BS Hồ Hải giới thiệu
Monday, January 27, 2014
Bài này của tác giả Mai Thanh Truyết viết sau khi cố
BS Dương Quỳnh Hoa mất. Mới mà đã 8 năm rồi. Một số các bạn muốn biết về nữ chí sĩ được xem là người
đầu tiên thẳng thắn ra khỏi đảng cộng sản ở Việt Nam vào năm 1979. Bài
viết tương đối đầy đủ. Ai chưa đọc thì nên đọc, vì gần đây rộ lên phong trào ra
khỏi đảng của những nhân vật một thời sùng kính đảng cộng sản như một tôn giáo.
Hôm nay, tôi xin lưu lại ở đây như một nén hương tưởng nhớ 8 năm ngày mất của
Bà, một đồng nghiệp đàn Chị, mà tôi đã từng gặp, và tâm sự năm 1986 và vài lần
sau đó năm 2001. Vẫn còn nhiều vấn đề về Bà mà một số bài báo phỏng vấn sau này
đều bịa đặt để bôi nhọ Bà.
BS
Hồ Hải
---------------------------------------
March, 2010
Tiếc Cho Một Người Lầm Lỡ Vừa Nằm Xuống
Thân
tặng tất cả những người Việt còn có tấm lòng yêu quê hương.
Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) vừa nằm xuống ngày
thứ bảy 25–2–2006 tại Sài Gòn, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2.
Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Đài BBC có
phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2.
Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có
nhu cầu trang trãi và chia xẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó
rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những
người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.
Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
BS DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây
học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là
GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt
thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng
Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không
được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có
khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.
Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối
thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng
1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Đảng CS
Pháp năm 1956 trước khi về nước.
Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực
y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở
thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới
bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ
Ba Thu –Mõ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức
trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.
Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN)
và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học
tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường
Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng
có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau
đó.
Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy
giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để
tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và
đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc
Việt, cũng như Ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đở theo. Vào đầu thập niên
70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với
một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã
phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có
căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bõ không tiếp tục theo học
trường nầy nữa.
Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian
nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã
từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối.
Ô.B DQH và Đảng Cộng sản VN
Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán
Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vở lẽ ra. Về phần Ô HVN,
ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5
người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, Ông đã công khai tuyên bố với các
bạn như sau:”Các “toi” muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi
không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với “cách mạng” mà “góp ý”
với đảng”. Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và
hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài
Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Đại học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàn..g
không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và
Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.
Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng
4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương
binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính
phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng
và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định… Chính
trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu
của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS
quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.
Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô
Nguyễn Hữu Thọ:”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức
rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và
không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và
không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả”. Đến năm 1979, Bà chính thức
từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng
với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các
đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại
quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm.
Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận
định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước
đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để
giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố :” Trong
hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng
sức khỏe của người dân” Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng
báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ
9,10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho
người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.
Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị
trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà
đã vận động được sự giúp đở của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa
chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc
men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các lọai vitamin.
Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả
được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin
lại viện trợ vì…nhân dân (của Đảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với
tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse,
chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội :” Hiện
Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân.
Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy
có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19%
khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh
chiếm tới 72%.
Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng
viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong
cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random
House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà,
Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn
ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong
cuốn sách vưà kể trên, Bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian
nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những
người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.
Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong
những nhận định bất hủ của BS DQH là :”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần
nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong
tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẽ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về
bức tường Bá Linh, Bà nói:” Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”.
BS DQH và Vụ kiện Da Cam
Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết
Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng
ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc
màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đối lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ
không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) trong tương lai.
Có lẽ vì “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt
Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004
ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một
Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm
soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm:
- Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm
Chủ tịch danh dự;
- Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm
Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch;
- GS,BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế,
Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;
- Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký.
Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng
rằng:”Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa
nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể
Việt NamCộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp”. Theo một
bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân
chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn
nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân
Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài
nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt
Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền
trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không
được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà
Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc
thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.
Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty
hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện
cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một
người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Đại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là
người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng.
Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:
- Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam;
- Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Đại học Hà Nội;
- Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở
miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và
Nguyễn Thị Thu Nga (1989);
- Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế
Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và
- Những người cùng cảnh ngộ.
Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu
được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm
luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả
và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất
chánh để: (1) Đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị
thai và (2) Yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) Để hoàn
trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai
quang.
Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để
biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là
upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số
nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa
Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của
trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager
Stellman của trường Đại học Columbia, New York.
Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS
Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến
hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải
nghiên cứu cặn kẽ.
Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở
đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé (?) là những nơi đã bị
phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là
Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh.
Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua
một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây
là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất
nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào
bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh
thùng phuy rơi rớt!?).
Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung
Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển
không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng
tuổi.
Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đầu
bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ.
Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS
Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã
được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho
biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức).
Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà
BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.
Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?
Để tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng
tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại
Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người
bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì “người ta đã đặt tôi vào một
sự đã rồi (fait accompli).
Tên
tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn
không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký
giả người Úc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp
nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa
là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ
trong vấn đề chất độc da cam.”Dĩ nhiên cuộc gặp
gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Úc không bao giờ xảy ra.
Bà còn thêm rằng:”
Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc
dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết
quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt).”
Đến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của
vụ kiện.Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố
hủy bõ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York.
Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH.
Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của
Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quảng đường của cuộc đời Bà.
Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý
tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã
không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng
sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà
đã đứng về phía người Cộng sản.
Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ
mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại
hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không
phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã
hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng
chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính
trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc
lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.
Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà, một người Việt
Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi
đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im
lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người
đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến
cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng
như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với
chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó
tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính
trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế
trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp”
đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả.
Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy
vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại
ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một
đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông
ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm “bí mật quốc gia” theo Quyết định của
Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là “cùng
là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đã “cưu mang” một chủ thuyết ngoại lai
mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Chúng ta, những người Việt trong và ngòai nước, còn
nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa
ngõ hầu phục vụ tổ quốc và d dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi
chủ thuyết cưỡng quyền.
Tổ quốc là đất nước chung – Dân tộc là tất cả thành
tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc
điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại.
Ghi
chú: Ngày 3/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm,
nguyên ủy viên Ban Quân y miền Nam, một người bạn chiến đầu của Bà trong
MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó
đến nay.
Mong
tất cả trí thức Việt Nam đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học
nầy qua trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa.
Mai
Thanh Truyết
March 2010
No comments:
Post a Comment