Nguyễn Tuấn Linh (nick Bát Trảm Đao)
Thứ
Năm, 02/05/2013
Kính gửi: Ngài Kimmo Lähdevirta – Đại sứ
đặc mệnh toàn quyền của Cộng hoà Phần Lan tại Việt Nam
Tôi là Nguyễn Tuấn Linh, công dân Việt Nam
hiện đang sinh sống và làm việc tại Hà Nội. Bằng thư này, tôi xin được phản ánh
với Ngài về thực trạng của dự án “ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi
và dân tộc ở Việt Nam” do chính phủ Cộng hòa Phần Lan tài trợ một phần lớn bằng
nguồn vốn phát triển không chính thức ODA.
Ngày 05-03-2013, tôi có lên thăm xã Háng
Đồng, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La và được thấy tận mắt việc thực hiện dự án “ứng
dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam” tại xã Háng
Đồng. Tại đây, tôi chỉ thấy rất nhiều hòm thiết bị của hãng NAPS để ngổn ngang
ngoài trời mà không hề có mái che hay bất kỳ sự bảo quản nào mặc cho hư hỏng từ
nhiều năm nay.
Xã Háng Đồng là một xã rất nghèo và đặc
biệt khó khăn của huyện Bắc Yên, Sơn La luôn phải cần đến sự hỗ trợ quyên góp,
từ thiện của những người hảo tâm có điều kiện ở đồng bằng. Các trẻ em nơi đây
phải sống trong điều kiện rất thiếu thốn về lương thực, thực phẩm, thuốc chữa
bệnh cũng như các điều kiện ăn ở và học hành. Việc dự án “ứng dụng Điện mặt
trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam” đã triển khai tới nơi đây
nhưng không được lắp đặt mà để mặc cho hư hỏng từ nhiều năm qua là một sự lãng
phí không thể chấp nhận được của Ban quản lý dự án cũng như những người tham
gia vào việc giám sát, đánh giá chất lượng của dự án.
Tổng giá trị của dự án lên tới 7,920,739EUR
trong đó phần vốn vay của Cộng hòa Phần Lan: 5,385,580 EUR là con số không hề
nhỏ đối với một quốc gia nghèo khó như Việt Nam.
Chính Phủ Việt Nam hiện đã có số nợ công
đạt mức kỷ lục 72.5 tỷ USD tính đến ngày 15-04-2013.
Đóng góp vào phần lớn trong số nợ công này
là các dự án vay vốn ODA tương tự như dự án “ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực
miền núi và dân tộc ở Việt Nam”. Nếu số vốn vay ODA này không được sử dụng một
cách tiết kiệm và hợp lý sẽ gây tổn hại đến kinh tế vô cùng lớn cho đất nước và
người dân Việt Nam chúng tôi.
Do vậy, với trách nhiệm của một công dân
Việt Nam, tôi khẩn thiết đề nghị Ngài đại sứ cho kiểm tra tình hình thực tế
việc triển khai, chất lượng và hiệu quả của dự án này, tránh để xảy ra tình
trạng lãng phí như ở xã Háng Đồng, gây tổn hại tới lợi ích kinh tế cho nhân dân
Việt Nam và mất uy tín của nhà tại trợ là Cộng hòa Phần Lan.
Tôi xin gửi kèm theo thư các tấm ảnh tôi đã
chụp được tại xã Háng Đồng để Ngài tham khảo.
Rất mong có sự phúc đáp của sứ quán quý
quốc trong thời gian sớm nhất có thể.
Xin chân thành cảm ơn Ngài đại sứ.
Nguyễn Tuấn Linh
_____________________________
Tham
khảo
Những cuộc phiêu lưu của Bát Trảm Đao
Sơn La - những nẻo đường biên ải - P25
Ngồi nói chuyện với các giáo viên của
trường, tôi cũng hiểu thêm ra nhiều vấn đề. Đặc biệt có một câu chuyện mà đối
với tôi, nó là một sự thật quá phũ phàng, mặc dù ai cũng biết là xã hội giờ nó
như vậy nhưng có vẻ ở đây, nó được phơi bày một cách quá trần trụi và không thể
không bị lên án.
Có hai mẹ con người Mông đi hái củi về.
Cũng phải nói thêm rằng xã Háng Đồng này, 100% là người Mông. Thông thường thì
người Mông ở đây, phụ nữ không biết tiếng Kinh và tất nhiên là không biết chữ.
Cậu bé này không biết có được đi học hay không mà giờ này
còn đang hái củi.
Một dãy lớp học cũ rất tuềnh toàng, nhìn xa tưởng là cái
chuồng trâu vì hở hoang hoác.
Lớp học này chắc là còn sót lại từ rất lâu rồi.
Hôm trước, lúc chúng tôi ở Mộc Châu, khi
nói chuyện với ông Trương Quang Nghĩa, Bí thư tỉnh ủy Sơn La thì được biết là
ngày mai (6/3/2013) ông sẽ lên Háng Đồng để trực tiếp xem xét và làm việc với
xã để có các chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời cho xã. Thế mới biết sức mạnh của truyền
thông thật là kinh khủng. Chỉ một phóng sự nhỏ đã tạo nên một dư luận rất lớn
và gây ảnh hưởng mạnh mẽ. Do vậy, khi chúng tôi đến đây, trường và xã đã chuẩn
bị chu đáo để ngày mai tiếp đón đoàn của Bí thư lên làm việc.
Quay trở lại câu chuyện với các giáo viên
của trường tiểu học Háng Đồng, trong khi tôi hỏi thăm về tình hình hạ tầng điện
nước ở đây thế nào, các anh nhắc đến có một dự án về năng lượng mặt trời, đã được triển khai ở đây từ năm 2009.
Thiết bị máy móc đã được vận chuyển lên nhưng không hiểu sao từ bấy tới giờ
không thấy ai tới lắp đặt cả. Cả đống thiết bị cứ vứt ngoài trời giữa mưa gió
nay chắc đã hỏng cả rồi. Tôi và mọi người trong đoàn rất tò mò và đề nghị anh
cán bộ phòng giáo dục huyện dẫn tới xem đống thiết bị này ra sao.
Đi bộ chừng 5 phút thì chúng tôi đã tới chỗ
tập kết thiết bị.
Cả một đống lớn đến gần chục hòm gỗ dán được
xếp chồng lên nhau để trực tiếp dưới đất ở ngoài trời không hề có mái che, vỏ
hòm đã mốc đen vì mưa nắng.
Những hòm gỗ được làm có vẻ rất công phu và đắt tiền này
giờ thành chỗ để phơi giày dép
Một cái nhãn giấy trên vỏ thùng gỗ.
Tôi
tra thử trên mạng thì tìm được thông tin sau:
04/08/2009
Dự
án "Ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt
Nam"
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ trong việc tìm kiếm, huy động nguồn đầu tư quốc tế nhằm hỗ trợ và thúc
đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn, tháng 5/2000 Uỷ ban
Dân tộc và Đại sứ quán Phần Lan tại Việt Nam cùng Tập đoàn NAPS SYSTEMS (Cộng
hoà Phần Lan) đã thỏa thuận xây dựng Dự án cung cấp điện mặt trời cho 300 xã
đặc biệt khó khăn thuộc địa bàn Chương trình 135 từ nguồn Hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) của Chính phủ Phần Lan.
Trong quá trình xây dựng dự án và căn cứ
vào kết quả thực hiện dự án thí điểm tại vùng có số giờ nắng và chế độ cường độ
bức xạ mặt trời thấp nhất của vùng dự án (xã ái Quốc, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng
Sơn), các bộ ngành, các nhà khoa học và địa phương đã thống nhất ủng hộ về tính
cấp thiết, tính khả thi và quy mô đầu tư của Dự án. Trên cơ sở đó, ngày
01/8/2003 tại Công văn số 1022/CP, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch mở
rộng Dự án “ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam”,
giao Uỷ ban Dân tộc là Chủ Dự án. Tổng vốn đầu tư của Dự án giai đoạn I là
6,0531 triệu EURO - tương đương 102.902,7 triệu VND; trong đó: 5,385 triệu EURO
thuộc nguồn tín dụng ưu đãi của Chính phủ Phần Lan với lãi suất 0%, thời hạn
vay 17 năm (vay 12 năm và 5 năm ân hạn), các thành tố cấu thành không hoàn lại
là 37%. Nguồn vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam đóng góp phần ngân sách là 01
triệu EURO.
Dự án “ứng dụng điện mặt trời cho khu vực
miền núi và dân tộc ở Việt Nam” giai đoạn I đầu tư cho 70 xã đặc biệt khó khăn
thuộc địa bàn Chương trình 135, đồng thời là các xã mà theo quy hoạch điện lưới
quốc gia không đáp ứng được sau năm 2010.
Mục tiêu của dự án là cung cấp điện đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt công cộng và phúc lợi xã hội thiết yếu cho các xã đặc biệt
khó khăn thuộc địa bàn Chương trình 135. Dự án sẽ góp phần tạo nên các công
trình hạ tầng cơ sở thiết yếu nhằm nâng cao mặt bằng trình độ dân trí, thúc đẩy
phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường, ổn định tình hình dân tộc, và an
ninh quốc phòng.
Dự án đầu tư hệ thống thiết bị đồng bộ cung
cấp điện mặt trời kèm theo các phụ tải: Hệ điện trụ sở xã, trạm y tế, tủ lạnh
bảo quản vaccine, nhà văn hoá xã, trạm nạp ắc quy và trạm thu-phát truyền hình
qua vệ tinh.
Giai đoạn I của dự án được thực hiện ở 70
xã đặc biệt khó khăn thuộc các tỉnh miền Trung và miền núi phía Bắc. Trong đó
có 34 xã miền Trung và 36 xã miền núi phía Bắc. Các xã được lựa chọn theo các
tiêu chí như: địa bàn nằm ngoài quy hoạch đầu tư điện lưới quốc gia, cấp điện
bằng các dạng năng lượng tái tạo khác không thích hợp, chế độ bức xạ mặt trời
từ 3,5kwh/m2/ngày trở lên, số lượng hộ gia đình và nhân khẩu, mục đích sử dụng
phù hợp với mục tiêu của dự án.
Thời gian thực hiện từ quý II năm 2009 đến
quý III năm 2010. Thiết kế kỹ thuật và thiết kế công suất các hệ điện mặt trời
do chuyên gia Tập đoàn FORTUM kết hợp với chuyên gia Việt Nam, chính quyền và
nhân dân các địa phương cùng hợp tác xây dựng theo nhu cầu thực tế (bao gồm cả
việc tính toán sau 15 năm phát triển). Số lượng Module các hệ điện mặt trời cần
thiết cho các hệ thống ở các xã miền Bắc và miền Trung, Tây Nguyên được thiết
kế với công suất khác nhau do cường độ bức xạ mặt trời tại hai vùng này khác
nhau nhằm tiết kiệm nhưng vẫn đảm bảo tối đa hiệu quả đầu tư của dự án.
Sau khi hoàn thành việc lặp đặt, các công
trình Dự án sẽ được bàn giao cho chính quyền các cấp địa phương quản lý và khai
thác sử dụng theo quy định quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và yêu cầu cụ thể
khác của nhà tài trợ. Tổ quản lý công trình Dự án xã được thành lập để giúp Uỷ
ban nhân dân xã quản lý vận hành hệ thống thiết bị. Trong tương lai, nếu các xã
được đầu tư điện lưới quốc gia thì các công trình của dự án được chuyển về thôn
bản của xã đó theo quyết định của địa phương và các yêu cầu khác về kỹ thuật.
Đối với vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa,
địa hình phức tạp, dân cư phân tán, nhu cầu phụ tải nhỏ, và không có nguồn nước
đảm bảo phát triển thủy điện thì ứng dụng điện mặt trời là giải pháp kỹ thuật
tối ưu mang lại hiệu quả kinh tế nhất so với các giải pháp cung cấp điện năng
khác. Dự án là động lực thúc đẩy nâng cao mặt bằng trình độ dân trí, thúc đẩy
phát triển nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần ổn định tình
hình dân tộc, bảo vệ môi trường và thực hiện công bằng xã hội. Dự án tạo ra
động lực giúp đồng bào dân tộc thiểu số các xã đặc biệt khó khăn có thêm điều
kiện thuận lợi trong tiến trình hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước.
Việc sử dụng nguồn năng lượng mặt trời cung
cấp điện không có bất kỳ một tác động tiêu cực nào đối với môi trường, sinh
thái khi so sánh với việc sản xuất điện từ các nguồn năng lượng hoá thạch như
than đá, dầu mỏ...
Giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính
khoảng 67.075 tấn khi so sánh với việc sử dụng các nguồn năng lượng hoá thạch
khác nói trên. Đây thực sự là nguồn lợi kinh tế lớn của dự án mang lại trong
việc bảo vệ môi trường sinh thái để các ngành liên quan hợp tác khai thác đầu
tư trong khuôn khổ các dự án khác .
Dự án “ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực
miền núi và dân tộc ở Việt Nam” là dự án mang đầy đủ tính khả thi về kỹ thuật
chuyên môn, mục tiêu, nội dung và địa bàn thực hiện. Dự án còn mang ý nghĩa
chính trị, xã hội sâu sắc, nhằm tạo nên những công trình hạ tầng cơ sở, thực
hiện quyền bình đẳng, tạo ra những cơ hội cho sự phát triển và góp phần đảm bảo
an ninh, quốc phòng tại các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa
cũng như giúp đồng bào dân tộc thiểu số vùng dự án có thêm điều kiện thuận lợi
trong tiến trình hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước.
Điện là một trong những hạng mục công trình
cơ sở hạ tầng quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội đối với tất
cả các vùng trong cả nước. Vì vậy mục tiêu điện khí hoá nông thôn đã được Chính
phủ đặt thành một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển giai
đoạn 2001-2020.
Đối với các xã vùng dự án là vùng miền núi
cao có độ dốc lớn, không có nguồn nước để phát triển thuỷ điện; Số giờ nắng và
chế độ cường độ bức xạ mặt trời lớn; Xa đường điện trung thế, địa hình đi lại
phức tạp, đồng bào cư trú rải rác phân tán, phụ tải nhỏ; Khoảng cách từ trung
tâm xã tới đường điện trung thế quá xa (từ 22 km trở lên) thì cung cấp điện
bằng năng lượng mặt trời là giải pháp tối ưu.
Hoạt động của dự án sẽ là một trong những
nội dung quan trọng của Kế hoạch hành động năng lượng tái tạo quốc gia do Bộ
Công Thương đang chủ trì thực hiện trong giai đoạn 2001-2010.
ThS. Nguyễn Văn Thanh
Ngoài ra, tôi còn tìm hiểu thêm quyết định số 175/QĐ-UBDT
của ỦY BAN DÂN TỘC do ông Giàng Seo Phử - bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban dân tộc
ký ngày 15-6-2010
Nội dung như sau:
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT LẠI BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHẢ THI CỦA DỰ
ÁN “ỨNG DỤNG ĐIỆN MẶT TRỜI CHO KHU VỰC MIỀN NÚI VÀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM”
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM ỦY BAN DÂN TỘC
Căn cứ Nghị định 60/2008/NĐ-CP ngày
09/5/2008 của Chính phủ về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Ủy ban Dân tộc;
Căn cứ Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày
12/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; Nghị định
số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều
Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu
tư xây dựng công trình; Thông tư số 03/2009/TT-BXD ngày 26/03/2009 của Bộ Xây
dựng quy định chi tiết một số nội dung của Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày
12/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình;
Căn cứ Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày
14/12/2009 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình; Quyết
định số 957/QĐ-BXD ngày 29/09/2009 của Bộ Xây dựng về việc công bố Định mức chi
phí quản lý dự án và tư vấn đầu tư xây dựng công trình;
Căn cứ Thông tư số 27/2007/TT-BTC ngày 03/4/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước; Thông tư số 130/2007/TT-BTC ngày 02/11/2007 của Bộ Tài chính về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 27/2007/TT-BTC ngày 03/4/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước; Văn bản số 9878/BTC-QLN ngày 13/07/2009 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn cơ chế tài chính và thực hiện dự án điện mặt trời sử dụng vốn ODA Phần Lan;
Căn cứ Thông tư số 27/2007/TT-BTC ngày 03/4/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước; Thông tư số 130/2007/TT-BTC ngày 02/11/2007 của Bộ Tài chính về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 27/2007/TT-BTC ngày 03/4/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước; Văn bản số 9878/BTC-QLN ngày 13/07/2009 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn cơ chế tài chính và thực hiện dự án điện mặt trời sử dụng vốn ODA Phần Lan;
Căn cứ Quyết định số 292/QĐ-UBDT ngày
25/09/2009 của Bộ trưởng Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc về việc phê duyệt nội dung
điều chỉnh Quyết định số 164/QĐ-UBDT ngày 17/06/2004 của Bộ trưởng Chủ nhiệm Ủy
ban Dân tộc về việc phê duyệt đầu tư dự án ứng dụng điện mặt trời cho khu vực
miền núi và dân tộc ở Việt Nam; Văn bản số 1903/BCT-NL ngày 25/2/2010 của Bộ
Công thương về việc tham gia ý kiến về điều chỉnh, bổ sung Báo cáo nghiên cứu
khả thi dự án ứng dụng điện mặt trời;
Căn cứ hồ sơ Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự
án ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam do Trung
tâm tư vấn xây dựng điện lực I lập;
Xét đề nghị của Ban quản lý dự án điện mặt
trời về việc Phê duyệt lại Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án ứng dụng điện mặt
trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam tại tờ trình số 263/TT-BQLDA
ngày 08/6/2010; của Vụ Kế hoạch - Tài chính tại tờ trình phê duyệt Báo cáo
nghiên cứu khả thi (hiệu chỉnh) dự án ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền
núi và dân tộc ở Việt Nam ngày 11/6/2010,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt lại Báo cáo nghiên cứu
khả thi của Dự án “Ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở
Việt Nam” với các nội dung chủ yếu sau:
1. Tên dự án: Dự án Ứng dụng điện mặt trời
cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam.
2. Chủ đầu tư: Ủy ban Dân tộc
3. Tổ chức tư vấn lập dự án: Trung tâm Tư
vấn Xây dựng Điện lực 1 - Công ty Điện lực 1.
4. Chủ nhiệm lập dự án: Lê Kim Dũng.
5. Mục tiêu đầu tư xây dựng:
Mục tiêu của Dự án là cung cấp nguồn điện
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt công cộng và phúc lợi xã hội thiết yếu cho các
xã, thôn bản chưa có điện lưới quốc gia sau năm 2010, qua đó sẽ góp phần tạo
nên các hạ tầng cơ sở thiết yếu nhằm nâng cao trình độ dân trí, thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường, ổn định tình hình dân tộc và an ninh
quốc phòng.
6. Nội dung và quy mô đầu tư xây dựng:
Nội dung Dự án là đầu tư đồng bộ thiết bị
cung cấp điện từ nguồn năng lượng mặt trời kèm theo các hệ phụ tải tại địa bàn
của 70 xã thuộc 8 tỉnh, 20 huyện. Mỗi xã thuộc dự án được đầu tư đồng bộ với
thiết bị thuộc các hệ điện mặt trời như sau:
a) Các xã Miền Bắc.
- Trụ sở các UBND xã Công suất: 600w
- Trạm Y tế xã Công suất: 400w
- Tủ bảo quản Vaccine. Công suất: 200w
- Nhà văn hóa xã (hoặc thôn, bản…). Công suất: 400w
- Trạm nạp ắc - quy. Công suất: 800w
- Trạm thu - phát tín hiệu truyền hình qua vệ tinh. Công suất: 600w
- Trạm Y tế xã Công suất: 400w
- Tủ bảo quản Vaccine. Công suất: 200w
- Nhà văn hóa xã (hoặc thôn, bản…). Công suất: 400w
- Trạm nạp ắc - quy. Công suất: 800w
- Trạm thu - phát tín hiệu truyền hình qua vệ tinh. Công suất: 600w
b) Các xã Miền Trung.
- Trụ sở các UBND xã Công suất: 400w
- Trạm Y tế xã Công suất: 300w
- Tủ bảo quản Vaccine. Công suất: 200w
- Nhà văn hóa xã (hoặc thôn, bản…). Công suất: 300w
- Trạm nạp ắc - quy. Công suất: 800w
- Trạm thu - phát tín hiệu truyền hình qua vệ tinh. Công suất: 400w
Thiết bị được nhập khẩu đồng bộ từ nước Cộng hòa Phần Lan và xây dựng cơ sở hạ tầng kèm theo để vận hành dự án (có phụ lục I tổng hợp khối lượng kèm theo).
- Trạm Y tế xã Công suất: 300w
- Tủ bảo quản Vaccine. Công suất: 200w
- Nhà văn hóa xã (hoặc thôn, bản…). Công suất: 300w
- Trạm nạp ắc - quy. Công suất: 800w
- Trạm thu - phát tín hiệu truyền hình qua vệ tinh. Công suất: 400w
Thiết bị được nhập khẩu đồng bộ từ nước Cộng hòa Phần Lan và xây dựng cơ sở hạ tầng kèm theo để vận hành dự án (có phụ lục I tổng hợp khối lượng kèm theo).
7. Địa điểm xây dựng:
Dự án được xây dựng trên địa bàn 70 xã đặc
biệt khó khăn thuộc 20 huyện trong 8 tỉnh khu vực miền núi và dân tộc ở Việt
Nam gồm miền Bắc: tỉnh Nghệ An 17 xã; Lai Châu 8 xã; Điện Biên 7 xã; Sơn La 5
xã; Cao Bằng 7 xã; miền Trung: tỉnh Quảng Ngãi 5 xã; Quảng Nam 19 xã; Quảng
Bình 2 xã (có phụ lục II danh sách các xã kèm theo).
8. Diện tích sử dụng đất:
Diện tích sử dụng đất của 70 xã thuộc dự án
vào khoảng 111.440 m2.
Mỗi xã yêu cầu diện tích sử dụng đất gồm khoảng 1.592 m2.
Mỗi xã yêu cầu diện tích sử dụng đất gồm khoảng 1.592 m2.
Trong đó:
- 12 m2 x 6 hệ điện mặt trời.
- 1.520 m2 cho vị trí cột ăng ten.
- 1.520 m2 cho vị trí cột ăng ten.
9. Các giải pháp kỹ thuật: Theo Báo cáo
nghiên cứu khả thi kèm theo.
10. Loại, cấp công trình: Nhóm B.
11. Thiết bị công nghệ:
Hệ thống thiết bị năng lượng mặt trời và
các phụ kiện lắp đặt kèm do Tập đoàn FORTUM NAPS cung cấp đồng bộ và thiết kế
phù hợp theo điều kiện khí hậu miền Bắc và miền Trung của Việt Nam.
12. Phương án giải phóng mặt bằng, tái định
cư:
UBND các huyện chỉ đạo các xã tham gia dự
án có trách nhiệm bố trí kinh phí và kế hoạch giải phóng mặt bằng cho một số
hạng mục phải sử dụng đất để thi công, đảm bảo không có tranh chấp đất đai, nhà
cửa công trình trong quá trình lắp đặt các hệ pin mặt trời.
13. Tổng mức đầu tư: 197.273.931.255 đ
(Tính trên cơ sở định mức, đơn giá, tỷ giá EURO tại thời điểm lập dự án tháng
6/2010 là: 24.906 VNĐ/1EURO).
Khoản mục chi phí VNĐ EUR
Tổng số 197.273.931.255 7.920.739
Trong đó:
- Chi phí thiết bị, đào tạo và chuyển giao
kỹ thuật: 144.505.558.428 5.802.038
- Chi phí xây dựng, lắp đặt: 27.838.085.872 1.117.726
- Chi phí quản lý dự án: 4.579.170.657 183.858
- Chi phí tư vấn đầu tư xây dựng: 6.429.785.615 258.162
- Chi phí khác: 6.357.280.008 255.251
- Chi phí dự phòng: 7.564.045.781 303.704
- Chi phí xây dựng, lắp đặt: 27.838.085.872 1.117.726
- Chi phí quản lý dự án: 4.579.170.657 183.858
- Chi phí tư vấn đầu tư xây dựng: 6.429.785.615 258.162
- Chi phí khác: 6.357.280.008 255.251
- Chi phí dự phòng: 7.564.045.781 303.704
14. Nguồn vốn đầu tư: Tổng số:
197.273.931.255 VNĐ (7.920.739 EUR)
Trong đó:
Trong đó:
* Vốn vay: 134.133.255.480 VNĐ (5.385.580
EUR)
* Vốn đối ứng: 63.140.670.880 VNĐ (2.535.159 EUR)
* Vốn đối ứng: 63.140.670.880 VNĐ (2.535.159 EUR)
15. Hình thức quản lý dự án:
- Chủ đầu tư quản lý và điều hành dự án
thông qua Ban quản lý dự án điện mặt trời ở Trung ương.
- Quản lý, vận hành sau đầu tư: Ủy ban nhân dân các xã dự án nhận bàn giao công trình từ Ban QLDA điện mặt trời và các đơn vị thi công sau khi đã hoàn thiện công tác thi công lắp đặt. Tại các xã thành lập tổ quản lý để quản lý, vận hành, bảo trì, sửa chữa, khai thác công trình một cách hiệu quả.
- Trong tương lai nếu các xã có điện lưới quốc gia ổn định thì các hạng mục công trình của dự án được chuyển về lắp đặt tại các thôn bản theo quyết định của địa phương, nhưng không làm thay đổi mục tiêu và nội dung của dự án.
- Quản lý, vận hành sau đầu tư: Ủy ban nhân dân các xã dự án nhận bàn giao công trình từ Ban QLDA điện mặt trời và các đơn vị thi công sau khi đã hoàn thiện công tác thi công lắp đặt. Tại các xã thành lập tổ quản lý để quản lý, vận hành, bảo trì, sửa chữa, khai thác công trình một cách hiệu quả.
- Trong tương lai nếu các xã có điện lưới quốc gia ổn định thì các hạng mục công trình của dự án được chuyển về lắp đặt tại các thôn bản theo quyết định của địa phương, nhưng không làm thay đổi mục tiêu và nội dung của dự án.
16. Thời gian thực hiện dự án:
- Thời gian thực hiện: Từ năm 2010.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ
ngày ký và thay thế Quyết định 164/2004/UBDT-QĐ ngày 17/6/2004 của Ủy ban Dân
tộc.
Điều 3. Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính, Trưởng Ban quản lý dự án điện mặt trời, Vụ trưởng các Vụ thuộc Ủy ban Dân tộc, Ủy ban nhân dân các tỉnh vùng dự án và các đơn vị liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Điều 3. Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính, Trưởng Ban quản lý dự án điện mặt trời, Vụ trưởng các Vụ thuộc Ủy ban Dân tộc, Ủy ban nhân dân các tỉnh vùng dự án và các đơn vị liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
_______________________________________________
Tóm lại thì đây là một dự án của Ủy ban dân
tộc miền núi xây dựng trạm phát điện năng lượng mặt trời để phục vụ:
- Trụ sở UBND xã Công suất: 600w
- Trạm Y tế xã Công suất: 400w
- Tủ bảo quản Vaccine. Công suất: 200w
- Nhà văn hóa xã (hoặc thôn, bản…). Công suất: 400w
- Trạm nạp ắc – quy. Công suất: 800w
- Trạm thu – phát tín hiệu truyền hình qua vệ tinh. Công suất: 600w
- Trạm Y tế xã Công suất: 400w
- Tủ bảo quản Vaccine. Công suất: 200w
- Nhà văn hóa xã (hoặc thôn, bản…). Công suất: 400w
- Trạm nạp ắc – quy. Công suất: 800w
- Trạm thu – phát tín hiệu truyền hình qua vệ tinh. Công suất: 600w
Tổng giá trị của dự án là 197.273.931.255
đồng cho 70 xã đặc biệt khó khăn thuộc 20 huyện trong 8 tỉnh khu vực miền núi
và dân tộc ở Việt Nam gồm miền Bắc: tỉnh Nghệ An 17 xã; Lai Châu 8 xã; Điện
Biên 7 xã; Sơn La 5 xã; Cao Bằng 7 xã; miền Trung: tỉnh Quảng Ngãi 5 xã; Quảng
Nam 19 xã; Quảng Bình 2 xã. Như vậy, chi phí cho 1 xã là 2.818.200.000 đồng
(Hai tỷ tám trăm mười tám triệu hai trăm nghìn đồng)
Như vậy nghĩa là, cái đống thùng gỗ rêu phong mục nát vứt
ở đây từ năm 2009 tới giờ (mới 4 năm) có trị giá là Hai tỷ tám trăm mười tám
triệu hai trăm nghìn đồng.
Số tiền lớn như vậy sẽ đủ mua bao nhiêu bộ
quần áo ấm, giầy dép, xây dựng được bao nhiêu lớp học, nhà ở cho lũ trẻ Háng
Đồng này? Tại sao VTV1 chỉ lên quay phim lũ trẻ phải bắt chuột để có thịt ăn
cơm, nồi cơm không có vung.. để mọi người đi quyên góp từng đồng một mang lên
đây ủng hộ trong khi người ta đang vứt đi hàng tỷ đồng ở đây?
Hình :
Nhìn các ký hiệu ghi trên vỏ thùng thì đây
đều là hàng dễ vỡ và phải được đặt trong nhà, tránh mưa hoặc nước.
Thùng đựng trạm vệ tinh, công suất 600W
Tem nhãn của thùng được ghi đầy đủ thông
tin.
Đây là đống cột ăng ten của trạm vệ tinh
bằng thép không rỉ rất xịn được nhập khẩu từ Phần Lan của hãng NAPS mặc dù
những thứ này thừa sức chế tạo ở trong nước.
Móng cột được làm dạng vít khoan giống kết
cấu móng nhà chống lũ của Đồng Bằng sông Cửu Long chúng tôi vẫn làm xưa kia.
Kiểu vít khoan này chỉ phù hợp với vùng đất sét chứ với địa hình núi đá thì có
mà khoan vào mắt, không hiểu các vị khoa học kiểu gì mà lại cho thiết kế sử
dụng cái này.
No comments:
Post a Comment