26-1-2014
Đọc báo mạng, chúng ta thường
bắt gặp một số phản hồi từ các độc giả trẻ trong nước thắc mắc tại sao Việt Nam
Cộng Hòa và các cộng đồng người Việt Quốc gia hải ngoại lại lấy một bài hát của
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, một Đảng viên Cộng Sản, để làm bài Quốc ca ?
Để góp phần giải tỏa phần nào
thắc mắc của các bạn trẻ trong nước, trước hết, nên tìm về lai lịch khá đặc
biệt của bài hát danh tiếng này.
…
Bối cảnh
Nửa đầu Thế kỉ 20, cả Đông
Dương thuộc Pháp (Việt-Miên-Lào) chỉ có một Đại học mang tên Đại Học Đông Dương
(Université de L’Indochine) tại Hà Nội. Hồi những năm 1940, có khoảng
trên 800 sinh viên theo học ở đây, bao gồm phân nửa là sinh viên Việt Nam, còn
lại là các sinh viên Miên, Lào, Pháp và có cả một ít sinh viên Tầu và vài nước
Đông Nam Á nữa.
Thời đó, chỉ có con nhà khá giả
mới có tiền học lên Đại học, nhất là phải đi học xa nhà. Nói chung, hầu
hết các sinh viên này chỉ lo “giật” lấy mảnh bằng để sau này có địa vị, có tiền
bạc theo nguyện vọng của cha mẹ và gia đình họ.
Tuy nhiên, vẫn có một số sinh
viên biết đặt dân tộc và đất nước lên trên những lợi lộc vật chất và công danh,
sự nghiệp bản thân. Do đã lĩnh hội được tư tưởng khai phóng và tinh thần
cách mạng Pháp, họ hiểu biết về các quyền lợi căn bản của người dân, như các
quyền bình đẳng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do đi lại… và hiểu như thế
nào là chế độ thực dân, là áp bức bóc lột, là độc lập, tự do, dân chủ… cho nên
họ đã đem những kiến thức mới mẻ ấy để nâng nhiệt tình yêu nước của chính mình
lên một bước trưởng thành mới; sau đó, họ dùng báo chí, ca, kịch để khơi dậy
lòng ái quốc và thúc giục đồng bào đứng lên chống lại thực dân Pháp, giành lại
độc lập cho nước nhà.
Một điều khá lí thú là những
sinh viên hoạt động văn hóa, văn nghệ hăng say và đều đặn nhất trong thời điểm
ấy là nhóm sinh viên từ Miền Nam ra học tại Hà Nội, như Lưu Hữu Phước, Nguyễn
Tôn Hoàn, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Trần Văn Khê, Phan Thanh Hòa, Đặng Ngọc
Tốt, Nguyễn Thành Nguyên, Nguyễn Tú Vinh, Nguyễn Văn Thiêm, Hồ Văn Huê, Nguyễn
Mỹ Ca, Phan Thị Bình, Nguyễn Thị Thiều…
Xuất sắc nhất trong số các sinh
viên hoạt động văn nghệ thời đó là Sinh viên Lưu Hữu Phước. Một mình Sinh
viên Lưu Hữu Phước đã sáng tác ra nhiều bài hát ái quốc vượt thời gian,
như Tiếng Gọi Sinh Viên, Người Xưa Đâu Tá, Bạch Đằng
Giang (lời của Mai Văn Bộ), Ải
Chi Lăng (lời của Mai Văn Bộ), Hội Nghị Diên
Hồng, Hát Giang Trường Hận (Hồn Tử Sĩ),
Xếp Bút Nghiên …
Đây là những bài hát có tính
cách lịch sử, đã làm bừng sống dậy tình yêu quê hương đất nước.
Bài Sinh Viên Hành Khúc
Bài Sinh Viên Hành Khúc (La
Marche des Étudiants) là bài hát có lịch sử rất đặc biệt. Bài được sáng
tác năm 1939, nhạc của Lưu Hữu Phước, lời tiếng Pháp của Lưu Hữu Phước và Mai
Văn Bộ và được chọn là bài hát của Câu Lạc Bộ Học Sinh Petrus Ký (chưa tìm thấy
lời tiếng Pháp đầu tiên này).
Từ khi ra đời, phần nhạc của
bài hát không thay đổi, nhưng phần lời sẽ lần lượt được sửa chữa bởi tác giả,
bởi các bạn sinh viên và sau này còn được sửa chữa coi như mới hẳn theo mục
tiêu và chính kiến khác nhau của các tập thể chọn lựa bài hát này. Bài hát cũng
sẽ mang các tên khác nhau: Sinh Viên Hành Khúc, Tiếng Gọi Sinh Viên,
Thanh Niên Hành Khúc, Tiếng Gọi Thanh Niên, Quốc Dân Hành Khúc, Tiếng Gọi Công
Dân.
Trước hết, theo Ts. Trần Quang
Hải và Báo Chuông Việt thì Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã đặt lời tiếng Việt đầu tiên
cho bài hát trước 1940, hồi còn là học sinh ở Sài Gòn với câu mở đầu : “Này anh em ơi ! Chúng ta kết đoàn hùng tráng. Đồng lòng
cùng nhau, ta đi kiếm nguồn tươi sáng…“. Khi ra học ở Đại
Học Đông Dương, Hà Nội, khoảng 1940 – 1941, ông lại sửa chữa đôi chút với lời
mới như sau : “Nào anh em ơi ! Tiến lên đến ngày
giải phóng. Đồng lòng cùng nhau, ta đi sá gì thân sống… ” và đặt
tên cho bài hát là “Sanh Viên Hành Khúc” (Nguyễn Vĩnh Tráng. Lời mới cho
bài hát “Tiếng gọi thanh niên” dẫn theo DT Pho Rum của Đặc Trưng, năm 2000, với
tài liệu lấy ở “Âm Nhạc Việt Nam ” của Trần Quang Hải, 1989, và Báo Chuông Việt
1966. Chimviet,free.fr.).
Từ chỗ ít người biết đến, bài
hát đã được một nhóm sinh viên đem ra hát công khai trong những buổi đi cắm
trại hoặc đi viếng những địa danh lịch sử. Và vì phần lời bằng tiếng Việt
lúc đầu còn “thô kệch”, lại bị Sở Mật Thám Pháp làm khó dễ do nội dung thôi
thúc sinh viên đứng lên đấu tranh giải phóng đất nước, cho nên các bạn sinh
viên đã phải sửa lại lời cho trôi chảy hơn cũng như phải “đấu tranh” với cơ
quan kiểm duyệt để bài hát trở thành hợp pháp, và sau đó được Tổng Hội Sinh
Viên Đông Dương (Association Générale des Étudiants Indochinois, viết tắt
A.G.E.I.) chọn làm bài hát chính thức với danh xưng là “Sinh Viên Hành Khúc”
hay “Tiếng Gọi Sinh Viện”, mở đầu bằng: “Nầy Sinh
Viên ơi ! Đứng lên đáp lời sông núi. Đồng lòng cùng đi, đi đi mở đường khai
lối… “.
Việc các sinh viên thuộc Tổng
Hội Sinh Viên phân công nhau soạn ra phần lời mới cho bài Sinh Viên Hành Khúc
được Gs. Nguyễn Ngọc Huy thuật lại với khá nhiều chi tiết. Theo ông,
chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942, Tổng Hội Sinh Viên tổ chức tại Đại Giảng Đường
của Viện Đại Học một buổi ca hát để lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo tại các
bệnh viện được dùng làm nơi thực tập cho các sinh viên Khoa Y Dược. Nhân
dịp này, Tổng Hội Sinh Viên muốn tung ra một bài hát đặc biệt để làm bài hát
chính thức của Tổng Hội. Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội lúc đó là Sv. Nguyễn
Tôn Hoàn nhận thấy nhạc điệu bài La Marche des Étudiants của Sv. Lưu Hữu Phước
“có tánh cách khích động tinh thần tranh đấu hơn hết” nên đã chọn để làm phần
nhạc cho bài hát chính thức của Tổng Hội Sinh Viên, lấy tên là Sinh Viên Hành
Khúc và giao cho một Ủy ban soạn phần lời cho bản nhạc này. Ủy Ban gồm có
các Sinh viên Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Thành Nguyên,
Phan Thanh Hòa, Hoàng Xuân Nhị. (Gs. Nguyễn Ngọc Huy. Quốc
Kỳ và Quốc Ca Việt Nam. TTXVA. Xem thêm bài Ký Ức Về Lưu Hữu Phước, Trần Văn Khê và Tổng hội Sinh viên Việt
Nam của Ls. Lâm Lễ Trinh. Vietnam Weekly News, Số 952, 27.7.2007).
Sinh viên Hành khúc
I.
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối
Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá
Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường
Điệp khúc:
Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối
Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá
Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường
Điệp khúc:
Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
II.
Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xoá!
Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá!
Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,
Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn
Hồ Tây tranh phong oai son phấn,
Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn
Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,
Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám
Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,
Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền
(Điệp khúc)
III.
Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!
Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,
Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng
Là sinh viên vun cây văn hoá,
Từ trước sẵn có nhiều hoa lá
Đời mới kiến thiết đáp lòng những ai
Hằng mong ta ra vững cầm tay lái
Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
(Điệp khúc)
Phần lời tiếng Việt chỉ thích
hợp với các sinh viên Việt Nam, do đó, để toàn thể sinh viên Đại học Đông
Đương, gồm cả Pháp, Miên, Lào, có thể hát chung một bài hát. Ủy ban soạn lời đã
viết thêm phần lời bằng tiếng Pháp và lấy lại tên cũ là La Marche des
Étudiants.
La Marche des Étudiants
Étudiants! Du sol l’appel tenace
Pressant et fort, retentit dans l’espace.
Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,
À travers les monts, du sud jusqu’au nord,
Une voix monte ravie:
Servir la chère Patrie!
Toujours sans reproche et sans peur
Pour rendre l’avenir meilleur.
La joie, la ferveur, la jeunesse
Sont pleines de fermes promesses.
Điệp khúc:
Te servir, chère Indochine,
Avec cœur et discipline,
C’est notre but, c’est notre loi
Et rien n’ébranle notre foi!
Étudiants! Du sol l’appel tenace
Pressant et fort, retentit dans l’espace.
Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,
À travers les monts, du sud jusqu’au nord,
Une voix monte ravie:
Servir la chère Patrie!
Toujours sans reproche et sans peur
Pour rendre l’avenir meilleur.
La joie, la ferveur, la jeunesse
Sont pleines de fermes promesses.
Điệp khúc:
Te servir, chère Indochine,
Avec cœur et discipline,
C’est notre but, c’est notre loi
Et rien n’ébranle notre foi!
Sau buổi trình diễn ca nhạc
chiều ngày 15.3.1942 thành công mĩ mãn, bài Sinh Viên Hành Khúc được công nhận
là bài hát chính thức của Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Đông Dương. Từ đó,
các sinh viên trong Ban Âm Nhạc tiếp tục phổ biến bài hát này cho công chúng Hà
Thành trong những buổi trình diễn tại Rạp Olympia, qua tiếng hát xuất sắc của hai
Sinh viên Phan Thị Bình và Nguyễn Thị Thiều. Hai sinh viên này cũng từ
Miền Nam ra Hà Nội học Ngành Nữ Hộ Sinh (École des Sage-femmes) tại Bệnh viện
René Robin.
Nhân ngày Giỗ Tổ
Hùng Vương năm 1942, bài Sinh Viên Hành Khúc lại được các sinh viên Đại Học
Đông Dương ca lên hùng tráng ngay dưới chân núi Nghĩa Lĩnh (Việt Trì, Tỉnh Phú
Thọ), nơi tọa lạc Đền Hùng.
Sau Hà Nội, các sinh viên đã
đưa bài Sinh Viên Hành Khúc trở lại Miền Nam để trình diễn tại Nhà Hát Lớn Sài
Gòn và được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau buổi trình diễn ca nhạc tại
Đại Giảng Đường Trường Đại học ngày 15.3.1942, mùa hè năm đó, Tổng Hội Sinh
Viên lại tổ chức lễ mãn khóa cho các sinh viên tốt nghiệp tại Nhà Hát Lớn Hà
Nội, có Toàn Quyền Đông Dương Decoux (Le Gouverneur Général de l’Indochine) và
nhiều viên chức người Pháp đến dự. Lễ khai mạc bắt đầu, tất cả mọi người
đứng lên nghiêm chỉnh, Ban Nhạc Hải Quân Pháp (Orchestre de la Marine) trổi Bài
Quốc Ca Pháp La Marseillaise. Tiếp ngay sau đó, ban nhạc cử Bài La Marche
des Étudiants. Nhạc tấu hùng tráng, lôi cuốn, hớp hồn, khiến Toàn Quyền
Pháp và toàn thể cử tọa vẫn đứng nghiêm như đang chào Quốc Kì của một Quốc
gia. Nghi lễ khai mạc trang trọng chấm dứt, chương trình văn nghệ mới bắt
đầu.
Bs. Nguyễn Lưu Viên, cựu sinh
viên Đại Học Đông Dương, cũng kể về một buổi lễ diễn ra tương tự vào ngày
03.3.1945, chỉ có 6 ngày trước khi chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam bị quân
đội Nhật đảo chính ngày 09.3.1945 (Bs. Nguyễn Lưu Viên. Những Kỷ Niệm Với Bài Quốc Ca Của VNCH.
Tập San Y Sĩ Tháng 4.2008).
Đến năm 1945, tổ chức Thanh
Niên Tiền Phong ra đời ở Miền Nam, họ cũng chọn bài này làm bài hát chính thức
của tổ chức và đổi tên là Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên.
Khi bài hát mang tên Thanh Niên Hành Khúc thì thay 2 chữ “sinh viên” bằng 2 chữ “thanh
niên” mà thôi.
Sau khi Vua Bảo Đại thoái vị,
ngày 30.8.1945, Hồ Chí Minh cho đưa Cựu Hoàng ra Hà Nội và phong cho ông chức
cố vấn. Nhưng đến ngày 16.3.1946, Ông Hồ “cho” Cựu Hoàng tháp tùng phái
đoàn Nghiêm Kế Tổ đi du lịch Nam Kinh, rồi ông “khuyên” Cựu Hoàng nên ở lại
Tầu. Vì thế, Cựu Hoàng mới đi Côn Minh rồi tới Hong Kong. Năm 1947,
Pháp bắt đầu muốn dùng con bài Bảo Đại và nhiều buổi tiếp xúc, nhiều cuộc vận
động chính trị diễn ra bận rộn suốt năm 1947. Trong một cuộc hội nghị tại
Hồng Kông do Cựu hoàng Bảo Đại triệu tập, có sự tham dự của một số nhân sĩ và
đại diện các tôn giáo, các đảng phái, Bs. Nguyễn Tôn Hoàn đã đề nghị hội nghị
lấy bài Thanh Niên Hành Khúc của Ns. Lưu Hữu Phước làm bài Quốc Ca của Quốc Gia
Việt Nam và đổi tên thành Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Hội
nghị chấp thuận. Do đó, khi Chính phủ Nguyễn Văn Xuân ra đời tại Sài Gòn
vào ngày 02.6.1948 thì bài Tiếng Gọi Công Dân
nghiễm nhiên trở thành bài Quốc Ca.
Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Quốc
Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa khai mạc vào tháng 3 năm 1956, một trong những
nhiệm vụ của Quốc Hội Lập Hiến là chọn Quốc Kì và Quốc Ca. Một số nhạc sĩ
đã tham dự cuộc thi tuyển Quốc Ca, như Phạm
Duy với bài Chào Mừng Việt Nam, Hùng Lân với
2 bài Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam và Việt Nam Minh
Châu Trời Đông, Ngô Duy Linh với bài Một
Trời Sao, Ngọc Bích và Thanh Nam với bài Suy
Tôn Ngô Tổng Thống (xin xem Biển Nhớ. Quốc Ca VNCH ra đời như thế nào. Dactrung.com).
Mặc dù bài Minh Châu Trời Đông
của Nhạc sĩ Hùng Lân được coi là sáng giá hơn và đã từng được Quốc Dân
Đảng dùng làm Đảng Ca từ năm 1945, nhưng cuối cùng Quốc Hội Lập Hiến lại chọn
bài Quốc Ca mà Chính phủ Nguyễn Văn Xuân (và cả Chính phủ Nguyễn Văn Tâm) đã
chọn trước đó, rồi ra lệnh cho nhân viên Đài Phát Thanh Sài Gòn giữ nguyên phần
nhạc, nhưng phải sửa lại lời ca cho phù hợp với giai đoạn mới và vận hội mới
của đất nước, cũng lấy tên là Tiếng Gọi Công Dân.
Quốc ca Việt Nam Cộng hòa
Tiếng Gọi Công Dân
Quốc ca Việt Nam Cộng hòa
Tiếng Gọi Công Dân
Này Công Dân ơi! Quốc gia đến
ngày giải phóng
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho phơi thây trên gươm giáo,
Thù nước, lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người Công Dân luôn vững bền tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công Dân ơi! Mau làm cho cõi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống
Xứng danh nghìn năm giòng giống Lạc Hồng!
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho phơi thây trên gươm giáo,
Thù nước, lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người Công Dân luôn vững bền tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công Dân ơi! Mau làm cho cõi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống
Xứng danh nghìn năm giòng giống Lạc Hồng!
Đó là bài Quốc Ca của cả hai
nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa.
Ngày 30.4.1975, Việt Nam Cộng
Hòa sụp đổ, người ta lấy lại tên cũ cũng như phần lời của bài Tiếng Gọi Thanh
Niên như thời Thanh Niên Tiền Phong 1945.
Tại sao Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa lại là
một bài hát của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, một Đảng viên Cộng Sản?
Chẳng riêng gì giới trẻ ngày
nay, mà cả những người dân Miền Bắc, nhất là các Đảng viên Cộng Sản đều không
thể hiểu nổi, tại sao Miền Nam tự do có thiếu gì nhạc sĩ tài ba, thiếu gì bài
hát hay với đầy đủ ý nghĩa, mà lại lấy ngay một bài hát của anh Cộng sản Lưu
Hữu Phước để làm Quốc ca?
Chính Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, từ
năm 1949, đã viết thư kịch liệt phản đối mạnh mẽ về việc này và sau đó, trong
thời chiến tranh Nam Bắc, từ Hà Nội, Ns. Lưu Hữu Phước từng lên Đài Tiếng nói
Việt Nam (Hà Nội) liên tục bác bỏ, giễu cợt và cả mắng nhiếc về việc bài hát
Sinh Viên Hành Khúc của ông “vẫn cứ bị người bên kia chiến tuyến sử dụng vào
một mục đích khác!”.
Thiển nghĩ, có thể luận giải
vấn nạn này như sau:
Một:
Lí do đầu tiên khiến cho bài
Sinh Viên Hành Khúc (Tiếng Gọi Sinh Viên, Thanh Niên Hành Khúc, Tiếng Gọi Thanh
Niên) của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước được Quốc Hội Lập Hiến VNCH chọn làm bài Quốc
ca chính là vì giá trị nổi bật của bài hát đó.
Những ai đã biết bài Quốc ca
Pháp, La Marseillaise, sẽ thấy bài này mang hơi hướng của bài Quốc Ca
Pháp. Điều đó là tự nhiên, bởi vì, thời đó, người Pháp đã ở nước ta xấp
xỉ 80 năm, ảnh hưởng văn minh, văn hóa Pháp phổ biến khắp nơi, nhất là đối với
giới trẻ theo Tây học như Lưu Hữu Phước và các bạn đồng trang lứa của
ông. Bài La Marseillaise được coi là mẫu mực của loại “Hành Khúc Âu
Châu”, là bài hát đầu tiên trong thể loại này ở Âu châu. Vì thế, cũng như
bài La Marseillaise, nhạc điệu bài Sinh Viên Hành Khúc sáng tác theo thể loại
hành khúc mạnh mẽ, dồn dập; còn lời thì réo gọi, thôi thúc, nhất là Điệp khúc
uy lực như như một quân lệnh thét gọi tiến lên, hiến thân diệt thù, cứu nước.
Hai:
Bất cứ tác phẩm văn nghệ hoặc
công trình nghiên cứu nào đã công khai xuất bản đều nhắm vào sự hưởng dụng của
mọi người. Như thế, mặc nhiên tác phẩm ấy thuộc về quần chúng và quần
chúng có quyền xử dụng, miễn là không tìm cách kinh doanh kiếm lợi một cách
trái phép hoặc chủ ý đạo văn, vi phạm tác quyền của tác giả. Từ đó suy
luận, Quốc Hội Lập Hiến VNCH chọn bài nhạc của Ns. Lưu Hữu Phước để làm Quốc ca
là một vinh dự lớn cho Nhạc sĩ, bởi vì bài hát của ông đã được xử dụng nhằm mục
đích chung cao cả, tốt đẹp, thúc giục lòng yêu nước, yêu đồng bào một cách vô
vị lợi và luôn luôn nói rõ Ns. Lưu Hữu Phước là tác giả chứ không phải là bất
cứ ai khác.
Về luận giải này đã có 2 tiền lệ nổi tiếng, một tại Việt Nam, một tại
Pháp:
Tiền lệ tại Việt Nam: Tác giả Xuân Ba viết trên mạng kể về một
kỉ niệm “hằn trong tâm trí” với Nhạc sĩ Văn Cao vào năm 1991 như sau: “Cũng chợt nhớ lần hầu chuyện trưa đó, khi chúng tôi gạn
rằng, về nhạc và lời của Tiến Quân Ca (Quốc ca của Cộng Sản VN) nếu giờ cho
biên tập lại, nhạc sĩ sẽ thêm bớt ở đoạn nào?” Ông cười, lắc đầu: “Ngay trong cái đêm tình cờ lần đầu được nghe Tiến Quân
Ca trong một ngõ vắng, tôi có nhận ra được vài chỗ nhịp điệu còn chưa hoàn
chỉnh nhưng bài hát đã in ra rồi, bài hát đã phổ biến và không còn là
của riêng tôi nữa…” (Xuân Ba. Sửa Lời Quốc Ca. tienphong.vn).
Tiền lệ tại Pháp: Trong bài Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam,
Gs. Nguyễn Ngọc Huy thuật lại lai lịch bài La Marseillaise, tức là bài Quốc ca
của nước Pháp. Tác giả bài Quốc ca nước Pháp là viên sĩ quan bảo hoàng
Rouget de Lisle. Ông sáng tác bài này vào năm 1792 dưới thời Vua Louis
XVI. Năm sau, 1793, nhà vua bị Cách mạng Pháp xử tử và Rouget de Lisle
cũng bị bắt vì tội theo phe bảo hoàng và cũng đã bị lên án tử hình. May
mắn có Ông Lazare Carnot là Ủy viên Quốc phòng của Hội Đồng Cách Mạng muốn cứu
mạng Rouget, vì cả hai cùng xuất thân từ một binh chủng. Ông Lazarre đề
nghị Rouget tuyên thệ trung thành với Cách Mạng, nhưng Rouget cự tuyệt, thà
chết chứ dứt khoát không phủ nhận lí tưởng bảo hoàng của mình. Cuối cùng
Rouget de Lisle thoát chết chỉ vì Chính phủ Cách Mạng của tay đại khủng bố
Robespierre bị lật đổ trước khi bản án tử hình Rouget de Lisle kịp thi
hành. Sau năm 1793 ấy, Rouget de Lisle tiếp tục chống Cách Mạng, nhưng
chính quyền Cách Mạng Pháp vẫn dùng bài La Marseillaise của Rouget de Lisle và
đến năm 1795 thì chính thức quyết định lấy bài này làm bài Quốc ca của nước
Pháp.
Ba:
Người Cộng sản
chủ trương điều tra lí lịch tam đại triệt để, đồng thời trù ếm đối thủ tới đời
con đời cháu. Trái lại, người Quốc gia không vơ đũa cả nắm, công tội phân
minh.
Thơ tiền chiến của Thế Lữ vẫn được giảng dậy và lưu truyền ở Miền Nam
trước 1975 cùng với những tập Điêu Tàn (1937) của Chế
Lan Viên; Thơ Thơ (1938) của Xuân Diệu;
Tiếng Thu (1939) của Lưu Trọng Lư; Lửa
Thiêng (1940) của Huy Cận; Cô Hái Mơ (1939),
Chân Quê (1940) và Lỡ Bước Sang Ngang (1940) của Nguyễn
Bính…
Các nhà văn ở lại Miền Bắc có
tác phẩm xuất bản thời tiền chiến vẫn được dân chúng Miền Nam tự do dành cho
một chỗ đứng xứng đáng trên văn đàn, như Nguyên
Hồng với Bỉ Vỏ (1937); Nam Cao với
Chí Phèo (1941); Tô Hoài với Dế Mèn Phiêu
Lưu Kí (1941) và O Chuột (1942) hay Nguyễn Tuân với
Vang Bóng Một Thời (1940) và Chiếc Lư Đồng Mắt Cua (1941)…
Riêng về loại nhạc tiền chiến
của các tác giả ở lại Miền Bắc lại càng được dân chúng Miền Nam yêu mến đặc
biệt, như Văn Cao với Buồn Tàn Thu (1939),
Thiên Thai (1941), Bến Xuân (1942), Trương Chi (1943); Hoàng
Qúy với Cô Láng Giềng (1942-43); rồi Tô Vũ với
Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa (1947); Nguyễn Văn Tý
với Dư Âm hoặc Canh Thân với Cô Hàng Cà Phê, Khúc Ca Mùa Hè, Anh Còn Cây
Đàn…
Một trong những lí do chính
khiến các tác phẩm tiền chiến của các tác giả trên được dân Miền Nam tự do trân
trọng và thưởng thức là vì khi sáng tác các tác phẩm trên đây, tất cả các
tác giả ấy chưa biết Đảng, chưa theo Đảng, chưa trở thành Đảng viên Đảng Cộng
Sản. Và vì thế các tác phẩm ấy không có tính Đảng, không nhằm phục vụ
Đảng. Lúc đó, các tác giả được tự do sáng tác theo cảm hứng tự nhiên,
trung thực và đầy tính nhân bản.
Một khi các tác giả ấy đi vào
tổ chức Đảng và bắt đầu bị chỉ đạo sáng tác để phục vụ chính trị, phục vụ tuyên
truyền, sáng tác “để chào mừng”…, thì tác phẩm không còn tính khai phóng, không
còn khả năng làm tròn sứ mệnh soi đường của một nghệ sĩ chân chính. Tất
cả mọi sinh hoạt văn học nghệ thuật đều nằm trong tay Đảng theo kiểu “bảy trăm
tờ báo trên toàn quốc chỉ có một Ban Biên Tập” như hiện nay. Dân Miền Nam
tự do rất bén nhậy. Từ khi các tác giả tiền chiến sáng tác theo lệnh
Đảng, dân Miền Nam không thèm biết tới những tác phẩm “văn nghệ” của các tác
giả ấy nữa.
Trường hợp Nhạc sĩ Lưu Hữu
Phước cũng giống như vậy.
Nhạc sĩ Lưu Hữu
Phước khi sáng tác những bài ca ái quốc, ông còn là một sinh viên yêu nước
thuần túy, chưa theo Cộng sản. Do đó, những bài hát ấy chưa có tính Đảng.
Thật vậy, Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
sinh năm 1921. Năm 1940, sau khi đậu Tú Tài tại Sài Gòn, ông ra Hà Nội
học Đại học Đông Dương, ngành Y Dược. Vào thời điểm đó, Lưu Hữu Phước là
một sinh viên trẻ mới 19 tuổi, có tài sáng tác các ca khúc, một thành viên
trong nhóm sinh viên thuộc Đại Học Đông Dương Hà Nội đầy nhiệt tình yêu nước và
tích cực trong các sinh hoạt văn hóa văn nghệ vào những năm đầu thập niên 1940.
Mãi mấy năm sau, khi Đảng Cộng
Sản cướp được chính quyền, Lưu Hữu Phước mới tham gia Đảng Tân Dân Chủ cùng với
một số sinh viên đồng trang lứa. Trong kế hoạch lôi kéo hàng ngũ sinh
viên trẻ về với mình, Cộng Sản dùng chiến thuật tuyên truyền, mua chuộc, thúc
ép và cả khủng bố. Điển hình là vào năm 1946, Việt Minh Cộng Sản đã cho
người vào Đông Dương Học Xá để bắt cóc Sinh viên Phan Thanh Hòa, Tổng Hội
Trưởng Tổng Hội Sinh Viên, đem đi thủ tiêu. Lí do là Sv. Phan Thanh Hòa
“công khai chống sứ giả của Hồ Chí Minh là hai anh em Phan Anh, Phan Mỹ đến dụ
THSV nhập vào Mặt Trận Việt Minh. Hòa tuyên bố Tổng Hội đứng ngoài đảng
phái” (Ls. Lâm Lễ Trinh. Bài đã dẫn). Chiến thuật vừa lôi kéo mềm mỏng vừa bạo
lực, sắt máu của Việt Minh Cộng Sản đã khiến cho một số khá đông thành viên
Đảng Tân Dân Chủ ngả theo họ, trong đó có Sinh viên Lưu Hữu Phước và một nhóm
bạn sinh viên người Miền Nam khác. (Sinh viên Phan
Thanh Hòa là anh của Sinh viên Phan Thị Bình và là hậu duệ Cụ Phan Thanh
Giản. Sau này Sv. Phan Thị Bình kết hôn với Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn).
Về việc này, Gs. Nguyễn Ngọc
Huy đã nhận xét: “Lưu Hữu Phước thuộc thành phần đảng viên Tân dân chủ bị
lôi kéo vào Đảng CS. Anh ta không đủ khí phách để chống lại việc đó và bị
loại ra khỏi trường chánh trị như Đặng Ngọc Tốt, cũng không đủ tinh thần sắt
máu để được CSVN tin dùng như Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Trần Bửu
Kiếm. Mặt khác, anh ta không có một khả năng đặc biệt về chánh trị mà
CSVN có thể khai thác được như Mai Văn Bộ. Trước sau, Lưu Hữu Phước chỉ
là một nhạc sĩ. Do đó, CSVN đã dùng anh ta như một văn công, sản xuất
nhạc theo lịnh Đảng và lên tiếng về các vấn đề khác những khi Đảng thấy
cần. Nói tóm lại, Lưu Hữu Phước đã sáng tác bản nhạc Quốc dân hành khúc
hay Tiếng gọi công dân lúc còn là một sinh viên có tinh thần quốc gia.
Ngày nay, anh ta là một văn công của CSVN và mọi lời phát biểu của anh ta chỉ
là do Đảng CSVN mớm cho” (Gs. Nguyễn Ngọc Huy. Bài
đã dẫn).
Một số nhận xét
Ba luận giải trên đây cho thấy
Quốc Hội Lập Hiến VNCH đã chọn bài Sinh Viên Hành Khúc của Sinh viên Lưu Hữu
Phước để làm bài Quốc ca vì đó là một bài hát xuất sắc, đã được phổ biến rộng
rãi, công khai và được dân chúng từ Bắc tới Nam đón nhận nhiệt liệt vì bài hát
phản ánh tình yêu nước và ý chí chống giặc ngoại xâm của người dân Việt.
Xét về quan điểm chính trị, khi
chọn bài này, Quốc Hội Lập Hiến VNCH đã phân biệt rõ ràng có 2 Lưu Hữu Phước,
một Lưu Hữu Phước trước khi theo Đảng Cộng sản và một Lưu Hữu Phước sau khi
theo Đảng.
Trước khi theo
Đảng, Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là một nhạc sĩ trẻ, yêu nước thuần túy, trong sáng
và ông đã sáng tác ra những ca khúc ái quốc bằng cảm hứng tự phát trong tự do
tuyệt đối.
Sau khi theo
Đảng, ông phải sáng tác theo lệnh Đảng, nhằm mục đích tuyên truyền, không còn
được tự do sáng tác như trước nữa. Ông trở thành một “văn công”, không còn là
một nghệ sĩ nữa. Đến ngay
cả việc ông lên Đài Phát Thanh Tiếng Nói Việt Nam (Hà Nội) để bác bỏ, giễu cợt
và cả mắng nhiếc về việc bài hát Sinh Viên Hành Khúc của ông “vẫn cứ bị người
bên kia chiến tuyến sử dụng vào một mục đích khác!” cũng không chắc do ông tự
nguyện hay là do lệnh bắt phải làm như vậy. Bởi vì sau này người ta được
biết cấp cao như Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng mà còn phải thú nhận “Đ.m. tao cũng sợ nó, mầy biểu tao còn dám nói cái
gì?” (Nguyễn Văn Trấn. Viết Cho Mẹ Và Cho Quốc Hội. Bản in ở Tp. HCM. Trang
303), hoặc “lừng danh thiên hạ” như Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà vào năm 1983
còn bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ hạ nhục bằng cách bắt đi làm Chủ Nhiệm Ủy Ban Sinh
Đẻ Có Kế Hoạch, huống chi cỡ Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước thì “sức mấy” mà dám chống
lệnh Đảng.
Xin nêu một bằng chứng khác về
thân phận “văn công” của Đảng viên Lê Hữu Phước: Trong bài Lịch Sử Quốc
Kỳ và Quốc Ca VNCH do NĐL tổng hợp, đã trích lời của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước nói
về bài Sinh Viên Hành Khúc như sau: “Bài hát bí mật của chúng tôi được
anh em sinh viên lấy làm bài hát công khai. Anh em làm lại lời ca, và sau
nhiều lần sửa đi sửa lại và đấu tranh với Sở kiểm duyệt, phong trào sinh viên
đã có bài hát của mình tức là bài Tiếng gọi sinh viên, khi phong trào lan rộng,
bài hát được nhân dân tự động đổi là Tiếng gọi thanh niên” (Dẫn theo bài Lịch Sử Quốc Kỳ và Quốc Ca VNCH do NĐL tổng hợp.
hoiquanphidung.com).
Chỉ có hơn ba hàng chữ mà Nhạc
sĩ Lưu Hữu Phước đã để lộ nhiều điều:
Một là dường như Nhạc sĩ sợ bóng sợ gió chi đó, cho nên ông không nhìn nhận bài
Sinh Viên Hành Khúc đã được ông sáng tác năm 1939, hồi còn học Trung học Petrus
Ký ở Sài Gòn với lời bằng tiếng Pháp của ông và bạn ông là Mai Văn Bộ.
Hai là ông không dám nói đúng tên Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương mà lại nói
“phong trào sinh viên”, trong khi chính Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương thời đó
đã chọn bài hát của ông, sau khi đã sửa phần lời, để làm bài hát của Tổng Hội
Sinh Viên và đem ra trình diễn nhiều lần trước các viên chức lớn Pháp, Việt và
công chúng. Ông cũng không nhắc tới Phong trào Thanh Niên Tiền Phong là
Phong trào đã dùng Bài Tiếng Gọi Sinh Viên làm bài ca chính thức vào năm 1945
với tên gọi là Tiếng Gọi Thanh Niên.
Ba là ông không dám nhắc tới tên những sinh viên đã góp công làm cho bài hát
của ông được vang danh khắp nơi, như nhóm sinh viên đã viết lời tiếng Việt cũng
như tiếng Pháp cho bài hát; rồi những người đã chọn, đã giới thiệu bài hát của
ông, như Sinh viên Phan Thanh Hòa (Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Sinh Viên), Sv.
Nguyễn Tôn Hoàn (Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội), hay là hai Nữ sinh viên
Nguyễn Thị Thiều (sau này là vợ của Bs. Nguyễn Tú Vinh) và Phan Thị Bình (sau
này là phu nhân của Bs. Nguyễn Tôn Hoàn). Hai Chị Bình và Thiều là hai ca
sĩ sinh viên đầu tiên hát xuất sắc bài Tiếng Gọi Sinh Viên trước công chúng tại
Hà Nội.
Bốn là ông không đả động gì tới vinh dự lớn lao vì bài hát của ông đã được các
chính phủ Quốc gia trọng vọng, giữ nguyên phần nhạc và viết lại phần lời ca cho
thích hợp với tình hình mới, rồi lấy làm bài Quốc ca.
Tóm lại, ông phủ nhận tất cả những tổ chức, những nhân vật, những buổi lễ, những
buổi trình diễn có dính dáng tới người Pháp hoặc là những người bên phía Quốc gia
đã trọng vọng và làm vinh danh bài nhạc của ông.
Tuy nhận xét như thế, nhưng
chúng ta cũng có chút hồ nghi. Hoặc giả, Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã nhớ
hết, đã muốn nói tới tất cả những chi tiết kể trên, nhưng lời phát biểu của ông
đã bị cơ quan kiểm duyệt của Đảng cắt xén mất đi hoặc sửa chữa tùy tiện những
chi tiết “nhạy cảm”. Việc này rất có khả năng xẩy ra, vì trong chết độ
Cộng Sản độc tài, mọi ấn phẩm văn hóa, văn nghệ, hồi kí… đều bị kiểm duyệt về
chính trị hết sức gắt gao, nhất là những gì và những ai liên quan tới phía Quốc
gia.
Một nhận xét khác, quyết định chọn bài Sinh Viên Hành Khúc của
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước của Quốc Hội Lập Hiến VNCH còn là một công nhận, một tán
thưởng cao qúy dành cho lớp thanh niên, sinh viên Việt Nam yêu nước chân chính,
mà Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là đại diện thời ấy, thời mà Việt Minh Cộng Sản chưa
cướp được chính quyền từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim ngày 19. 8.1945.
Sau hết, quyết định ấy, một trật, cũng phủ nhận cái gọi là cuộc Cách Mạng Tháng
Tám như Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn thường rêu rao. Quả thực, Việt Minh
Cộng Sản mới chỉ thành công trong việc cướp chính quyền chứ họ chưa bao giờ
thành công trong một cuộc cách mạng đúng nghĩa. Bởi vì sau khi cướp được
chính quyền, Đảng Cộng Sản và những người đi theo họ, trong đó có Nhạc sĩ Lưu
Hữu Phước, đã không theo đuổi một cuộc cách mạng dân tộc mà lại tự nguyện làm
chư hầu cho Liên Xô và Tầu Cộng, để bằng mọi giá, quyết dùng dân tộc Việt Nam
để làm cuộc cách mạng vô sản. Đến nay thì rõ ràng cuộc cách mạng vô sản ở
nước ta đã hoàn toàn thất bại mọi mặt, chỉ trừ chuyên chính vô sản, dối trá và
bạo lực là còn nguyên như bản chất cố hữu của những con người Cộng Sản và họ
hiện nguyên hình là một nhóm lợi ích độc quyền mà thôi.
Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, văn minh,
khai phóng chỉ thành công rực rỡ ở Miền Nam với thể chế Cộng Hòa trong một thời
gian ngắn ngủi 20 năm, và đã phải tạm chấm dứt vào ngày 30.4.1975. Đến
nay, cuộc cách mạng ấy còn ở trước mắt, nó nằm trong tay toàn dân, nhất là giới
trí thức, những nhà tranh đấu dân chủ và ở trong tay thế hệ trẻ Việt Nam.
Tháng 11. 2013
Bạch Diện Thư Sinh
--------------------------------------------------
VIDEO
:
NGUỒN GỐC QUỐC KỲ & QUỐC CA VIỆT NAM
Thu Tran -
Published on Nov 5, 2012
Thu Tran -
Published on Jun 16, 2013
Thu Tran -
Published on Jun 4, 2013
Thu Tran -
Published on Mar 3, 2013
Thu Tran -
Published on Nov 5, 2012
Thu Tran -
Published on Dec 24, 2012
Thu Tran -
Published on Nov 26, 2012
Lê
Văn Khoa - Ca Ngợi Tự Do (Quốc Ca Ukraina, Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ)
bebeliem - Uploaded on Sep 20, 2010
No comments:
Post a Comment