Lưu Hà
Sĩ Tâm
21-1-2013
Trong
dòng chảy của cuộc sống, con người quan tâm nhiều đến các cơ hội, vì cơ hội đến
sẽ tạo tiềm năng gây chuyển biến nhanh (nhiều khi là đột biến) trong dòng chảy
ấy. Tuy vậy, thuật ngữ “cơ hội” được dùng ở Việt Nam với nhiều sắc thái khác
nhau, nhiều khi gây tranh cãi trong chính trường và cả ở ngoài đời.
Theo
tôi, cơ hội là diễn biến của hoàn cảnh với những điều kiện thuận lợi, mà chủ
thể (mỗi người/gia đình/tổ chức/quốc gia/toàn cầu…) cảm nhận được, rằng có thể
thúc đẩy nhanh chóng sự chuyển biến cho việc tạo ra giá trị (kinh tế, xã hội,
văn hóa, chính trị, tinh thần…) với chi phí thấp hơn, và nếu nắm bắt kịp thời
để hành động đúng cách thì sẽ đạt được mục đích mong muốn.
Cuộc
sống trôi qua, và chúng ta nhận thức được có những cơ hội tự nhiên, tự nhiên
đến, mà chủ thể không chủ động tạo ra, nhưng cố gắng tận dụng. Mặt khác, có
những cơ hội mà chủ thể đã chủ động để tạo ra vào thời điểm nào đó trong tương
lai, và do đó có thể gọi đó là những cơ hội chủ động. Khi có cơ hội tự nhiên
đến, chủ thể nắm bắt và tận dụng được, như vậy là may mắn. Còn cơ hội chủ động
không đem đến may mắn dễ dàng, mà đòi hỏi chủ thể phải chủ động tiến hành các
hoạt động có chủ đích, có đầu tư, có nuôi dưỡng, …nên những cơ hội này đến với
chủ thể như là phần thưởng (kết quả) cho quá trình chủ động đó.
Phần
tử cơ hội
Trong
suốt quá trình hình thành và phát triển của các đảng cộng sản trên thế giới,
một trong các việc vô cùng hệ trọng trong xây dựng Đảng là tuyệt đối ngăn chặn
những “phần tử cơ hội” lọt vào trong hàng ngũ của Đảng. Đó là những người luôn
luôn tìm kiếm và khai thác mọi cơ hội cho lợi ích của mình, hoặc cho lợi ích
của các tổ chức khác ngoài Đảng. Đó là những người về mặt tư tưởng thì đã, đang
và sẽ không học tập để thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin hoặc nhận thức lại về chủ
nghĩa này, không có đạo đức cách mạng, và do vậy họ dễ dàng trở thành người
chống lại Đảng ngay từ trong nội bộ. Vì
lẽ đó, thuật ngữ “phần tử cơ hội” là thuật ngữ quen dùng của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương độc quyền lãnh đạo đất nước, hiến định điều đó trong Hiến pháp
1980 với việc ép buộc toàn dân phải chấp nhận điều đó mà chẳng hề cho dân phúc
quyết.
Đảng giành lấy việc lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị từ thấp đến cao, cũng
như mọi tổ chức khác trong xã hội. Đảng đạt được điều ấy. Nhưng về mặt xây dựng
Đảng thì lại diễn biến trái với mong muốn của Đảng. Đã có hai quá trình diễn
ra, liên quan đến tâm lý và nhu cầu người dân một cách tự nhiên.
Quá trình thứ nhất, theo thời gian,
Đảng vấp phải khó khăn ngày càng lớn, là số người thực sự có nguyện vọng vào
Đảng một cách trong sáng ngày càng giảm. Khắp nơi xuất hiện tình trạng là các
chi bộ phải gợi ý và mời người ta vào Đảng, cho đủ chỉ tiêu hay đạt thành tích
về xây dựng Đảng. Các nguyên tắc khắt khe trong tìm kiếm, bồi dưỡng, kết nạp
đảng viên mới chỉ còn là nội dung trên giấy, mà không thể thực hiện trên thực
tế. “Để cho người ta còn vào”, các đảng viên trong các chi bộ nói thế. Vậy là,
hầu hết thanh niên trong nguồn bồi dưỡng phát triển Đảng, và cả các đảng viên
mới, lảng tránh việc học tập để có những nhận thức cần thiết về chủ nghĩa
Mác-Lênin. Họ cũng nhận thức được ít nhiều tính viển vông của chủ
nghĩa này, nhưng dại gì nói ra. Họ có nghe đến chuẩn mực đạo đức cần
có của một người cộng sản chân chính (như suốt đời hy sinh phấn đấu vì lợi ích
nhân dân,…), nhưng dại gì noi theo. Quá trình này
cho thấy, ngày càng nhiều đảng viên yếu kém về nhận thức, lý tưởng và đạo đức,
nên một cách tự nhiên, họ là sản phẩm của quá trình hình thành những phần tử cơ
hội đúng nghĩa ngay trong Đảng.
Quá trình thứ hai, cha mẹ ông bà đang
nuôi con cháu ăn học phổ thông, vì muốn con cháu mình không ở vào tình huống
bất thường so với bạn bè, nên động viên chúng vào đội, vào đoàn. Điều này quá
dễ vì không phải phấn đấu, chỉ cần không hư là được. Khi chúng trưởng thành và
nhận thấy chúng có năng lực nhất định, cha mẹ ông bà định hướng cho chúng làm
việc trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước, trong hệ thống quản lý nhà nước từ
làng xã trở lên, trong các tổ chức xã hội khác. Khi cha mẹ ông bà vui mừng đã
xin được việc cho con cháu, lại lo đến tương lai phát triển của chúng trong môi
trường ấy. Lời khuyên cho con cháu theo tinh thần sau đây đã diễn ra phổ biến
trong các gia đình: thôi thì lo mà vào Đảng đi con
ạ, để “người ta” không gây khó cho mình, để “người ta” còn tạo điều kiện cho
học hành, cất nhắc sau này. Những thanh niên ấy, theo lời khuyên
thực tế ấy, đã trở thành đảng viên, chỉ vì bảo vệ và tìm kiếm lợi ích cho mình.
Như vậy, cha mẹ ông bà, chỉ vì nguyện vọng chính đáng là bảo vệ con cháu, nên
vô tình thúc đẩy con cháu trở thành phần tử cơ hội trong Đảng.
Cả
hai quá trình trên, khiến cho Đảng trong hơn ba thập kỷ qua đã trở thành một tổ
chức đầy rẫy những phần tử cơ hội. Một lãnh đạo cao cấp của Đảng gần đây đã nói
rằng “đảng viên nhan nhản, cộng sản mấy người”, là sự cay đắng thừa nhận thực
tế ấy. Hệ lụy này Đảng phải gánh chịu. Nhưng căn nguyên lại chính do Đảng tự
gây ra mà không lường được, do Đảng buộc toàn dân thừa nhận sự lãnh đạo duy nhất
và toàn diện của đảng. Sự lãnh đạo đất nước như một món hàng độc quyền buộc
toàn dân phải mua, nhưng với giá ngày càng chết người.
Kẻ
cơ hội chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng hay dùng
thuật ngữ “kẻ cơ hội chính trị”, để
chỉ những người khác chính kiến về mặt tư tưởng, có các hành vi hay hoạt động
trái với lợi ích của Đảng.
Đảng muốn nói rằng, những người đó đang rắp tâm làm mọi việc để tạo nên các cơ
hội chủ động về mặt chính trị, gọi là cơ hội chính trị. Đảng ghép thêm danh từ
“kẻ” phía trước, thành “kẻ cơ hội chính trị”, nhằm nhấn mạnh họ là những kẻ
xấu, là những người không có lý tưởng, nhưng tham gia hoạt động nhằm cải biến
chính trị chỉ vì những lợi ích mang lại cho cá nhân, chứ không phải vì muốn
phục vụ cho lợi ích nhân dân.
Trên
thực tế, thuật ngữ “cơ hội chính trị” không phải luôn là xấu như Đảng đã tuyên
truyền. Nếu cơ hội chính trị dẫn đến cải biến kinh tế – xã hội- văn hóa theo
hướng tiến bộ theo chuẩn mực chung của nhân loại, thì đó lại là tốt. Và những
người chủ động tạo ra và nắm bắt các cơ hội chính trị tốt ấy là những người
tốt.
Nhìn lại dòng lịch
sử hơn nửa thế kỷ qua, có thể nói đến các cơ hội chính trị lớn đã diễn ra:
–
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ động tạo cơ hội, nắm bắt và tận dụng cơ hội chính
trị năm 1945, lãnh đạo nhân dân cướp chính quyền từ tay Nhật (đã đầu hàng Đồng
minh), lực lượng hợp tác với Nhật và triều đình Bảo Đại, khai sinh nước Việt
Nam DCCH. Cơ hội chính trị này là tốt, vì đất nước được độc lập và Hiến pháp
1946 thể hiện cải biến kinh tế – xã hội – văn hóa theo hướng tiến bộ so với
trước đó. Vì thế, khó có thể gọi các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trước năm
1945 là những “kẻ cơ hội chính trị” theo nghĩa xấu.
–
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quân dân, nắm bắt và tận dụng cơ hội chính trị
năm 1975. Đây là cơ hội chính trị tốt, nếu chỉ nhìn nhận theo mục đích là đi
đến thống nhất đất nước. Vào lúc ấy, toàn dân hy vọng sẽ còn có cải biến kinh
tế – xã hội – văn hóa theo hướng tiến bộ nữa.
–
Nhưng rồi xuất hiện những cơ hội chính trị khác, tuy nhỏ hơn nhưng rất quan trọng,
vì là những cơ hội có thể đem đến cho toàn dân sự cải biến chính trị theo hướng
tiến bộ. Đó là các sự kiện dẫn đến ban hành Hiến pháp 1980, rồi Hiến pháp 1992.
Thật thất vọng, các Hiến pháp này đều thể hiện cải biến kinh tế – xã hội – văn
hóa theo hướng phản tiến bộ mà không cho nhân dân phúc quyết. Đó là các cơ hội
chính trị xấu. Hơn nữa, đã lộ ra ngày càng rõ, là các đảng viên chủ trương và
chỉ đạo nuôi dưỡng, dùng mọi mẹo mực giả trá để tạo ra các cơ hội chính trị xấu
như vậy, nên về bản chất, chính họ mới là những “kẻ cơ hội chính trị” theo
nghĩa xấu. Giờ đây, đầu năm 2013, vẫn những kẻ cơ hội chính trị ấy đang rắp tâm
tạo nên một cơ hội chính trị xấu tiếp theo, với việc sửa đổi Hiến pháp theo
hướng duy trì tình trạng tồi tệ này.
Tất
cả những điều nói trên cho thấy, những phần tử cơ hội và những kẻ cơ hội chính
trị hiện nay chủ yếu lại là các đảng viên ngay trong nội bộ Đảng Cộng sản
ViệtNam. Vậy một tổ chức mà chủ yếu gồm các phần tử cơ hội và kẻ cơ hội chính
trị, thì có mong đợi gì kết quả từ việc họ phê và tự phê.
Tuy
thế, người dân không tuyệt vọng. Nhìn tới tương lai, tất yếu sẽ xuất hiện những
cơ hội chính trị tốt thực sự cho nhân dân, với Hiến pháp tiến bộ, không cho
phép Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo và áp đặt tư tưởng đã lỗi thời
đối với nhân dân. Tất cả mọi người dân
Việt Nam hiện nay đang có tư tưởng và hành động đấu tranh cho sự nghiệp dân chủ
hóa đất nước, bất kể là sinh sống trong nước hay định cư ở nước ngoài, bất kể
ngoài Đảng hay vẫn còn đang bên trong Đảng, công khai hay còn chưa công khai,
đều xứng đáng là những con dân ưu tú của đất Việt.
Thực
tế cho thấy những người dấn thân trên con đường dân chủ hóa đất nước đã vô cùng
dũng cảm, chịu đựng hy sinh rất lớn trước sự đàn áp khốc liệt của chính quyền.
Hầu hết trong số họ phấn đấu cho quá trình cải biến chính trị vì lợi ích cộng
đồng, lợi ích toàn dân, hoàn toàn không phải vì muốn mang lại lợi ích cá nhân
họ. Và các thuật ngữ “phần tử cơ hội” và “kẻ cơ hội chính trị” thực chất là
ngày càng trở nên xa lạ khi quy kết họ.
Các
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang mặc những chiếc áo có tên gọi như
thế, lẽ nào chỉ nhăm nhăm khoác chúng lên người khác?
Thái
Bình, 20/1/2003
L.
H. S. T.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment