Ngọ là… (tốt - ndr). « Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi, tôi nay tủi cực
ngậm ngùi tuổi Thân » chẳng hạn. Thông thường, người Việt Nam hy vọng năm
ngựa sẽ tốt hơn năm tỵ. Một trong những điều khiến con người có thể sống được
là tự an ủi mình. Xung quanh thế giới bất ổn quá, hoang lạnh, quá nhiều điều mà
mình không thể thay đổi được. Và con người phải chịu nhiều tai họa, nên người
ta cứ muốn một điểm tựa. Điểm tựa đó có thể là vào tín ngưỡng, hoặc tôn giáo,
hay là một niềm tin có thể là vu vơ như vậy thôi. Nhưng đây là cái mà con người
từ trước đến nay vẫn dựa vào.
Thực ra, với năm ngựa đang tới
ở Việt Nam, tôi nghĩ rằng không hứa hẹn gì nhiều. Chỉ một hai vụ án đưa ra là
thấy sự mục ruỗng của ngành ngân hàng, của nền kinh tế Việt Nam, đã bị các cá
nhân lạm dụng tới mức khủng khiếp như thế nào. Đến mức mà ngay cả những người hay
nói thẳng, những người đã tiên liệu, cũng không thể tiên liệu được. Ác mộng
mình cũng không thể nghĩ ra được điều đó. Với cái chết của rất nhiều doanh
nghiệp, rất nhiều người thất nghiệp ở Việt Nam bây giờ, nạn nhân của những sự
tham lam, sự quản lý lỏng lẻo của ngành ngân hàng, của một nền kinh tế độc
quyền, thì bây giờ nền kinh tế chúng ta sẽ hy vọng được vào điều gì ? Không
biết bao nhiêu thập kỷ nữa để khắc phục được điều này. Chúng ta có thể hy vọng
gì, khi những người nói thật cũng có thể bị bắt vào lúc nào đó ! Tôi mong rằng,
nếu có một sự cải cách thực sự, một cải cách thể chế, thay đổi tận gan ruột,
thì có thể hy vọng mang lại điều gì đó cho năm ngựa.
« Ngọ » : cơ hội cho giác ngộ, và « chất
thơ » của mê tín
Năm Giáp Ngọ không nên chỉ được
nhìn là năm con Ngựa. Nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn nhấn mạnh đến một tính
chất khác của biểu tượng Ngọ.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn : Chữ Ngọ sự thực không có dính gì đến con ngựa.
Cần nói rằng tên của các chi với các hình tượng con vật là không dính với nhau.
Trong chữ nho, muốn gọi ngựa, người ta dùng chữ « mã ». Ngọ trong chữ
nho là chính giữa đỉnh đầu. Cho nên cửa mà vua tiếp các quan ở triều đình gọi
là « Ngọ môn ». Giờ Ngọ là giờ chính giữa trưa, khi mặt trời chiếu xuống
không có một cái bóng nào cả. Ngọ chính là lúc ánh sáng chiếu xuống huy hoàng
nhất của một ngày. Và trong vòng 12 năm, Ngọ là dấu hiệu ở giữa.
Cái giờ phút linh thiêng nhất,
giờ phút quan trọng nhất, gần như có thể nói là giờ phút quang vinh, giờ phút
giác ngộ, người ta gọi là « Ngọ ». Thành ra trong tác phẩm Zarathoustra
của Nietzche ca tụng cái « Grand Midi » tức là cái « chính Ngọ ».
Qua cái đó và với hình tượng đó, tôi chỉ có hy vọng rằng năm Giáp Ngọ, riêng
với người Việt chúng ta, có lẽ giác ngộ nhiều hơn về những đau thương, hy sinh,
những lầm lạc của ông cha mình, mà sống với nhau tốt lành hơn. Nếu mà nghiên
cứu và suy tư thâm sâu thì chuyện đó quan trọng hơn là hình tượng con ngựa,
theo tôi là như vậy.
Mặc dù không phải là người ca
tụng các khoa bí truyền giải đoán vận mệnh con người, xã hội qua năm tuổi tháng
tuổi…, nhưng nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn vẫn nhìn nhận ở những truyền thống
này nhiều tác động tích cực đối với con người.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn : Lúc trước, tôi là một người rất có thành kiến
về chuyện gọi là mê tín, dị đoan như vậy. Cho đến khi tôi đọc được một câu của
thi hào Goethe, người Đức. Ông nói một câu mà mình thấy mình phải xét lại thành
kiến của mình. Ông ấy nói rằng, « mê tín » là « chất thơ của đời sống
». Vậy thì cái thơ đó có làm cho đời sống đẹp hơn, vui hơn, đáng sống hơn hay
không ? Một ví dụ rất đơn giản thôi, nếu trai gái tin rằng có trăng già, có
nguyệt lão « xe duyên » và lấy sợi chỉ đỏ cột chân người con trai và con
gái với nhau. Nói như thế, mình có thể xếp vào mê tín dị đoan, hoặc không có cơ
sở khoa học cũng được, nhưng nếu nói theo ông Goethe, đây là chất thơ của đời
sống.
Mà không chỉ là chất thơ mà còn
là chất thuốc nữa. Nếu những cặp gái trai, vợ chồng, yêu nhau, lấy nhau rồi đổ
vỡ chẳng hạn…, thì lấy cái gì để an ủi cho họ. Nếu họ cho rằng cái đó là duyên
số, là số phận, thì họ bớt trách mình, bớt oán thán người khác thì khiến cho họ
dễ sống hơn. Còn điều này có khoa học, có thực chứng hơn không, thì lại là một
vấn đề khác.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn
đặc biệt chú ý đến khía cạnh chất thơ, chất thuốc, nâng đỡ tâm hồn con người,
trong những cách lý giải về biểu tượng huyền bí của năm, trong khi đó, nhà văn
Võ Thị Hảo hết sức ảm ảnh bởi thực trạng mê tín trầm trọng trong xã hội Việt
Nam, mà trong rất nhiều trường hợp có gắn với quan niệm về những chi phối vô
hình, những chi phối của « thiên can », « địa chi »..., đặc biệt thông qua các
mạng lưới « pháp sư », « thầy bói »…
Nhà văn Võ Thị Hảo : Có một điều rất là buồn, là rất nhiều người
Việt Nam bị lợi dụng, bị nô lệ hóa bằng sự mê tín. Con người Việt Nam thờ phụng
hay làm một chuyện gì đó không có được một sự minh triết. Tôi không muốn nói
tất cả, nhưng chuyện này rất phổ biến. Chẳng hạn như việc thờ cúng lẫn lộn, cây
đa cũng thờ, một hòn đất cũng sợ… Người Việt Nam sợ người chết hơn người sống.
Từ đây có thể giải thích căn nguyên vì sao Việt Nam lại ở trong tình trạng lạc
hậu khốn khổ lâu dài như thế. Mọi người thường nghe những ông thầy phán, rồi
mang tiền đặt vào tay tượng Phật, tượng Thần…, kính sợ từ con hươu, con hổ, con
mèo, con rắn… Thế thì còn gì nữa ? Con người ở đâu ? Con người quỳ mọp, bị nô
lệ, kể cả về vật chất và tinh thần. Đấy là điều thương đau !
« Năm Ngọ » với người « tuổi Thân » : Hiểu
tử vi để vượt tử vi
Là người quan tâm đến tử vi để
suy ngẫm về bản thân, nhà văn Võ Thị Hảo, người sinh vào tuổi Thân chia sẻ một
số suy nghĩ của bà về những mặt hay, mặt dở của người tuổi Thân trong năm Ngọ.
Nhà văn Võ Thị Hảo nhấn mạnh đến ý hướng vượt thoát những quy định của số phận,
một khi con người thức nhận được bản tính sâu xa của chính mình.
Nhà văn Võ Thị Hảo : Tôi thấy năm Ngọ cũng có một số điều hay, theo
như tôi tự tìm hiểu. Về mặt tình cảm, về mặt sự nghiệp, thì có thể cũng do thấy
không viết thì sẽ ăn năn, nên sẽ cố gắng để hoàn thành một cuốn tiểu thuyết
Năm nay, nếu không cẩn thận, có
thể tôi sẽ gặp « họa miệng tiếng ». Mà họa miệng tiếng, thì đối với
những người viết thẳng, hoặc là nói thẳng như thẳng như tôi, thì năm nào chẳng
có ! Mình cũng không tính chuyện tránh làm gì. Nếu là một người đi đường, thấy
một nhà đang bị trộm cướp chẳng hạn, mà lại muốn tránh, thì dù không muốn trực
tiếp ra tay bắt cướp, nhưng ít ra anh phải chạy ra gọi những người khác. Nếu
anh muốn tránh họa miệng tiếng, thì đương nhiên là cướp hoành hành. Rất tiếc là
người Việt Nam, đa phần đều sợ họa miệng tiếng, mà chọn cách im lặng. Tôi thì
cũng không phải là dũng cảm gì ! Nhưng mà tôi cũng cố gắng, không tránh họa
miệng tiếng ! Đây là đang nói « miệng tiếng lớn », vì sự thật mà có họa
miệng tiếng, hoặc là vì quyền lợi của cộng đồng, trong đó đương nhiên có mình.
Vậy cho nên hiểu biết, nhưng
phải để mà sợ hãi. Mà hơn nữa, tôi thấy có một điều đúng là tuổi Thân của tôi
trong tử vi, trong « bản mệnh » cũng có phán một điều là : Đó là một
người luôn luôn đi ngoài khuôn khổ. Hồi bé, tôi thấy mình rất ngoan và rất
hiền, mà càng ngày càng bướng hơn, càng ngang hơn, tức là càng ngày càng không
tuân theo các khuyên giải của khoa tử vi này. Nhưng chính điều đó cũng tạo nên
số phận của mình, và tính cách của mình đã « chọn » số phận (hay tạo
số phận – ndr), không kêu ca gì nữa.
Giáp Ngọ 1954 -
Giáp Tý 1984 – Giáp Ngọ 2014 :
Hy vọng mơ hồ vào một tiến triển tuần hoàn
của xã hội
Với chu kỳ 10 năm lặp lại một
lần, hay 60 năm lặp lại một lần… của lịch pháp truyền thống, chứa đựng nhiều
điều bí ẩn, phảng phất đâu đó một niềm hoài vọng rằng những « bước đi của thời
gian » có thể sẽ được lặp lại cùng với những đổi thay lớn lao, như chia sẻ dưới
đây của nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn :
Nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn : Năm 2014 là vừa đúng chu kỳ 60 năm với năm
Giáp Ngọ 1954, năm đất nước phân đôi bằng vĩ tuyến 17, qua hiệp định Genève. Có
lẽ tất cả người Việt Nam cũng mong mỏi là qua một chu kỳ 60 năm như thế, thì
Việt Nam mình vượt được một chặng đường gian khổ và có thể mở ra một hành trình
tốt đẹp hơn cho tương lai.
Cả thế giới đều biết tác phẩm «
1984 » của George Orwell. Sở dĩ Orwell chọn năm 1984, vì trong thời gian
ông làm cảnh sát cho đế quốc Anh ở Miến Điện. Ông ấy gặp được một ông già rất
rành về lịch pháp, và được giảng về chu kỳ ba lần 60 năm : 60 năm đầu là Thượng
nguyên, 60 năm tiếp theo là Trung nguyên và 60 năm còn lại là Hạ nguyên. Năm
1984 là năm Giáp Tý, năm mở đầu của một chu kỳ 180 năm. Orwell chọn 1984 là sự
khởi đầu cho một kỷ nguyên toàn trị, với cảnh báo rằng đây không phải là một cực
lạc quốc, không phải là một thế giới an bình, mà là một thế giới toàn trị.
Trong đó, con người bị kiểm soát không chỉ về thân, mà cả về tâm, không chỉ bị
kiểm soát bằng cảnh sát, mà tự mình kiểm soát chính mình (tác phẩm khoa học
– giả tưởng « 1984 » của Orwell về một xã hội toàn trị tại Anh Quốc, xuất bản
năm 1949, dựa trên những thực tế của chế độ toàn trị Xô Viết – ndr).
Có một sự trùng hợp lạ lùng là
Giáp Tý là 1984, thì năm đổi mới ở Liên Xô (cũ) là 1985, ở Việt Nam là 1986.
Phần nào có một sự trùng hợp với chu kỳ mà ông Orwell đã nhắc tới.
Nhiều người trẻ không quan tâm đến năm tuổi
Thật ra trong xã hội Việt Nam,
không phải ai cũng sẵn lòng tin vào một vận mệnh của cá nhân hay xã hội, được
quy định dựa theo các dấu hiệu trong vòng luân chuyển của 12 con giáp, hay theo
hệ thống lục thập hoa giáp. Sau đây, là cảm nhận của chị Ngô Thị Hồng Nhung,
người phụ trách một mạng lưới hoạt động từ thiện có trụ sở tại Hà Nội.
Nhà hoạt động xã hội Ngô Thị Hồng Nhung : Mọi người thường nói năm Ngọ là nhiều tài lộc,
đại khái như vậy, thực ra em không quan tâm nhiều đến vấn đề này. Chỉ có điều
là kinh tế Việt Nam năm nay không biết sẽ có tốt lên hơn không ? Vì hiện tại,
mọi người xung quanh cuộc sống cũng có nhiều khó khăn, cũng hy vọng cuộc sống
sẽ tốt hơn.
Cái việc có năm hạn hay không,
thì thường ở nhà bố mẹ có xem, hay vào chùa làm lễ "cầu mát",
thì gia đình có làm, nhưng em không để ý. Các bạn em cũng không « tín »
lắm, trong việc xem năm hạn hay không, có vấn đề gì không, để đi lễ, đi cầu…
Chỉ có điều, khi gặp khó khăn, mọi người hay than thở là, « năm nay năm tuổi
gặp nhiều khó khăn ! ». Thế thôi !
Thế hệ sau 75 chi phối năm Giáp Ngọ
Từ thế giới biểu tượng kỳ ảo,
mang chất thơ và khó kiểm chứng, nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn giới thiệu một
góc nhìn khác hẳn về ý nghĩa của bước đi thời gian, khi những quan niệm cổ
truyền về sự nối tiếp thế hệ được đem ra so sánh với những quan niệm đương đại
về thế hệ, mà sự chuyển giao/thay thế, diễn ra với tốc độ ngày một nhanh chóng.
Tốc độ của « mã đáo » Giáp Ngọ 60 năm về trước có thể khác hẳn với tốc độ của
năm Giáp Ngọ 2014 sắp đến.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn : Chu kỳ 30 năm có thể nói như chu kỳ một thế
hệ. Bởi vì thường người ta lập gia đình, có con cái là cách nhau khoảng hai
mươi mấy, ba mươi năm. Hiện giờ ở Việt Nam trong đời sống dân chúng, thường họ
gọi nhau cứ 10 năm là một thế hệ. Thí dụ thế hệ 8x, 9x,… (tức thế hệ sinh vào
những năm 1980, 1990). Nhắc đến đây tôi nhớ đến nhà triết học Tây Ban Nha đầu
thế kỷ XX Ortega y Gasset. Ông ấy chủ trương một thế hệ là tính bằng 15 năm.
Tức là người trưởng thành trước 15 năm với người mà trưởng thành sau 15 năm thì
phải xếp vào hai đợt sóng khác nhau, và sẽ chi phối đến xã hội và lịch sử một
cách khác nhau.
Vậy năm Giáp Ngọ tới sẽ chịu sự chi phối
của thế hệ nào ?
Nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn : Chắc chắn sẽ chịu sự chi phối chính của những
thế hệ trưởng thành sau 1975, tức là những người không có mắc míu, nợ nần, mặc
cảm, không có hãnh tiến về những gì mình đã làm hoặc không làm trong chiến
tranh. Còn một thế hệ nữa là những người sinh sau năm 1985 hoặc 1986, tôi nghĩ
thế hệ đó là thế hệ « đổi mới » ở Việt Nam, ngay từ khi sinh. Ngay từ
khi sinh ra đã hưởng chính sách đổi mới của Việt Nam rồi. Và những người đó nếu
xuất hiện ở bên ngoài đất nước, thì cũng không còn bị lệ thuộc lắm về những
ràng buộc mắc míu của cha anh trong chính quyền của Việt Nam Cộng hòa, hoặc
quân lực Việt Nam Cộng hòa, hoặc từng đi tù cải tạo, hoặc bị khốn khó trong
chuyện vượt biên… Tôi tin là những thế hệ đó mới là những thế hệ trong tương lai
có thể chi phối đến lịch sử Việt Nam hơn cả. Những người sinh sau thời gian này
(1985-1986) ở trong và ngoài nước dễ đồng cảm hơn là những người thuộc thế hệ
tôi, hoặc những người thuộc thế hệ lớn hơn.
Đâu là mẫu số chung cho loài người ?
Nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn : Tôi không phải là người tin theo những ngành
(huyền học) đó, dù rằng tôi không bài bác. Tôi nghĩ đến cái căn bản chung cho
cả loài người. Còn tất cả những phép thuật kia, những phép bí truyền kia,
thường chỉ nằm ở một tộc người, hoặc một nhóm nhỏ và cái đó không thể là mẫu số
chung của loài người được.
Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, từ
thế kỷ 18 đến thế kỷ 20, loài người đặc biệt là ở Châu Âu, Châu Mỹ, quá tôn
sùng cái khoa học có tính « tất định », như khoa học vật lý với đại biểu
như Newton trở về trước. Đây là một cái nhìn khoa học có tính bó buộc và có
tính tất định và như vậy, nó lột hết tất cả những giá trị tâm linh, những ý
nghĩa của cả vũ trụ này, và của cả con người. Cho nên, người bình dân đại chúng
không chấp nhận cái bảng giá trị của khoa học như thế. Không chỉ người bình dân
thôi, ngay cả các trí thức hàng đầu, như Charles Darwin hay Bertrand Russel.
Charles Darwin khi đã hoàn thành được thuyết tiến hóa, thì ông ấy u buồn lắm,
vì trước kia ông ấy là một người mộ đạo, tin vào Thánh kinh, tin vào Nhà thờ,
khi ra cái đó, ông ấy cảm thấy hoang mang ở chỗ là, ông ấy giải thích được tiến
hóa của đời sống, của loài người, nhưng không tìm thấy được cái ý nghĩa, cái
giá trị cho chính đời của mình (quan điểm của Charles Darwin về Thiên chúa
giáo trong giai đoạn cuối đời từng là đối tượng của nhiều nghiên cứu và tranh
luận - ndr). Nếu những người trí tuệ hàng đầu của thế giới mà còn phải
hoang mang như vậy, thì việc người bình dân họ bám vào một cái bảng giá trị,
hay một ngành học thuật, hoặc kỹ thuật nào đó, để gán cho cuộc đời của bản thân
mình, hay cho cả vũ trụ một ý nghĩa, vẫn làm cho cuộc sống vui, đẹp hơn cái
lạnh lùng của khoa học, khoa học có tính cách tất định kia. Tôi nghĩ rằng, đó
là điều giải thích tại sao, ở những thành phố như Paris, hay Sài Gòn còn hàng
trăm ngàn người sống được bằng những nghề bói toán, chẳng hạn.
(Người biên tập : Cho đến
nay, dường như chưa có nghiên cứu nào đưa ra con số hàng trăm ngàn thầy bói tại
Paris. Bên cạnh đó, tình hình cũng rất khác nhau giữa Pháp và Việt Nam trên
phương diện vị trí của các môn huyền học. Tại Pháp, các môn huyền học, hay các
môn học thần bí, không được công nhận là bộ môn khoa học trong không gian đại
học, không gian nghiên cứu khoa học về xã hội, con người. « Affaire Teissier »
năm 2001 cho một ví dụ tiêu biểu. Trong khi đó, tại Việt Nam, theo chúng tôi
được biết, các môn học thần bí không những hết sức phổ biến trong xã hội dân
sự, mà còn xâm nhập, chi phối mạnh mẽ cả các không gian khoa học. Theo một số
nhà quan sát, đây rất có thể là một nhân tố cản trở nghiêm trọng sự trưởng
thành của các khoa học về xã hội và con người tại Việt Nam trong vòng gần hai
thập niên trở lại đây. Ngược lại, chính trạng thái chậm phát triển
của các khoa học về xã hội và con người và tình trạng độc đoán về ý thức hệ lại
khiến các môn thần bí càng có điều kiện nở rộ).
(…) Trong hơn 7 tỷ con người
trên trái đất, cái nào là mẫu số chung. Hiện thời chúng ta đành phải nói rằng
cái đó là khoa học thôi. Bởi vì khoa học không lệ thuộc vào một ngôn ngữ, vào
một truyền thống, vào một văn hóa của một tộc người nào cả. Và cái sức mạnh của
khoa học không phải là cao nhất, nhưng ít ra, tất cả những gì trái với nó sẽ bị
đào thải. Dĩ nhiên ngay khoa học cũng có những con đường chấn chỉnh và tiến hóa
của nó. (…) Ngay cả những quy luật của các khoa học cứng rắn nhất, có thể cân
đong đo đếm như vật lý, bây giờ người ta cũng chỉ gọi là các quy luật thống kê,
xác suất, chứ không thể nói rằng nó tất định được.
Tâm hồn chính trực trước sự đổi mới liên
tục của đất trời
Dù sao, lịch pháp cổ truyền với
chu kỳ 12 con giáp hay lục thập hoa giáp, về nguyên tắc, chỉ có thể cho phép mô
tả sự quay vòng của thời gian, chứ không có phương tiện để thể hiện được « dòng
vận động tuyến tính » của thời gian, một đi không trở lại, như giáo sư Lê Thành
Lân cho biết :
Nhà lịch học Lê Thành Lân : Người ta có chia ra làm Thượng nguyên, Trung
nguyên và Hạ nguyên. Mỗi một nguyên có 60 năm, tổng cộng là 180 năm, nhưng chu
kỳ này cũng mờ nhạt lắm, không mấy khi người ta nhắc đến. Thời xưa, người ta
thường gọi tên năm theo tên hiệu của các vua (điều này có tác dụng để phân
biệt giữa các năm cùng tên - ndr). Còn bây giờ dùng dương lịch thì không
còn việc này nữa. Từ khi có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay bên Trung Quốc, có
Trung Hoa Dân Quốc, thì người ta không nhắc đến niên hiệu nữa.
Tạp chí khép lại với một trầm
tư của nhà văn Võ Thị Hảo về sự tuần hoàn, nhưng không hề lặp lại nguyên vẹn mà
liên tục đổi mới của vạn vật buộc con người phải suy nghĩ khi đối diện với
chính mình, nhất là mỗi khi xuân tới.
Nhà văn Võ Thị Hảo : Có một điều là con người có một sức sống rất
mãnh liệt. Đó là bản năng sống được « cài đặt ». Tôi thấy người ta vẫn
ra đường, nhiều người vẫn cặm cụi thức khuya dậy sớm, để làm lụng cố gắng kiếm
sống một cách lương thiện. Cũng như mặt trời lặn rồi lại mọc, hy vọng vào điều
ấy, vào sự kiên cường của con người Việt Nam. Năm tháng là nhịp bước tuần hoàn
của thời gian, có điều là cái bước sau có quay trở lại chỗ cũ cũng chẳng bao
giờ hoàn toàn giống như bước trước. Mỗi một lần, một mùa, một tháng, một năm
qua đi, tôi luôn nghĩ như thế. Tôi chào Tết mới, hay chào tháng mới, năm mới và
mùa mới, chào cơn gió thu của năm nay cũng khác với cơn gió của năm ngoái. Và
cái điều an ủi là, đến đất trời mà còn khác, đến đất trời mà còn phải tự làm
mới mình, thì tại sao con người lại chối từ việc làm mới mình ? Đấy là một ân
sủng của « Tạo hóa » ban cho.
Cái việc tự làm mới mình đầu
tiên là mỗi người hãy yêu chính mình một chút. Yêu chính mình bằng cách, mình
có quyền nói, mình có quyền thể hiện những điều mình nghĩ, mình dám nói lên sự
thật ! Phải có cái phản xạ trong tâm hồn của một con người chính trực trước
những điều đang xẩy trước mắt mình, không thể thờ ơ. Tôi nghĩ rằng, cái ân sủng
của Tạo hóa ban cho con người biết nhìn, biết nghe, biết nghĩ và biết nói : Hãy
tận dụng điều đó !
Các bài liên quan
Chuyện con Rồng xưa và nay (2012)
Hung cát năm Tân Mão
(2011)
Năm
Sửu nói chuyện con Trâu (2009)
No comments:
Post a Comment