Kiêm Thêm - Việt
Văn Mới
Posted on Jan 29, 2014
Nước Việt là một cộng đồng các
dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có một kiểu ăn tết riêng, đôi khi kéo dài rất dài
ngày tạo thành mùa gọi là mùa Tết. Mỗi kiểu ăn Tết đều biểu hiện nét đặc trưng
văn hoá riêng của dân tộc mình.
Khua luống trong Tết cốm mới của người Thái Trắng ở Phong Thổ, Lai Châu.
Ảnh: Bảo Tàng dân tộc tỉnh Lai Châu
Tết
của người Ca-Tu
Vào mùa xuân, lúc bắt đầu vụ mùa lúa mới, đồng bào
các huyện Phước Sơn, Giằng, Hiên ở Quảng Nam tổ chức ăn Tết Prơ-giê-răm. Đây là
ngày lễ lớn nhất trong năm. Nhà nhà đều trang trí hết sức đẹp đẽ. Các loại ghẻ,
cung nỏ, giáo, mác, thanh la, trống, chiêng được lau chùi cẩn thận. ở nhà Guơi
(nhà làng) người ta dựng cột đâm trâu bằng cây gạo trạm trổ, sơn vẽ đẹp mắt.
Nhiều sinh hoạt văn hoá diễn ra tại nhà Guơi như kể chuyện, nhảy múa, hát dân
ca. Con gái được dịp trao đổi tâm tình và rủ nhau chơi xuân kéo dài cả tháng…
Tết
nhảy của người Dao
Người Dao ở Việt Bắc cho rằng, ngày đầu năm không
được làm việc mà chỉ lo vui chơi, thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Nhà nào nhà
ấy đều trang hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay
trên các vách tường để đón mừng xuân.
Người Dao đón Tết bằng tết nhảy gọi là “Nhiang chằm
Ðao” để rèn luyện sức khoẻ và võ nghệ. Tết nhảy bắt đầu trước tết Nguyên Ðán
chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao
bằng gỗ để múa. Tết nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong
tiếng trống, tiếng thanh la giục giã…
Tết
giọt nước của người Sédang
Người Xơ Đăng ở Kon Tum ăn tết rất giản dị và chỉ có
hai tết rất giản dị và chỉ có hai tết chính là tết Giọt nước và tết Lửa. Tết
Giọt nước vào khoảng tháng 3 dương lịch. Sau khi mãn mùa, người Xơ Đăng bắt đầu
sửa sang lại các máng nước và tổ chức lễ “cúng máng” để cầu mong Thần nước
(Yang Dak) ban cho dân làng năm mới được mùa, nước non đầy đủ.
Người trong buôn làng mang choé, nồi đồng ra tại các
máng nước để lấy nước mang về nhà, đồng thời tổ chức ăn uống, vui chơi suốt mấy
ngày liền. Riêng “Lễ cúng máng nước” cho buôn làng thì được tổ chức tại nhà
Rông, do thầy cúng tổ chức vui say, ca hát, nhảy múa, gái trai được tự do trao
đổi tâm tình.
Tết
của người H’Mông
Người H’Mông ở vùng cao Tây Bắc và Việt Bắc ăn tết
rất thịnh soạn, chẳng kém gì ở miền xuôi. Trong nhà trang hoàng đủ màu sắc,
nhưng màu đỏ là được ưa chuộng nhất. Tết Nguyên đán của người H’Mông gọi là
NaoX-Cha. Ðể chuẩn bị sẵn con lơn béo. Ngoài thịt ra, còn có bánh bằng bột nếp,
bánh chưng ít khi dùng. Tết của người H’Mông thường tổ chức giữa mùa đông giá
rét, trước hay sau Tết dương lịch chỉ có mấy hôm. Ðêm giao thừa các gia đình
thường cử con trai đi “mở nước”, tức là đi lấy nước ngoài sông suối đem về nhà
cúng tổ tiên.
Tết
của người Hrê
Tết của người Hrê ở Quảng Ngãi cũng kéo dài suốt vài
tháng liền. Mỗi gia đình phải lo nấu bánh tét, làm rượu cho thật nhiều. Nhà
giàu có phải nấu từ 20 đến 40 nồi bánh tét, ủ hàng trăm ché rượu cần, hạ vài
con trâu để đãi khách và bà con trong buôn làng. Tất cả mọi người đều tề tựu về
nhà chủ làng để ăn mừng, chúc tụng lẫn nhau. Sau đó mới lần lượt đến các nhà
khác. Họ vừa ăn uống vừa múa hát. Ðàn ông thì đeo ống chinh, còn đàn bà thì đeo
ống bương lấy hai tay vỗ vào đầu ống sẽ tạo thành tiếng bập bùng, bập bùng… Họ
thích trò chơi nhảy kẹp. Hai người một nam, một nữ dùng một đòn nhảy dài chừng
hai mét, trơn láng rồi đập vào nhau. Cứ hai người ngồi đập thì hai người nhảy,
thay đổi cho nhau.
Tết
của người Gia Rai
Tết bỏ mả của đồng bào Gia Rai ở tỉnh Gia Lai cũng
tương tự như tết ăn nhà Mả của đồng bào Ba Na nhưng được tổ chức lớn hơn nhiều.
Trong suốt thời kỳ Bỏ Mả, bà con trong buôn làng kéo nhau đi viếng từng nhà để
thưởng thức của ngon vật lạ. Mỗi khi nghe tiếng thanh la, trống, cồng vang lên
ở ngoài nghĩa địa là báo hiệu lễ Bỏ Mả. Người trong buôn nối đuôi nhau, tay cầm
đuốc cháy sáng rực tiến về nghĩa địa để chia vui cùng người thân thuộc. Mọi
người không quên mang theo rượu, thịt để góp vui cùng gia đình gia chủ trong
suốt cuộc lễ. Tùy theo gia cảnh của từng người mà chủ lễ tổ chức đơn giản hay
rườm rà. Gia chủ đứng trước ngôi mả có cắm cây nêu thường làm bằng cây gạo treo
nhiều lá bùa xanh đỏ bay phấp phới theo chiều gió và đưa tay lên trời lâm râm
khấn vái Yàng.
Tết
của người Thái
Người Thái ở Sơn La và Lai Châu đón tết hầu như suốt
cả mùa, gọi là mùa Tết. Ðầu tiên là tết Soong Sịp (tết cơm mới) sau khi lúa ở
ngoài đồng đã chín vàng họ giết trâu, mổ lợn, lấy lúa mới đồ xôi nếp để cúng
lễ. Mọi nhà đều tổ chức ăn uống vui vẻ. Sau tết Soong Síp là tết Kim Lao Mao
(tết uống rượu), tết ông Táo và lớn nhất là tết Nen-Bươn-Tiền (tết Nguyên đán).
Vào ngày đầu năm, họ không quên đem dao, rựa vừa đi
ra đường vừa phát quang để thông thoáng cho năm mới. Vui nhất là các hội Xoè
Thái nổi tiếng, tha hồ vui chơi cho đến rằm tháng giêng mới mãn.
Tết
Cơm mới của người Rhadé
Tết Cơm mới của người Rhadé hay Ê Đê ở Ðắk Lắk là
vào khoảng tháng 10 dương lịch. Lúc ấy lúa đã chín vàng cả nương rẫy. Mỗi gia
đình mang gùi đi tuốt lúa về phơi khô giã lấy gạo để tổ chức ăn mừng lúa chín.
Tuỳ theo gia cảnh giầu hay nghèo mà các gia đình giết trâu, bò, heo, gà nhiều
hay ít.
Lễ vật đặt ở giữa nhà gồm một hay hai choé rượu cần
buộc chặt vào gốc cột và vài đĩa cơm. Gia chủ hay thầy cúng lầm rầm khấn vái:
“Lạy thần Mtâo Kia, thần H’Bia Kiu, thần Aêdu, thần Alê Diê đã ban cho chúng
con nào thóc lúa, nào kê, nào ngô. Chúng con thỉnh chư vị thần từ phía Ðông dãy
Ngân Hà nơi gần nguồn gốc của lúa, xin giáng lâm chứng giám. Lạy thần Aê Nghi ở
dưới đất, lạy thần Aê Ngăn ở trên trời… xin cho mỗi năm lúa được đầy vựa…”
Tết
Yang Pa của người Chơ Ro
Người Chơ Ro và Chu Ru sinh sống tại Ðồng Nai, Lâm
Ðồng và Bà Rịa – Vũng Tàu. Hai tết lớn của đồng bào Chơ Ro là lễ cúng thần rừng
và lễ cúng thần lúa vào khoảng tháng ba âm lịch. Ngày cúng thần lúa cũng là lúc
các cô gái trình cho buôn làng các loại bánh ngon như bánh tét, bánh ống, bánh
dầy… Sau lễ cúng thần lúa tại nhà là bữa ăn tập thể do gia chủ đứng ra khoản
đãi tại nơi hành lễ. Thường thường nơi cúng lễ là gốc cây cổ thụ trong buôn
làng. Họ quan niệm thần lúa thường đến nghỉ ngơi ở đó.
Tết
Nhô Lir Bông của người Cơ Ho
Người Cơ Ho hay sinh sống ở Lâm Ðồng. Họ ăn tết sau
tết Nguyên Ðán của người Kinh ở miền xuôi độ một tháng, gọi là Nhô Lir Bông,
tức tết mừng lúa về nhà. Tết này kéo dài cả tháng. Hai chữ Lir Bông có nghĩa là
cót thóc. Người Cơ Ho rất quý trọng thóc lúa, vì thóc lúa là những hạt ngọc của
Yàng ban phát. Lễ cúng mừng lúa được tổ chức tại kho lúa của mỗi gia đình, bắt
đầu từ xế chiều với sự tham dự của chủ làng và nhiều gia chủ khác. Người ta lấy
máu gà hiến sinh bôi lên vựa thóc, sàn kho, các cửa lớn, cửa sổ. Máu gà còn
được trộn chung với vỏ cây đa, củ nghệ, các con mối đất. Cỏ tranh giã nhỏ để
bôi lên ngực, lên trán những thành viên trong gia đình, sau đó còn bôi lên
những đồ gia dụng.
Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, người Cơ Ho rủ
nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung vui, cứ thế
cho đến cả tháng trời mới mãn.
Lễ
tết cổ truyền của người Chăm
Ðồng bào Chăm còn gọi là Chàm, hiện đang sinh sống
tại một số tỉnh như Bình Thuận, Ninh Thuận và một số ít tại Châu Giang (tỉnh An
Giang).
Cũng như các dân tộc anh em khác, người Chăm ăn Tết
cũng rất linh đình, nhộn nhịp. Hai lễ lớn nhất trong năm là Păng-Katê và
Păng-Chabư được xem như cái Tết của họ.
Păng-Katê cử hành vào ngày 1 tháng 7 theo lịch Chăm
tức khoảng tháng 9 dương lịch và Păng-Chabư cử hành vào ngày 16 tháng 9
theo lịch Chăm tức vào khoảng tháng 2, tháng 3 dương lịch.
Vào những ngày lễ, đông đảo đồng bào Chăm từ các nơi
dổ về tại ba nơi hành lễ: đó là đền Pô Nưgar, tháp Pô Rômê ở huyện Ninh Phước
(Ninh Thuận) và tháp Pô Klông Garai ở thị xã Phan Rang – Tháp Chàm.
Tết Păng Katê là ngày tế lễ các vua Chăm thuở xa xưa
có công dựng nước và hướng dẫn việc nông tang, thuộc về dòng họ người cha,
tượng trưng cho khí dương, cho nên phải cử hành vào buổi mai, còn Tết Păng
Chabư là lễ cúng tế các lễ thần Pô Giang nữ, tức các hoàng hậu, công chúa Chăm,
thuộc dòng họ mẹ, tượng trưng cho khí âm nên được cử hành vào buổi chiều tối.
Sáng mồng một Tết, các chức sắc Chăm cùng toàn thể
bà con xa gần đều tề tựu về ba nơi hành lễ, quần áo thật mới mẻ, chỉnh tề. Các
thầy Cả và các bà Bóng ngồi theo phẩm trật, thứ tự cao thấp trong căn nhà dựng
trước cửa đền hay cửa tháp.
Lễ cúng gồm có hoa quả, bánh trái đủ loại, cúng cơm,
rượu và thịt. Ba nghi lễ gồm các thầy Cả sư, phó Cả sư, thầy Bà xế, thầy Kè-ke
vừa kéo đờn Kanhi (đờn mai rùa) vừa xướng văn tế lễ. Còn các bà Bóng thì lo
dâng rượu và múa mừng.
Người Chăm gồm có 2 ngành: Ngành theo đạo Bà la môn
và ngành theo đạo Hồi. Ngành theo đạo Bà la môn rất kiêng cữ thịt bò, còn ngành
theo đạo Hồi thì kiêng ăn thịt lợn.
Ngày tết, người Chăm theo đạo Hồi thường đến nhà thờ
đạo Hồi vào ngày đầu năm để nghe chức sắc, đọc kinh Coran, cầu nguyện đấng
Alah, sau đó các tín hữu ra sông, ra suối tắm tẩy uế những cái xui, cái xấu của
năm cũ và rước cái mới, cái tốt lành của năm mới.
Ngày mồng 2 Tết là ngày dành riêng cho các chức sắc
ăn tết tại nhà. Qua ngày thứ ba trở đi, cho đến ngày thứ 7 hay thứ 9 thì đến
lượt mọi người tổ chức ăn tết, lần lượt từ nhà này sang nhà khác. Tuy nhiên,
mỗi gia đình chỉ lựa chọn cho mình một ngày duy nhất trong khoảng thời gian qui
định mà thôi.
Họ giết lợn, giết gà vịt, bày đủ loại hoa quả, bánh
trái. Trong dịp Tết, người Chăm không có tục kiêng cữ cho nên bạn bè, hàng xóm
trong dịp ở xa có thể đến chung vui một cách thoải mái. Trong thời gian ăn Tết,
người Chăm còn tổ chức các trò vui chơi như múa quạt, tổ chức đánh cồng
chiêng, ca hát uống rượu, bắn cung.
Ngoài hai lễ lớn trên, người Chăm còn có các lễ khác
trong năm như: Lễ cúng thần nông vào tháng 4 theo lịch Chăm, cử hành vào các
đền, tháp; lễ cầu đảo (Chakap Hiâu Kron) cử hành tại các đập nước hay ở các bờ
sông, bờ suối; lễ cúng ruộng (Pô Phùm) để cầu cho ruộng lúa tốt tươi và lễ Tống
ôn (Rija Nưgar) tổ chức vào mồng một tháng giêng theo lịch Chăm, để cầu
cho làng xóm, gia đình được thịnh vượng, an khang.
No comments:
Post a Comment