Lưu Hiểu Ba
Phạm Thị Hoài dịch
Tháng 1 20, 2013
PTH: Tiểu luận sau đây của Lưu Hiểu Ba được in trên tờ Central Daily News ở
Đài Loan ngày 5-6-1993, nhân 4 năm Sự kiện Thiên An Môn. Lời phê bình các
khuyết điểm của giới trí thức phản kháng Trung Quốc và phong trào sinh viên năm
1989 xuất phát từ trải nghiệm trực tiếp của ông. Khi phong trào nổ ra, ông đã
bỏ dở chương trình nghiên cứu và giảng dạy của mình tại một số trường đại học
Hoa Kỳ, mua một tấm vé không khứ hồi bay về Bắc Kinh ngày 27-4-1989 để hỗ trợ
các sinh viên của mình trên Quảng trường. Tại đây, ông hướng dẫn và tranh luận
với các sinh viên về phương pháp và mục đích đấu tranh, tham gia những cuộc đàm
phán giữa sinh viên và chính quyền, và tham gia tuyệt thực ở giai đoạn cuối từ
ngày 2-6. Ông bị coi là một trong những kẻ “giật dây” của phong trào và bị kết
án tù lần thứ nhất, đến đầu năm 1991. Song ngay cả với tiểu sử ấy, các ý kiến
phê phán của ông vẫn gây sóng gió trong phong trào dân chủ Trung Quốc, nhất là
với những gia đình nạn nhân của vụ thảm sát 4-6.
Giới thiệu tiểu luận này trong
bản dịch tiếng Việt, tôi tin rằng nó sẽ là một tham khảo bổ ích cho phong trào
dân chủ Việt.
_______________
Giới trí thức phản kháng và các
lãnh tụ sinh viên Trung Quốc, những người tự thấy mình là anh hùng và chiến sĩ
dân chủ, đều chỉ biết đến dân chủ từ sách vở. Họ không có khái niệm gì về việc
thực hành nền dân chủ đó. Họ không hề biết phải xây dựng nền dân chủ như một hệ
thống chính trị và một tòa nhà pháp lí như thế nào và phải đưa những nội dung
gì vào đó. Trước khi phong trào dân chủ năm 1989 nổ ra, nhà vật lí thiên văn,
giáo sư Phương Lệ Chi, được coi là một Sakharov của Trung Quốc, đã bỏ qua cơ
hội bảo vệ quyền con người theo đúng luật pháp. Ông được Tổng thống Bush mời
gặp nhưng bị chính quyền cản trở. Và ông đã lặng lẽ chấp nhận, không một lời
phản đối. Cả đến khi phong trào dân chủ bùng nổ, ông Lưu Tân Nhạn, nhà bất đồng
chính kiến được coi là “lương tâm xã hội của Trung Hoa”, vẫn đề cao chủ nghĩa
Marx và chủ nghĩa xã hội. Vẫn giữ nguyên lòng trung thành từng mất rồi lại được
khôi phục của mình. Còn phong trào hiện tại thì được lãnh đạo bởi những người
thậm chí không hiểu cả những nguyên lí cơ bản của dân chủ. Như thế, làm sao mà
thành công được? Tình trạng đó chỉ có thể sinh ra những than vãn hời hợt về hệ
tư tưởng.
Khi cảm giác về nghĩa vụ gánh
vác một sứ mệnh lịch sử bị đẩy lên thái quá, các sinh viên đã đánh mất khả năng
tỉnh táo để tự nhận định và khả năng tự kiềm chế để đạt hiệu quả cao. Họ không
biết rằng những đôi vai mảnh khảnh của họ không gánh nổi một định mệnh nặng
trĩu như vậy. Họ không cưỡng được sự cám dỗ rằng mình có thể đem lại công lí và
tưởng rằng cứ lấy sinh mạng ra trả giá thì chính quyền sẽ buộc phải nhượng bộ
hơn – mà không hề nhận ra rằng điều đó rốt cuộc là vô nghĩa. Mạng người có gây
nổi một ấn tượng nào với chính quyền không? Có đánh thức nổi đám đông đang ngủ
vùi không? Cái chết có đem đổi lấy công lí được không? Chẳng lẽ chỉ những ai
sẵn sàng hi sinh tính mạng mới có quyền bàn về công lí chăng? Người ta trách
các sinh viên là chỉ đầy lòng dũng cảm và nhiệt huyết mà không đủ lí trí. Không
có gì đáng ngạc nhiên, khi cô Sài Linh, lãnh tụ đứng đầu phong trào sinh viên,
sau này thoát được ra nước ngoài tị nạn, phát biếu: “Trên Quảng trường Thiên An
Môn khi đó, quan trọng nhất là đức hi sinh và lòng dũng cảm chứ không phải đầu
óc và lí trí. Chúng tôi là những anh hùng của phong trào dân chủ 1989.”
Từ trên bốn thập kỉ nay Trung
Quốc không hề có kinh nghiệm gì với dân chủ. Hàng ngày chúng ta chỉ trải qua và
chứng kiến những tranh giành và thủ đoạn tàn bạo của hệ thống chuyên chế. Khi
tham gia một cuộc cách mạng, chẳng hạn như Cách mạng Văn hóa, chúng ta lập tức
thấy mình là những nhà cách mạng vĩ đại nhất. Khi gia nhập phong trào dân chủ,
chúng ta thấy mình dân chủ hơn người. Chúng ta tuyệt thực cho dân chủ. Chúng ta
hi sinh cho dân chủ. Vì thế chúng ta đinh ninh rằng mọi hành động của mình đều
bắt nguồn từ công lí cao nhất, rằng tiếng nói của mình là chân lí duy nhất,
rằng mình sở hữu quyền lực tuyệt đối. Như thế, chân lí trở nên tuyệt đối, công
lí trở nên tùy tiện và dẫn đến cưỡng bức, còn dân chủ thì trở thành một đặc
quyền. Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành một phòng thí nghiệm thử chân
lí, thử độ cứng của bản lĩnh và độ sâu của ý thức về phẩm giá. Nó cũng đã biến
thành nơi mà người ta vừa dấn thân cho công lí, vừa thực thi quyền lực. Không
có mặt ở đó, không đến đó để bày tỏ con người mình, là chống lại dân chủ và
chống lại công lí, là hèn nhát. Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành hòn đá
thử lửa. “Tôi đã có mặt ở đó”, “Tôi cũng từng đến đó”, những câu nói ấy đã được
coi là chứng chỉ của ý thức dân chủ và lương tri xã hội.
Chúng ta làm cách mạng, chúng
ta thực hành dân chủ, chúng ta không cần hợp tác, chúng ta tùy ý kết bè kéo
cánh, chúng ta lập ra các tổ chức, chúng ta cử người lãnh đạo, chúng ta lập các
hội công nhân và sinh viên tự quản, chúng ta tuyệt thực, chúng ta tổ chức các
nhóm tranh luận, các nhóm trí thức, phóng viên, cảm tử quân, chí nguyện quân và
hướng đạo sinh. Không ai chịu nghe ai, chẳng người nào chịu dưới trướng người
nào.
Chúng ta làm cách mạng, chúng
ta thực hành dân chủ, chúng ta căm thù Đảng Cộng sản tột độ và lên án Đảng bằng
những bộ quần áo đẫm máu trên thân thể chúng ta. Chúng ta nghiến răng chửi kẻ
khác, chúng ta thỏa sức bôi nhọ, chúng ta cho phép mình nói những điều như:
chúng tao sẽ bắn vỡ sọ mày, chúng tao sẽ bỏ mày vào vạc chiên, chúng tao sẽ
chôn sống mày. Chúng ta cho phép mình chửi rủa và thậm chí hành hung những kẻ
không đi cùng chúng ta. Chúng ta cho phép mình thanh toán ân oán giang hồ cá
nhân, nhân danh công lí.
Chúng ta làm cách mạng, chúng
ta thực hành dân chủ, chúng ta ngang nhiên truyền bá những điều bịa đặt, chúng
ta phao tin vịt giữa thanh thiên bạch nhật. Ai phản bác thì chúng ta khăng
khăng rằng mình có quyền làm như thế hoặc tìm cách đánh lận rẻ tiền. Chúng ta
cho phép mình phao lên rằng Đặng Tiểu Bình đã chết, Lý Bằng đã bỏ trốn, Dương
Thượng Côn đã bị đánh đổ, Triệu Tử Dương đã được khôi phục danh dự, Vạn Lý đã
thành lập một nội các mới ở Canada. Quảng trường Thiên An Môn, biểu tượng của
phong trào dân chủ, biến thành một lò chế tin đồn, càng ngày càng tung ra nhiều
điều dối trá. Một số người tham gia sự kiện ngày 4 tháng Sáu sau này thoát được
ra nước ngoài thì đảo lộn tình tiết, thêu dệt tin đồn và dùng miệng mà phun
ngập máu ra Quảng trường. Để có lợi cho bản thân, họ cố ý phóng đại tội ác và
sự tàn bạo của Đảng Cộng sản. Báo chí quốc tế vì thế mà bị xỏ mũi.
Chúng ta làm cách mạng, chúng
ta thực hành dân chủ, chúng ta chỉ cho riêng mình quyền tự do ngôn luận và cấm
người khác được hưởng quyền ấy. Chúng ta cũng hành xử hệt như Mao Trạch Đông và
không dung thứ một chính kiến nào khác. Hệt như đám tay sai của Đảng Cộng sản
Trung Quốc, chúng ta cũng kiểm duyệt những hình ảnh không hợp ý ta do phóng
viên chụp được, chúng ta cũng tịch thu phim và đập nát máy ảnh. Để chính quyền hết
cớ đàn áp, chúng ta đã nộp cho công an ba thanh niên Hồ Nam, là những người đã
phun mầu lên chân dung Mao, để rồi họ bị kết án 15, 18 và 20 năm đọa đày trong
ngục tối.
“Công lí của phong trào dân
chủ” đã trở thành một hăm dọa, hễ ai có chính kiến khác là bị gây áp lực và
đành câm miệng. Cuộc tuyệt thực đã phong các sinh viên lên hàng những vị thánh
bất khả xâm phạm của cách mạng. Vì họ sẵn sàng hi sinh mạng sống, nên chẳng ai
dám hé răng phê bình họ nữa. Vậy là các “anh hùng” thì tắt công tắc lí trí, những
người còn lại thì lặng im.
Những điều vừa trình bày có thể
giải thích, vì sao một công lí trên giấy thì được săn lùng cuồng nhiệt, còn
công lí tỉnh táo của hiện thực thì bị gạt ra ngoài.
Nguồn: Dịch theo bản tiếng Đức trong Bei Ling, Der
Freiheit geopfert, Riva, München 2011
No comments:
Post a Comment