Thư
ngỏ gửi TBT Tô Lâm về việc đặt tên các tỉnh, thành sau khi sáp nhập
Thành Nguyễn
22/03/2025
Kính
gửi bác Tô Lâm, Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN!
Cháu
xin phép tự giới thiệu, cháu là người con của Hải Dương. Trong giấy khai sinh của
cháu thì quê quán tỉnh là tỉnh Hải Hưng – quê hương chung của bác và cháu một
thời. Gần hơn nữa thì cháu còn là hàng xóm cũ của bác. Lý do tại sao lại có
chuyện “thấy người sang bắt quàng làm họ” nhận bác làm hàng xóm là bởi vì từ hồi
cháu 5-6 tuổi gì đó bố mẹ cháu đã chỉ vào một ngôi nhà trong xóm và nói “Kia là
nhà ông Tô Quyền, trưởng ty công an tỉnh, lớn lên cố gắng mà học giỏi xây được
ngôi nhà như nhà ông ấy, đỡ phải ở nhà tập thể như bố mẹ”.
Cái
xóm đó bây giờ là phố Bình Minh. Hồi nó chỉ có đường đất không được trải nhựa,
không có tên phố, không có biển đường, mọi người vẫn gọi là xóm Bình Minh theo
tên khu tập thể Bình Minh, nhà cháu nằm trong dãy nhà cấp 4 khu tập thể này.
Phía đối diện là khu nhà riêng có nhà cụ Tô Quyền, tính chiều dài dọc theo con
đường thì cách nhà cháu khoảng 20m.
Vì
trong xóm toàn là cán bộ viên chức nghèo, người lao động bình thường nên lúc đó
có những người hàng xóm “làm to” là cụ Tô Quyền làm trưởng ty công an Hải Hưng
hay bác Phạm Thọ Bí thư tỉnh uỷ Hải Dương vẫn là những người hàng xóm không thể
nào quên, dù cho đến nay người đến và đi cũng nhiều.
Sau
này lớn lên có tìm hiểu cháu được biết cha bác, cụ Tô Quyền từng hoạt động ở
chiến trường miền Nam với bí danh Tô Lâm, chính là tên của bác. Cháu cũng thấy
điều này không phải ngẫu nhiên, vì nhiều lãnh đạo cách mạng thời ấy cũng chọn
bí danh theo tên con mình, như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt (Sáu Dân), cố Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc). Hiếu Dân là tên con gái bác Kiệt và Cúc là tên
con gái bác Linh
Cố
Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng lý giải là vì những người đi làm cách mạng, đều phải
sống xa gia đình, không có điều kiện gần gũi con cái nên họ lấy tên con mình
làm bí danh để luôn nhớ về người con và gia đình cũng như quê hương ở nơi xa.
Điều
này cho thấy các bậc tiền bối khi chọn bí danh đều có nguyên tắc nhất quán,
không tùy hứng. Và từ đó, cháu nghĩ đến việc đặt tên các tỉnh, thành sau khi
sáp nhập – cũng cần dựa trên những nguyên tắc nhất định, có sự chặt chẽ và ý
nghĩa rõ ràng vì cái tên đó có ý nghĩa thiêng liêng đối với hàng triệu con người.
Ở
Việt Nam, trước các sự kiện chính trị quan trọng, dù chưa có công bố chính thức,
nhưng thông tin về kết quả các cuộc họp thường bị rò rỉ qua các kênh không
chính thức và trùng khớp với quyết định sau đó. Hiện tượng này khiến người dân
tin rằng phương án sáp nhập 34 tỉnh và nguyên tắc đặt tên mới theo cách giữ lại
tên một tỉnh cũ trong nhóm sáp nhập đã được quyết định từ trước, dù chưa có bất
kỳ sự tham vấn chính thức nào.
Điều
này không chỉ tạo ra làn sóng bức xúc lan rộng trên mạng xã hội, mà còn làm
bùng phát tranh cãi gay gắt giữa các địa phương, dẫn đến mâu thuẫn vùng miền
ngày càng căng thẳng. Nếu không có sự minh bạch và đối thoại thỏa đáng, nguy cơ
chia rẽ sâu sắc trong xã hội là điều khó tránh khỏi. Để kiểm chứng điều này bác
có thể cử người theo dõi thông tin trên các fanpage, group trên facebook đang
có bàn tán về chủ đề này sẽ thấy rất nhiều bức xúc.
Trước
tiên cháu xin khẳng định việc sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện để mở rộng không gian
phát triển là một chủ trương vô cùng đúng đắn thể hiện tầm nhìn chiến lược, là
nỗ lực cho việc thực hoá đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình. Từ lúc chủ
trương này được đưa ra hầu như mọi người dân đều tích cực ủng hộ, không thấy có
ai phản đối. Nhưng từ khi danh sách tên tỉnh mới được leak ra nhiều thì dư luận
trái triều lập tức xuất hiện. Theo cháu có mấy lý do sau dẫn tới việc này
CẢM
GIÁC BỊ ÁP ĐẶT, THIẾU SỰ THAM VẤN
Khi
có những quyết sách lớn, người dân luôn mong muốn được lắng nghe, nhất là với
những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến quê hương mình. Việc đặt tên tỉnh mới lẽ
ra cần một quy trình tham vấn rộng rãi, nhưng thay vào đó, danh sách bị “leak”
ra lại giống như một quyết định đã được định đoạt từ trước. Điều này khiến nhiều
người cảm thấy bị đứng ngoài cuộc, không có tiếng nói trong một sự thay đổi
quan trọng.
TÊN
TỈNH: Ý CHÍ CHÍNH TRỊ HAY BẢN SẮC VĂN HÓA?
Khi
sáp nhập, tên gọi không chỉ là một cái tên, mà còn mang giá trị lịch sử, văn
hóa và cả niềm tự hào của người dân địa phương. Nếu tên mới chỉ giữ lại một tỉnh
trong nhóm sáp nhập mà không phản ánh đầy đủ đặc trưng vùng miền, người dân ở tỉnh
còn lại dễ có cảm giác bị “xóa sổ”, mất đi bản sắc. Họ không phản đối việc sáp
nhập, nhưng họ phản đối cách đặt tên có tính chất thiên vị.
TÂM
LÝ “MẤT – ĐƯỢC” VÀ NỖI LO VỊ THẾ ĐỊA PHƯƠNG
Trong
bất kỳ sự sáp nhập nào, luôn có tâm lý lo ngại về việc tỉnh mình sẽ bị “lép vế”
so với tỉnh còn lại, nhất là khi tên gọi thể hiện sự ưu tiên cho một địa phương
nhất định. Điều này vô tình khơi dậy sự nhạy cảm về vùng miền, dẫn đến tranh
cãi, bức xúc.
MINH
BẠCH – CHÌA KHÓA GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN
Nếu
ngay từ đầu, nguyên tắc đặt tên được công khai rõ ràng, có sự tham gia của các
bên liên quan, dư luận sẽ dễ chấp nhận hơn. Nhưng khi thông tin bị rò rỉ mà
không có giải thích chính thức, nó tạo ra sự hoài nghi và suy diễn, khiến mâu
thuẫn càng bị đẩy lên cao.
LỊCH
SỬ SÁP NHẬP TỈNH – BÀI HỌC TỪ QUÁ KHỨ
Việc
sáp nhập tỉnh không phải là chuyện mới ở nước ta. Nhìn lại lịch sử, có nhiều
bài học đáng suy ngẫm về cách đặt tên tỉnh sau sáp nhập.
NĂM
1962: TRANH LUẬN VỀ TÊN GỌI BẮC GIANG – BẮC NINH
Theo
Báo Bắc Ninh, năm 1962 sau khi đề xuất nhập hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang được
thông qua, mọi người băn khoăn đặt tên tỉnh mới là gì. Lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh
và Bắc Giang đều muốn giữ lại tên làm kỷ niệm, nhưng đặt là Ninh Giang hay
Giang Ninh đều không xuôi.
Khi
đó, Bác Hồ tham khảo ý kiến cụ Nguyễn Đình Ngân, người từng đỗ cử nhân năm 19
tuổi, làm đến chức Tham tri (hàm Thứ trưởng hiện nay) trong triều đình Huế.
Cụ
Nguyễn Đình Ngân cho rằng hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang đều có chung chữ Bắc.
Chữ ấy có ý nghĩa về lịch sử và địa lý nên giữ lại. Chữ thứ hai cần cân nhắc, tỉnh
mới gần Thủ đô Hà Nội, quanh Thủ đô đã có Hà Đông và Hà Nam, nếu gọi Hà Bắc là
thuận. Chữ Bắc nhất định phải để sau để tránh trùng cụm từ Bắc Hà.
1975:
HOÀNG LIÊN SƠN – CÁCH ĐẶT TÊN TINH TẾ
Khi
sáp nhập Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ, Tổng Bí thư Trường Chinh đã chọn cái tên
Hoàng Liên Sơn, dựa trên dãy núi hùng vĩ nhất vùng, gắn kết cả ba tỉnh. Đây là
một cách đặt tên ý nghĩa, hài hòa & thể hiện bản sắc vùng miền.
Gần
đây ca
sĩ Hoà Minzy có xuất bản MV Bắc Bling đạt top 1 trending trên youtube,
được người dân cả nước đón nhận một cách nồng nhiệt chính là vì MV đó đã kể câu
chuyện về mảnh đất và con người Bắc Ninh đồng thời tái hiện lại những nét văn
hoá độc đáo của vùng đất Kinh Bắc (bao gồm cả Bắc Giang), khiến người dân cảm
thấy bản sắc quê hương được gợi lên một cách sống động, sáng tạo trên nền nhạc
hiện đại.
Trong
ca từ của bài hát có câu “Đua thuyền rẽ sóng trên sông Như Nguyệt, bao sử sách
địa linh Nhân Kiệt”.
Ai
học lịch sử cũng biết sông Như Nguyệt gắn liền với trận đánh lớn trên sông này
của Nhà Lý trước quân Tống. Câu hát đó đã khơi dậy những ký ức hào hùng về quá
khứ chống quân xâm lược của dân tộc ta.
Tên
gọi của một địa phương không chỉ đơn thuần là một danh xưng hành chính, mà còn
mang theo giá trị văn hóa, lịch sử và tâm lý sâu sắc.
Tại
sao nước ta vẫn dùng tên Lĩnh Nam để đặt tên cho đường phố trong khi xét về địa
lý thì Lĩnh Nam là khu vực phía nam núi Ngũ Lĩnh bây giờ thuộc lãnh thổ Trung
Quốc? Để nhắc nhở về lịch sử dân tộc ta từ thời Hồng Bàng. Từ những câu thơ về
Hai Bà Trưng chống giặc Hán.
Ngàn
tây nổi áng phong trần
Ầm
ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng
quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi
ngay Tô Định dẹp yên biên thuỳ
Đô
kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh
Nam riêng một triều đình nước ta.
Mỗi
địa danh đều mang trong mình một câu chuyện – có thể là dấu ấn của những sự kiện
trọng đại, sự lưu truyền của một huyền thoại, hay đơn giản là nét đặc trưng của
vùng đất ấy. Khi nhắc đến tên gọi một địa phương, người ta không chỉ hình dung
ra vị trí địa lý mà còn cảm nhận được không gian sống, phong tục, tập quán và
những giá trị mà nơi ấy đã gìn giữ.
Tên
gọi gắn liền với lịch sử nên nó có giá trị rất lớn trong việc giáo dục giá trị
truyền thống.
Ví
dụ một trong những câu chuyện lịch sử cháu được nghe về Nam Sách, Hải Dương quê
nội của mình là chuyện về giai đoạn duy nhất trong lịch sử nước ta có một triều
đình có hai vị vua cùng lúc chấp chính.
Ngô
Quyền chết, em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi cháu. Các con trai Ngô Quyền nhờ sự
cưu mang giúp đỡ của một Phạm Chiêm, tướng lĩnh thân cận của ông ở vùng Trà
Hương (Nam Sách) đánh đổ Dương Tam Kha giành lại chính quyền năm 944. Sau khi
giành lại ngôi vua Ngô Xương Văn xưng vương lấy hiệu là Nam Tấn Vương và Ngô
Xương Ngập lấy hiệu là Thiên Sách Vương, mỗi người lấy một từ của tên “Nam
Sách” để tri ân đối với vùng đất cội nguồn che chở và chỗ dựa tinh thần của
mình.
Dòng
họ nhà cháu, theo thông tin từ gia phả nếu tính từ đời cụ tổ đến đất Nam Sách lập
nghiệp đến nay là khoảng 325 năm, truyền được 14 đời. Qua mỗi đời câu chuyện
kia lại được kể lại. Đến bây giờ cháu kể lại cho các con mình nghe bài học uống
nước nhớ nguồn của người xưa gắn với địa danh quê hương chắc chắn sẽ sống động
hơn kiến thức sách vở thuần tuý.
Cháu
lấy ví dụ trên để chứng minh rằng tên gọi địa danh là biểu tượng của ký ức cộng
đồng, niềm tự hào và sự gắn kết của người dân qua nhiều thế hệ. Theo lý thuyết
thông tin thì những địa danh như vậy là mã kích hoạt sức mạnh tinh thần, là
chìa khoá truy cập tài nguyên văn hoá, lịch sử.
Nó
là tài nguyên tinh thần nên khi một tên gọi mất đi mà không có sự kế thừa thì
đó là một sự tổn thất đối với người dân. Việc giảm số tỉnh còn một nửa là hợp
lý nhưng việc để một nửa dân số giữ lại tên quê hương còn một nửa khác thì
không thì sẽ làm việc cho mấy chục triệu người cảm thấy sự mất mát và bị phân
biệt đối xử
Mất
mát không chỉ là một cái tên – Đó là sự đứt gãy ký ức tập thể
Khi
một địa danh biến mất mà không có sự kế thừa hợp lý, điều mất đi không chỉ là một
cái tên trên bản đồ, mà còn là một phần lịch sử và bản sắc của cộng đồng. Người
dân mất đi một điểm quy chiếu quen thuộc để xác định danh tính địa phương của
mình. Những câu chuyện, phong tục, tập quán gắn liền với tên gọi đó dần bị phai
mờ, khiến thế hệ sau khó có thể nhận diện và tiếp nối truyền thống của cha ông.
Tuy
nhiên, mất mát này không chỉ đơn thuần là sự tiếc nuối về một cái tên, mà còn
là cảm giác bị “nuốt chửng”, bị xóa đi danh tính khi quê hương bị sáp nhập vào
một tỉnh khác mà tên gọi không còn phản ánh nguồn gốc của mình. Khi một tỉnh mất
tên, người dân nơi đó không chỉ mất đi quyền nhận diện bản thân, mà còn cảm thấy
như họ bị “đồng hóa” vào một địa phương khác, dù họ không lựa chọn điều đó.
Tính bất
hợp lý và thiên vị trong việc đặt tên địa danh
Tại
sao một nửa dân số vẫn giữ được tên quê hương mình, trong khi nửa còn lại thì
không?
Sự
bất công này dẫn đến hai nhóm người với hai trải nghiệm hoàn toàn khác nhau:
–
Nhóm được giữ lại tên tỉnh: Không phải đối mặt với bất kỳ thay đổi nào, vẫn duy
trì được danh tính địa phương của mình.
–
Nhóm bị mất tên tỉnh: Không chỉ mất tên quê hương, mà còn cảm thấy mình bị gạt
ra ngoài, bị “nuốt chửng” vào một địa phương khác. Họ không chỉ mất một phần ký
ức, mà còn cảm thấy bị tước đoạt danh tính một cách cưỡng ép.
Điều
này tạo ra một cảm giác bất bình đẳng trong sự tiếp nhận danh tính địa phương,
khiến một bộ phận dân số cảm thấy mình là người ngoài cuộc ngay trên chính quê
hương mình. Người Việt Nam có bản tính ghét sự áp bức, bất công. Họ có thể chịu
khó, chịu khổ, nhưng không thể chấp nhận sự bất công.
Hệ quả
lâu dài của sự mất mát và thiên vị
Sự
thay đổi địa danh theo cách thiếu công bằng không chỉ ảnh hưởng đến cảm xúc cá
nhân, mà còn tạo ra những hệ quả lâu dài:
– Làm
suy yếu bản sắc địa phương: Khi một địa danh bị thay thế, bản sắc và tinh thần
của cộng đồng đó cũng dần bị hòa tan, mất đi sự khác biệt vốn có.
– Tạo
cảm giác mất gốc: Người dân có thể cảm thấy xa lạ ngay trên chính quê hương
mình khi danh tính địa phương của họ bị biến mất.
– Gây
chia rẽ và bất mãn trong xã hội: Khi một nửa dân số được giữ lại tên quê hương,
trong khi nửa còn lại bị sáp nhập mà không có sự lựa chọn, cảm giác bất công sẽ
lan rộng, tạo ra sự phân tầng trong nhận thức về danh tính địa phương.
– Làm
giảm sự kết nối giữa thế hệ cũ và thế hệ mới: Những người già sẽ thấy khó khăn
hơn trong việc truyền đạt lịch sử và truyền thống cho con cháu khi cái tên quê
hương mà họ từng gắn bó không còn tồn tại.
Tên
tỉnh mới phản ánh điều gì?
Khi
nhìn vào danh sách tên tỉnh sau sáp nhập, có vẻ như tên tỉnh mới thường dựa
trên quan điểm rằng đó là tỉnh ưu trội hơn so với tỉnh còn lại. Nhưng ưu trội
trên phương diện nào? Có vẻ như tiêu chí kinh tế đóng vai trò chính.
Tuy
nhiên, nếu chỉ xét về kinh tế, ưu thế đó có thể kéo dài bao lâu? Một tỉnh có
GRDP cao hơn tỉnh khác cũng giống như một người có lương tháng cao hơn người
khác – nhưng chưa chắc anh ta đã giàu hơn người hàng xóm có tài sản tích lũy
qua nhiều thế hệ.
Tài
sản ở đây không chỉ là tài sản vật chất hữu hình, mà còn là những giá trị tinh
thần vô hình. Một địa phương không chỉ được định nghĩa bằng sự phát triển kinh
tế nhất thời, mà còn bởi di sản văn hóa, lịch sử, con người – những yếu tố
không thể đo lường bằng các chỉ số kinh tế đơn thuần.
Cháu
xin lấy hai trường hợp dễ quan sát là việc sáp nhập Đà Nẵng với Quảng Nam và Hải
Dương và Hải Phòng. Ở đây dễ thấy hai thành phố Đà Nẵng và Hải Phòng đều là
thành phố trực thuộc trung ương, có vị thế cao hơn hẳn so với hai tỉnh bên cạnh.
Tuy nhiên thực tế lịch sử thì sao. Thực tế lịch sử là Đà Nẵng là một phần được
tách ra từ Quảng Nam và Hải Phòng vốn cũng là một phần được tách ra từ Hải
Dương.
Có
lần vào một thư viện ở Nhật cháu tình cờ tìm được một cuốn sách nói về lịch sử
Việt Nam và lúc đó mới biết người Nhật gọi xứ Đàng Trong là Quảng Nam Quốc.
Search
trên Kotobank một trang từ điển tiếng Nhật online có chú thích như sau
広南国(こうなんこく[1]、かんなんこく、クァンナムこく、ベトナム語:Quảng Nam Quốc / Quảng-nam
Quốc / 廣南國[2],1558年 – 1777年, 1780年 – 1802年)は、後黎朝大越中興期(中国語版)において、重臣の広南阮氏が現在のベトナム中部から南部に築いた半独立政権に対する中国人からの呼称[1]。阮氏広南国(げん / グエンし – )、あるいは広南朝(こうなんちょう、クアンナムちょう)[3]、阮主(ベトナム語:Chúa Nguyễn / 主阮)とも呼ばれる。
Quốc
gia Quảng Nam (広南国, phát âm: Kōnan-koku, Kannan-koku, Quảng Nam
Quốc; tiếng Việt: Quảng Nam Quốc / 廣南國, 1558 – 1777, 1780 –
1802) là tên gọi mà người Trung Quốc dùng để chỉ chính quyền bán độc lập do họ
Nguyễn thành lập ở khu vực miền Trung và miền Nam Việt Nam trong giai đoạn
trung hưng của nhà Hậu Lê. Chính quyền này còn được gọi là Nguyễn thị Quảng Nam
Quốc (阮氏広南国),
Triều đại Quảng Nam (広南朝, Quảng Nam Triều) hoặc Chúa Nguyễn (tiếng Việt:
Chúa Nguyễn / 主阮).
Như
thế địa danh Quảng Nam không phải chỉ là tên một vùng đất nhỏ bé ở một góc miền
Trung mà còn là thương hiệu lịch sử cấp quốc gia của Đàng Trong, đây là thương
hiệu quốc tế có cả mấy trăm năm nên nên bảo Đà Nẵng có thương hiệu lớn hơn thì
không thực sự thoả đáng. Trong các văn bản và phương tiện truyền thông hiện đại
người Trung Quốc còn gọi Đà Nẵng là Hiện Cảng (Cảng hến) chứ không dùng danh
xưng Đà Nẵng. Lịch sử thì như vậy còn về văn hoá thì người ta nói văn hoá xứ Quảng
chứ không ai nói văn hoá Đà Nẵng, bởi vì Đà Nẵng vốn xem là đồng nhất với Quảng
Nam rồi. Điều này cũng đã đi vào ca dao tục ngữ.
“Đất
Quảng Nam chưa mưa đã thấm, rượu Hồng Đào chưa ngấm đã say”.
Chúng
ta cũng thấy nói Mì Quảng chứ không có Mì Đà Nẵng.
Còn
về mối quan hệ lịch sử giữa Hải Dương và Hải Phòng thì sao?
Hải
Dương có danh xưng chính thức từ 1469 dưới thời vua Lê Thánh Tông, bao gồm cả một
vùng đất rộng lớn (xứ Đông) trải dài đến biển bao gồm cả Hải Phòng và nhiều
vùng đất thuộc Quảng Ninh ngày nay. Đó là lý do tại sao hiện nay Hải Dương
không có biển nhưng lại có chữ Hải trong tên gọi của mình.
Còn
Hải Phòng là đến thời vua Tự Đức mới xuất hiện, tên gọi rút gọn của từ “Hải
Dương thương chính quan phòng” là một cơ quan thuế vụ làm nhiệm vụ thu thuế ở
vùng cảng Ninh Hải, sông Cấm ngày nay. Sau này người Pháp mới tách Hải Phòng ra
thành một địa phương riêng biệt.
Hải
Dương cũng là một vùng đất có bề dày văn hoá lịch sử lâu đời (bao gồm cả văn
hoá lịch sử Hải Phòng).
Bây
giờ trên địa phận tỉnh Hải Dương vẫn là nơi lưu giữ những ký ức lịch sử có một
không hai của Việt Nam. Chúng ta có những tên tuổi lớn tầm cỡ thế giới đã an
nghỉ tại mảnh đất này như anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, một trong tứ thánh bất
tử của Việt Nam, danh nhân văn hoá Chu Văn An người được coi là Vạn Thế Sư Biểu
được thờ trong Văn Miếu Quốc Tử Giám, danh nhân văn hoá thế giới cũng là anh
hùng dân tộc Nguyễn Trãi.
Hải
Dương cũng là vùng đất học nổi tiếng nhất nước, từ giữa thế kỷ 15 nhà Lê đã cho
xây dựng trường thi hương tức văn miếu Mao Điền là văn miếu có quy mô và lịch sử
lâu đời thứ hai cả nước chỉ sau Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Nếu
chỉ tính trên phạm vi địa lý hành chính của Hải Dương hiện tại không bao gồm xứ
Đông cũ thì Hải Dương vẫn là tỉnh có số lượng tiến sĩ, trạng nguyên lớn trong
thời phong kiến lớn nhất cả nước. Cũng là địa phương duy nhất của làng tiến sĩ
Mộ Trạch. Vua tự Đức từng nói “Mộ Trạch nhất gia, bán thiên hạ” để mô tả về
tình trạng mật độ nhân tài tập trung ở Mộ Trạch đông đảo thế nào.
Hải
Dương cũng là quê hương của lưỡng quốc trạng nguyên duy nhất của nước ta Mạc
Đĩnh Chi, và nữ tiến sĩ duy nhất Nguyễn Thị Duệ. Ngoài ra còn kể đến danh y thiền
sư Tuệ Tĩnh, khi bị bắt quân Minh bắt cống sang Trung Quốc ông vẫn làm thuốc và
nổi tiếng, được vua Minh phong danh hiệu Đại Y Thiền Sư.
Hải
Dương cũng là quê hương của Tự lực văn đàn, nhóm nhà văn tạo nên trường phái
văn học mới trong phong trào cách tân văn học nước nhà hồi đầu thế kỷ 20.
Với
bề dầy hoá lịch sử như thế mà cho rằng vị thế của Hải Dương kém hơn so với Hải
Phòng nên tên tỉnh mới được chọn là Hải Phòng thì thật sự là bất hợp lý.
Cháu
đưa ra những phân tích này không phải để chứng minh là Hải Dương hơn Hải Phòng
hay Quảng Nam hơn Đà Nẵng, mà là chỉ ra một sự thật là nếu căn cứ vào những
tiêu chí không đầy đủ để đi đến quyết định lấy tên tỉnh này bỏ tên tỉnh kia sẽ
đều là phiến diện và bất hợp lý. Chỉ cần nhìn mọi thứ từ một góc độ khác thì sẽ
thấy những lựa chọn tưởng chừng là hợp lý sẽ trở nên bất hợp lý.
Theo
cháu sự đặt tên tỉnh mới nên thể hiện sự kế thừa kết hợp của các tỉnh cũ, không
tạo ra sự áp đảo của tỉnh này với tỉnh kia. Ví dụ sáp nhập Hải Dương và Hải
Phòng thì có thể dùng tên mới là Hải Đông, đó cũng là tên cũ của vùng đất này từ
xưa, trấn Hải Đông có chữ Hải trong tên của cả hai tỉnh, vừa kế thừa lịch sử của
cả vùng đất. Cả Hải Dương và Hải Phòng vốn dĩ cùng chung nguồn gốc, bản sắc văn
hoá giống nhau nên việc sáp nhập tỉnh nếu không có sự tranh chấp tên tuổi thì
chắc chắn mọi việc sẽ diễn ra suôn sẻ.
Cháu
chỉ lấy ví dụ về chính địa phương mình còn các địa phương khác thì người dân ở
mỗi địa phương sẽ có những sáng kiến phù hợp để đặt tên mình. Ngoài ra có rất
nhiều chuyên gia văn hoá lịch sử am hiểu về lịch sử từng địa phương sẽ có giải
pháp hợp lý cho việc đặt tên tỉnh trên cả nước.
Bác
và các lãnh đạo cũng có thể tham khảo cách đặt tên tỉnh của vua Minh Mạng vì thời
điểm ông cầm quyền cũng chia đất nước ta thành 31 tỉnh rất gần với tình hình hiện
nay.
Trong
đó, Bắc Kỳ (cách gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ có từ năm 1834) có 13 tỉnh: Hà Nội,
Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên, Hải Dương, Bắc
Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Nguyên.
Trung
Kỳ gồm 11 tỉnh là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận và phủ Thừa Thiên.
Nam
Kỳ có 6 tỉnh là Phiên An (năm 1836 đổi tên thành Gia Định), Biên Hòa, Định Tường,
Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Đế
Quốc Đại Nam
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/03/2-24.jpg
Ảnh
trên mạng
Vua
Minh Mạng là một vị vua có tài quản trị hành chính tốt, thời của ông cũng là thời
mà biên giới nước Đại Nam có cương vực lãnh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử nước
ta. Ông có bài thơ nổi tiếng Đế Hệ Thi để đặt tên cho con cháu mình, chỉ cần
nhìn vào tên đệm của các vị vua là biết được họ thuộc thế hệ thứ mấy. Ví dụ vua
Duy Tân tên là Vĩnh San, vua Bảo Đại là Vĩnh Thuỵ thì ta biết ngay hai vị vua
này là anh em họ thuộc cùng hàng thế hệ thứ 5 của Vua Minh Mạng.
Bài
thơ đó cùng với thành tích quản trị quốc gia thực tế của ông thể hiện rằng ông
là người tư duy hệ thống, có óc tổ chức sắp xếp hiệu quả. Nếu để ý tên các tỉnh
ông đặt cho nước ta thì sẽ thấy năm lần dùng chữ Quảng (Quảng Ninh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi) đây đều là các vùng đất theo từng giai đoạn lịch
sử là vùng biên cương nước ta, dần theo quả trình mở cõi mà hình thành, chữ Quảng
mang nghĩa mở rộng lãnh thổ, quảng bá ân đức triều đình đến nhân dân.
–
Hai lần dùng chữ Hưng (Hưng Yên, Hưng Hoá) thể hiện kỳ vọng phát triển Hưng Thịnh
–
Ba lần dùng chữ Yên (Hưng Yên, Quảng Yên, Phú Yên) với nghĩa yên bình, ổn định
–
Ba lần dùng chữ An (Phiên An, An Giang, Nghệ An) với nghĩa tương tự trên.
–
Hai lần dùng chữ Hoá (Hưng Hoá, Thanh Hoá) với nghĩa giáo hoá biến đổi, vùng đất
có nhiều lam sơn chướng khí, thành phần dân cư phức tạp
–
Ba lần dùng chữ Bình (Ninh Bình, Bình Định, Bình Thuận)
–
Ba lần dùng chữ Định (Nam Định, Bình Định, Định Tường)
–
Hai lần dùng chữ Hoà (Khánh Hoà, Biên Hoà)
Dữ
liệu trên cho thấy nội dung tư tưởng chủ đạo trong việc đặt tên tỉnh nhấn mạnh
vào sự ổn định, hài hoà, yên ổn. Việc đặt tên tỉnh mới ngày nay cũng nên học tập
tinh thần này.
Còn
một yếu tố nữa trong việc tạo lập cái mới đó là sự kế thừa cái cũ. Lịch sử Việt
Nam có nhiều bài học về điều này. Khi chúa Trịnh Tùng đánh bại nhà Mạc dẹp yên
được thiên hạ lúc đó ông phải cân nhắc giữa việc tự mình lên làm vua và phế bỏ
vua Lê Trang Tông hay tiếp tục để vua Lê giữ ngôi. Dân Việt Nam ai cũng biết
câu “Nợ như chúa Chổm” nhưng không phải ai cũng biết chúa Chổm chính là vua Lê
Trang Tông, ông ta có biệt danh đó vì trước khi được đưa lên làm vua chỉ là một
kẻ ăn nhậu hoang đàn, vay nợ khắp nơi. Đại thần nhà Lê là Nguyễn Kim, ông tổ
dòng chúa Nguyễn đón về và lập lên làm vua, vua Lê vốn không có khí chất và tài
năng của một người lãnh đạo nên thực chất chỉ là bù nhìn.
Nguyễn
Kim chết binh quyền rơi vào tay Trịnh Kiểm đến đời Trịnh Tùng đã là đời thứ ba
nên về cơ bản Trịnh Tùng cũng không có nhiều ràng buộc cá nhân đối với Lê Trang
Tông, tuy nhiên ông muốn nắm giữ cơ nghiệp lâu dài nên cũng hết sức thận trọng
và sai người đến hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì được Trạng Trình khuyên
là “Giữ chùa, thờ phật thì ăn oản” nên cuối cùng tuy đã hoàn toàn nắm binh quyền,
có quyền lực của một nhà độc tài Trịnh Tùng vẫn nghe theo lời bậc nhân sĩ trí
thức đức cao, vọng trọng là Trạng Trình nên đã duy trì chế độ chính quyền kép
lưỡng đầu chế Lê – Trịnh cân bằng giữa yếu tố tính chính danh và thực quyền, bảo
lưu yếu tố truyền thống của vua Lê và sức mạnh quân sự chính trị hiện tại của
chúa Trịnh.
Việc
sáp nhập tỉnh cũng tương tự, không nên để người ta có cảm giác tỉnh này
dominate, thôn tính tỉnh kia. Pháp luật bây giờ còn quy định bất động sản là
tài sản chung của hai vợ chồng thì khi làm sổ đỏ bắt buộc phải đứng tên cả vợ cả
chồng. Bây giờ tỉnh mới gộp hai đến ba tỉnh mấy triệu con người góp công góp sức,
góp di sản văn hoá thế mà lại chỉ lấy tên một tỉnh khác nào hai vợ chồng cùng bỏ
công sức mua đất mua nhà nhưng sổ đỏ lại chỉ có tên một người.
Với
suy nghĩ như trên cháu xin phép đưa ra ý kiến mong bác và các vị lãnh đạo Đảng
và Nhà nước cân nhắc trong việc đặt tên mới các tỉnh sau khi sáp nhật theo
nguyên tắc hài hoà, cân bằng ổn định, có tính kế thừa để giữ gìn sự đoàn kết
trong nội bộ nhân dân trước công cuộc đổi mới lần hai của đất nước.
_____
P/S: Mình không nghĩ lá
thư này đến được với TBT Tô Lâm vì bác ở xa quá. Mình cũng không có khả năng tiếp
cận để phán ảnh ý kiến với chính quyền nên mượn mạng xã hội để bày tỏ quan điểm
suy nghĩ của mình dưới hình thức một lá thư ngỏ.
Mình
cũng mong rằng mọi người dân cả nước, các bạn ở các tỉnh khác hãy nói lên ý kiến
của mình về việc đặt tên tỉnh mới của mình và chia sẻ những câu chuyện của địa
phương mình làm dẫn chứng để có một phương án hợp lý cho việc đặt tên tỉnh mới.
Nếu
đã nói sáp nhập tỉnh là để mở ra cục diện phát triển trăm năm thì những cái tên
tỉnh thành đã tồn tại hàng trăm, hàng ngàn năm lại càng không thể xem nhẹ. Những
cái tên mới cũng phải có tính kế thừa lịch sử văn hoá trăm năm mới có thể mở ra
cục diện trăm năm được. Cây muốn cao thì gốc rễ càng phải sâu.
Việc
sáp nhập tỉnh, xây dựng lại bộ máy quản trị về bản chất khó hơn việc đặt tên
nhiều. Nếu việc đặt tên mà không thể làm tốt thì khó có thể tin rằng những việc
khác cũng có thể làm tốt. Muốn phát triển phải làm được việc đoàn kết dân tâm
trước chứ không thể làm việc gây chia rẽ.
Nếu
nhiều người cùng lên tiếng, cùng có ý kiến thì chắc chắn ý kiến của mỗi người
dù nhỏ bé góp lại cũng thành sức mạnh để thay đổi những quyết định chưa đúng đắn.
Nếu ai không muốn mọi việc thành sự đã rồi, thì hãy cùng nhau bày tỏ suy nghĩ của
mình.
No comments:
Post a Comment