“Người Việt mình cần
lắng nghe nhau nhiều hơn”
Cuộc
thảo luận về tiểu thuyết Thuyền, dưới tiêu đề “Ngôn ngữ, nguồn cội và bạn đọc”,
do nhà xuất bản Phụ Nữ tổ chức, hôm Chủ nhật ngày 17/8/2025, thu hút sự tham
gia của gần 50 người. Buổi thảo luận trên Zoom kéo dài gần 4 tiếng, có chất lượng
cao và mang lại nhiều giá trị, cho những người viết văn, đặc biệt cho người viết
ở hải ngoại. Tất nhiên, cho cả các nhà nghiên cứu nói chung và cho bạn đọc yêu
văn chương.
Rất
nhiều diễn giả và người tham gia đã đặt câu hỏi hoặc phát biểu ý kiến về giá trị
nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật tiểu thuyết cũng như vẻ đẹp của ngôn ngữ
tiếng Việt trong cuốn sách, về sự tương giao giữa các ngôn ngữ và văn hóa của
người viết sống ở hải ngoại hay viết văn bằng thứ tiếng khác ngoài tiếng mẹ đẻ…,
về văn học di dân…
Sau
đây là một số ghi chép trong buổi thảo luận. Phần này chỉ tập trung vào câu hỏi
của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, người điều phối chương trình, và câu
trả lời của tác giả, nhà thơ Nguyễn Đức Tùng.
Sẽ
có những phần khác nữa.
……..
Phạm
Xuân Nguyên (PXN):
Thưa
anh, nhiều bài viết của các tác giả, các nhà phê bình trong nước đều nhắc tới
ngôn ngữ của THUYỀN, ngôn ngữ của thi ca, triết học, nhiều người đánh giá Thuyền
là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất của năm. Khó có thể hình dung được,
một người “từng làm ở trạm đổ xăng và quán giải khát, như một người lao động thật
sự, hoàn toàn tin rằng mình đã bỏ lại tất cả phía sau, không bao giờ nghĩ sẽ viết
Tiếng Việt”, giờ đây, lại là một cây bút được đánh giá cao về NGÔN NGỮ. Chúng
tôi vẫn muốn nghe, điều gì đã thôi thúc anh quay trở lại với tiếng mẹ đẻ?
Nguyễn
Đức Tùng (NĐT):
Thưa
anh, tiếng Việt đối với tôi như dòng sông.
Ngày
xưa tôi sinh ra ở làng quê, có dòng sông chảy qua làng, nơi tôi tắm mát suốt một
thời trẻ, khi xa quê hương thì hay nghĩ về dòng sông ấy. Thế rồi, tôi đến xứ sở
khác và sinh hoạt bằng tiếng Anh, dạy cho con tôi học bằng tiếng Anh, làm việc
trong bệnh viện nói chuyện với bệnh nhân cũng bằng tiếng Anh,vì đó là ngôn ngữ
bắt buộc. Năm 2000 tôi về thăm, lúc ngồi trước mẹ tôi kể câu chuyện đời mình,
thì tôi mới nhớ ra rằng, tôi không có một ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng mẹ đẻ. Không
thể hình dung được tôi có thể dùng ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng Việt để trò
chuyện với mẹ tôi, để kể cho bà nghe về con đường của mình, về một người thiếu
nữ lẽ ra là con dâu của bà. Trong cuộc đời bây giờ, nó đánh động tất cả quá khứ
của mình, nó mang tôi trở lại, và nói một cách không giữ gìn là tôi yêu các câu
văn. Tôi thấy tiếng Việt của mình đẹp không thua gì tiếng Anh, tiếng Pháp, nó
mang tôi đến với tâm hồn Việt là vì vậy, là cánh cửa mà tôi có thể gõ, để bắt đầu
cuộc đối thoại với dân tộc mình. Dùng tiếng mẹ đẻ là cách khơi mở cuộc đối thoại
với dân tộc. Cuộc đối thoại không phải là không có khó khăn, thậm chí là rất
khó khăn, nhưng nhờ có cuộc đối thoại đó mà chúng ta có mặt ngày hôm nay, mà
chúng ta gặp nhau và còn gặp nhau nữa, trên những bước đường khác, với sức mạnh
của tấm lòng dành cho nhau. Nhờ sự bao dung và sự tha thứ, sự hiểu biết đối với
sự thật, mà chúng ta có thể đến được với nhau trong cơ hội đoàn kết của dân tộc
mình.
PXN:
Khi
đi anh chưa viết văn, bị ngắt quãng với tiếng mẹ đẻ, rồi anh lại làm nghề y, vậy
khi trở lại với tiếng Việt, cái khó khăn nhất của anh là gì? Làm sao để anh có
thể sử dụng câu văn tiếng Việt rất chuẩn, rất có âm điệu, rất tinh tế, xin anh
chia sẻ.
NĐT:
Tôi
ngồi đây, xung quanh là sách tiếng Anh, không có sách tiếng Việt, đi làm mười mấy
tiếng một ngày cũng tiếng Anh, suy nghĩ cũng bằng tiếng Anh, thế mà khi viết nó
lại ra tiếng Việt. Đó là thứ tiếng Việt tôi học từ bé. Tôi bỏ một quãng dài nhiều
năm không dùng tiếng Việt, nên lâu lâu tôi lại ngớ người ra vì một chữ rất mới.
Có một số văn phạm tôi không biết. Tôi cố nhớ lại thứ tiếng Việt học thời bé đến
lớp 9, 10 gì đó. Thời gian đó, tôi tin rằng, nó đủ để trang bị cho một người Việt,
vốn từ vựng và vốn tâm hồn, đủ làm bất kỳ cái gì mà ngôn ngữ đòi hỏi. Tôi không
học thêm tiếng Việt sau khi ra khỏi nước, không học thêm kiến thức văn phạm,
cũng như là đọc sách tiếng Việt, tôi mới giật mình vì khi viết phê bình, tôi nhận
ra là nhiều kiến thức tôi không có, Phép lạ với tôi là như thế, đúng như anh
Nguyên nói. Nó có phép lạ của ngôn ngữ, của bản sắc văn hóa, ký gởi vào mỗi con
người, nếu anh đủ lớn, khoảng 17, 18 tuổi mới rời bỏ đất nước. Nếu bạn có một nền
giáo dục đàng hoàng, thì nền giáo dục ở tiểu học và trung học ấy đủ để trang bị
cho bạn đi ra với thế giới.
PXN:
Có
khi nào anh nghĩ mình sẽ viết bằng tiếng Anh không?
NĐT:
Tôi
không được học tiếng Anh bài bản như các anh chị, tôi học y khoa, không liên
quan đến văn học. Nhưng khi có điều kiện, tôi cũng sẽ thử xem sao.
Nếu
viết về một cụ già Việt nam sống ở nông thôn, nhất định là tôi phải dùng tiếng
Việt. Tôi có thời gian làm bác sĩ nông thôn, chữa bệnh cho người da đỏ, nghe
các câu chuyện của họ rất thú vị, nếu tôi muốn viết về họ, chắc chắn tôi chỉ có
thể dùng tiếng Anh, mới nói hết cái ý của họ. Khi họ mô tả nước, gió, hay tuyết.
Chỉ có họ mới có thứ ngôn ngữ phong phú để miêu tả chúng. Ngôn ngữ mà mình dùng
viết văn có liên quan nhiều với “way of life” tức là lối sống của mình.
Bây
giờ, các em trẻ rất giỏi tiếng Anh. Sự giao hòa ngôn ngữ làm cho tiếng Việt
giàu lên hoặc nghèo đi, là do mình. Hiện nay tiếng Anh ởViệt Nam làm cho tiếng
Việt nghèo đi. Nhưng tôi tin nó có thể làm cho tiếng Việt giàu lên,hai ngôn ngữ
bổ sung cho nhau. Các nhà văn đóng góp rất nhiều. Có điều tôi đang băn khoăn, một
số nhà văn ra khỏi Việt Nam từ nhỏ, sống ở nước ngoài, không viết tiếng Việtmà
viết bằng tiếng Anh, nhưng họ thường xuyên viết về Việt Nam, như Nguyễn Thanh
Việt, như Ocean Vương, Linda Lê, họ có phải là nhà văn Việt không? Có thuộc văn
học Việt Nam không? Thuộc văn học di dân không?Nếu nhận/ nhập vào thì họ có làm
thay đổi bộ mặt văn học Việt Nam không? Làm thay đổi bộ mặt văn học hải ngoại
không? Hiện nay người ta bảo văn học di dân đang chết dần, liệu nó có làm khởi
sắc lên không?
PXN:
Ngôn
ngữ gắn liền với tư duy. Ta hay nói, người Việt viết tiếng Anh rất ngô nghê vì
ta dùng ký tự tiếng Anh, ngữ pháp tiếng Anh, nhưng lại tư duy như người Việt,
nên ở đây, có vấn đề là chọn tiếng nào khi viết. Thuyền đã thành công khi dùng
tiếng Việt kể câu chuyện của người Việt vượt biên và vượt biển...(câu hỏi không
nghe rõ).
NĐT:
Cần
phân biệt Vượt biên và Vượt biển. Trong nhiều trường hợp nó là một. Ngày xưa đi
vượt biên đường biển thì là đi vượt biển. Nhưngvượt biên còn có nhiều con đường
khác nữa, như là đi đường bộ qua Thái lan, nhưng cũng gọi là vượt biển, dù họ
không đi đường biển. Mở rộng ra nữa, ở Đông Âu ngày xưa khi Liên Xô sụp đổ, người
Việt đi du học vượt qua bức tường Bá Linh để tìm tự do, thì đôi khi cũng gọi là
vượt biển, dù không có biển chỉ có bức tường, nên cũng gọi là tường nhân. Việt
Namcó bờ biển dài, là một phần của tổ quốc, nhưng có cái cay đắng là mình ở gần
biển nhưng mình lại sợ nó, không dám ra biển, nhưng nó lại gần mình, nên sớm
hay muộn gì mình cũng gặp nó thôi. Cuối cùng dân tộc mình cũng gặp nó, nhờ có
những người vượt biên, nhờ có những người khác nữa , mà chúng ta đi ra biển. Nếu
nhìn cuộc vượt biển của dân tộc mình là thảm kịch hay bi kịch thì đúng, bao
nhiêu người chết, bao nhiêu xương máu, nước mắt, nhưng nhìn một cách khác, thì
đó là bi hùng, bi tráng. Vừa bi vừa hùng, là sự dũng cảm vượt thoát. Nói về yếu
tố cá nhân, hồi đó tôi ra đi, nếu không có sự quả quyết, lòng can đảm thì không
đi được đâu. Dân tộc mình làm một việc liều chết, liều mạng ra đi, là một việc
lớn chứ không nhỏ đâu. Xưa nay mình hay nghĩ người Việt rất thông minh, tài giỏi,
đất nước giang sơn cẩm tú, người Việt chịu khó, thì nó hơi quá đáng. Nhưng nếu
nghĩ người Việt mình quá tầm thường so với các dân tộc khác thì cũng không phải.
Nhưng trong những thời điểm quan trọng, tố chất của người Việtnhư dũng cảm, chịu
đựng, vượt qua thử thách,là có. Không phải chỉ trong chiến tranh, vốn được ca
ngợi trong chiến tranh một cách quá đáng, mà sau chiến tranh cũng có, nó thể hiện
ra ở nhiều sự kiện/ hiện tượng, trong đó có hiện tượng thuyền nhân. Bây giờ
nhìn lại, ngày xưa tôi đi, tôi đi cho tôi, cho tự do của tôi, cho người thân của
tôi thôi. Chứ không đi cho ai, hay để viết cuốn sách Thuyền. Nhưng giờ nghĩ lại,
thì là số phận đẩy mình đi để làm một cái cầu nối, nối giữa người này với người
khác, giữa người Nam với người Bắc, người bên này và người bên kia của chiến
tranh, để xóa nhòa ranh giới giữa đúng và sai, giữa thắng và thua, giữa ta và địch.
Dân tộc mình phải xóa cái đó đi. Đúng không ạ, phải xóa cái đó đi, thì mới khá
lên được, Nếu còn tâm thức ta địch, thắng thua, đúng sai thì không khá được
đâu. Không bao giờ khá được.
Tôi
biết nhiều người Việt rất giỏi, không chỉ trong lĩnh vực y khoa, mà các lĩnh vực
khác nữa, họ không bao giờ nghĩ đến chuyện về Việt Nam. Vì nhiều lý do lắm. Cái
sự chia rẽ đó của người Việt đối với đất nước nó còn lớn lắm, sự chia rẽ giữa
những người tuyên bố mình là người tị nạn và những người còn lại, nó lớn hơn là
các anh các chị biết. Tôi tin là nó lớn dữ lắm. Bây giờ cũng thế thôi. Thỉnh
thoảng tôi gặp bạn bè người Việt đi ăn tối với nhau, như cách đây ít lâu, bảy
người bạn cũ của tôi đi ăn tối, bảy thằng con trai thuyền nhân ngày xưa, trong
đó có hai, ba người đang làm nghề lao động vất vả, có người là kỹ sư, giáo sư,
thì trong bảy người đó, chỉ có ba người đã về Việt Nam, bốn người chưa bao giờ,
và họ sẽ không bao giờ về. Có người 70 có người trẻ khoảng 40. Để ngồi xuống
nghe câu chuyện của họ, bạn chỉ cần nghe thôi, thì tôi nghĩ là quá đủ để chúng
ta hiểu nhau..Nhưng chúng ta không có cơ hội ấy, không có cái can đảm, hay lòng
dũng cảm, và thông minh ấy, để lắng nghe nhau.
Hôm
trước tôi gặp một chuyện cảm động. Một người phụ nữ bị té trượt chân, vào nhà
thương, bị đau mắt cá chân phải. Trượt chân nghĩ cũng thường thôi, nhưng tôi
khá ngạc nhiên khi chụp phim thì nó gẫy xương. Gẫy xương sâu, xuyên qua fibula
vào tận talus. Một người đàn bà ba mươi tuổi mà bị gẫy xương, không phải do
loãng xương, GS Nguyễn Văn Tuấn ạ, vì chuyên môn của anh là loãng xương, mà lại
do trượt chân, thì bất cứ thằng bác sĩ nào cũng phải đặt câu hỏi, chuyện gì xảy
ra? Vì gẫy sâu lắm. Khi xong việc, tôi quay lại hỏi, chị có vấp vào cái gì
không, cái bàn hay cái ghế, vì phải bị cú va chạm trực tiếp rất mạnh thì mới
gãy được. Cô ấy trả lời: không. Chỉ là bị té thôi. Nhưng sau đó, hỏi thêm, thì
biết là cô bị chồng đánh. Người này đánh rất ác. Dùng một vật rất cứng, không để
lại dấu vết. Thì đầu tiên tôi gọi cho bác sĩ tâm lý, rồi sau đó tôi gọi cho cảnh
sát. Cảnh sát tới liền sau 5, 7 phút. Ý tôi là, nếu gặp những trường hợp như thế,
mà chúng ta bỏ qua, thì chúng ta sẽ bỏ qua mỗi ngày. Sự đau khổ của nhân loại
diễn ra mỗi ngày. Không phải chỉ trong y khoa đâu, mà cả trong chính trị, trong
văn học, trong lịch sử, trong khoa học, đều bị bỏ qua cả.
Chúng
ta bỏ lỡ nhiều quá. Chúng ta đi qua nhau mà không thấy nhau. Người Việt chúng
ta đi qua đời nhau mà không thấy nhau đâu. Chúng ta lẳng lặng làm việc của mình
mà không lắng nghe nhau. Người Việt không có đức tính lắng nghe. Người Việt là
dân tộc thích nói nhiều hơn là thích nghe. Bây giờ cũng thế. Thì bây giờ tập
cho nhau nghe đi, tập đọc của nhau, tập trao đổi, tôi rất thích rất mừng thấy
các anh các chị ngồi ở đây. Người xưa có câu “Quân tử dĩ văn hội hữu”, tôi nhớ
như vậy, tức là, người quân tử dùng văn chương để kéo bạn bè lại, hội hữu là
như vậy. Quân tử là người tốt. Những người tốt thì dùng văn chương để hội họp với
nhau. Tôi mừng lắm. Cám ơn chị Hoa Phượng, chị Thu Ngần, đã tạo ra những buổi gặp
mặt như thế này, rất cần, cần lắm, tất nhiên không chỉ có văn học, còn có thơ,
và y khoa, và toán học. Những cuộc gặp như thế này cần có nhiều hơn, người Việt
Nam mình rất cần, cần lắm, cần lắng nghe nhau nhiều hơn.
PXN:
Có
một bạn đặt câu hỏi, nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng có thể chữa
lành cho nhân vật “tôi” không?
NĐT
:
Khi
tôi lang thang ở trại tị nạn, biên giới Thái Lan, tôi qua sáu trại tị nạn.
Trong những ngày lang thang đó, tôi nghĩ về dân tộc mình. Trước đó thì không.
Tôi không nghĩ về dân tộc. Tôi không nghĩ về cái gì cả. Các em nhỏ bây giờ cũng
thế thôi. Các em 20 tuổi, 25 tuổi chắc cũng chẳng nghĩ đâu. Chúng ta nghĩ về
cha mẹ mình, người yêu của mình, việc học của mình, ráng học ra trường lấy cái
bằng. Chứ nghĩ về dân tộc mình thì chưa bao giờ. Và trong những ngày đau khổ
đó, tôi bắt đầu nghĩ về dân tộc mình. Cũng như nghĩ về cha mẹ mình. Tôi sẽ đối
diện với dân tộc. Dân tộc mình như một thực thể, một thực thể chứ không phải
như một đám động hay là một mảnh đất địa lý. Tôi hiểu ra nhiều điều mà trước
đây tôi không hiểu. Càng nghĩ tôi càng buồn, càng đau. Thậm chí có khi, lúc
mình còn trẻ, lúc mình hơi điên khùng ấy, tôi thề là sau khi qua một đời sống
khác, nếu có đời sống khác, thì tôi thề là tôi không làm người Việt nữa. Đó là
thời kỳ điên rồ, thời trẻ. Bây giờ không nghĩ thế nữa, lớn rồi. Đủ thông minh,
đủ lớn, để biết những ý tưởng đó là điên rồ. Giờ thì tôi muốn trở lại. Nếu tôi
chết đi và sống lại, tôi vẫn muốn trở thành người Việt Nam một lần nữa xem sao.
Vì cái vết thương đau xót cần được thương xót cần được thấu hiểu. Và tất nhiên,
vì vậy mà cần đến chữa lành. Vâng, Thuyền sẽ góp một phần nhỏ, khiêm tốn thôi,
vào sự chữa lành vết thương của dân tộc. Xin cám ơn anh.
Bùi
Mai Hạnh ghi lại.
Blackall
19/8/2025
PS:
ảnh chụp màn hình zoom, tác giả nhà thơ Nguyễn Đức Tùng.
https://www.facebook.com/photo/?fbid=25007603748824549&set=pcb.25007473572170900
.
No comments:
Post a Comment