Monday 17 October 2022

HOÀNH HÀNH CỦA TRUNG QUỐC : LIỆU SÔNG MEKONG CÓ TRỞ THÀNH BIỂN ĐÔNG? (Phan Minh / RFI)

 



Hoành hành của Trung Quốc: Liệu sông Mekong có trở thành Biển Đông ?   

Phan Minh  -  RFI

Đăng ngày: 11/10/2022 - 15:09

https://www.rfi.fr/vi/ch%C3%A2u-%C3%A1/20221011-ho%C3%A0nh-h%C3%A0nh-c%E1%BB%A7a-trung-qu%E1%BB%91c-li%E1%BB%87u-s%C3%B4ng-mekong-c%C3%B3-tr%E1%BB%9F-th%C3%A0nh-bi%E1%BB%83n-%C4%91%C3%B4ng

 

Trong những năm gần đây, số phận của con sông lớn ở Đông Nam Á, sông Mekong đã thu hút ngày càng nhiều sự chú ý quốc tế.

 

Sông Mekong phải đối mặt với nhiều thách thức, từ tác động của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn ở vùng đồng bằng của sông, đến việc Trung Quốc phát triển các đập ở đầu nguồn sông. Cường độ cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc lại càng làm gia tăng các mối quan tâm này và làm dấy lên câu hỏi về tương lai của sông Mekong với một chiến lược tiềm ẩn.

 

Bà Ming Li Yong, một thành viên tại Trung tâm Đông-Tây, người đã nghiên cứu về việc quản lý biên giới và phát triển thủy điện ở lưu vực sông Mekong, đã trả lời trang mạng Nhật The Diplomat về sự so sánh giữa sông Mekong và Biển Đông, về tác động của việc Trung Quốc phát triển thủy điện ở thượng nguồn sông và tương lai của việc quản lý biên giới ở khu vực sông và các nguồn tài nguyên của nó. RFI xin trích dịch. 

 

                                                               *

Trong thời gian gần đây, việc so sánh sông Mekong với Biển Đông đã không còn là một điều mới lạ, dường như đây có thể sẽ là một khu vực tranh chấp mang tính chiến lược giữa Trung Quốc với các đối thủ họ. Bà có thấy đây là một so sánh hợp lý ? 

 

Sự so sánh này không hoàn toàn hợp lý, mặc dù dường như vai trò của Trung Quốc trong việc thúc đẩy các cuộc tranh chấp xung quanh sông Mekong và Biển Đông thoạt nhìn ban đầu rất giống nhau. Khi so sánh như vậy, Trung Quốc được cho là đang khẳng định quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng để đạt được lợi thế địa chính trị và địa kinh tế trong khu vực : các tài nguyên không thể tái tạo như dầu khí và các tuyến giao thông quan trọng ở Biển Đông và thượng nguồn sông Mekong. Căng thẳng phát sinh từ lĩnh vực này cũng có thể lan sang lĩnh vực khác, điều đó làm dấy lên lo ngại rằng những khu vực này trở thành một điểm nóng về mặt chiến lược trong mối quan hệ Trung Quốc-Đông Nam Á. 

 

Tuy nhiên, tranh chấp Biển Đông về cơ bản được thúc đẩy bởi các tranh chấp lãnh thổ đi kèm với nguy cơ xung đột quân sự, và do đó gắn liền với các mối đe dọa an ninh đối với chủ quyền quốc gia. Ngược lại, tranh cãi về sông Mekong liên quan đến việc sử dụng các nguồn nước của con sông một cách không công bằng, đặc biệt là liên quan đến các đối tượng sử dụng nước ở thượng và hạ nguồn, hầu như không liên quan đến xung đột quân sự và chỉ gắn liền với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống liên quan đến an ninh lương thực và nước uống. 

 

Mối quan hệ giữa các quốc gia trong hồ sơ sông Mekong cũng được thể hiện qua sự hợp tác trên nhiều lĩnh vực và việc công nhận quyền chủ quyền để theo đuổi phát triển kinh tế, thay vì xung đột. Ví dụ, hợp tác về nguồn nước ở hạ lưu sông Mekong đã được thực hiện thông qua Ủy ban sông Mekong (MRC), và thông qua các khuôn khổ khác nhau. 

 

Mặc dù việc phát triển thủy điện đã làm nổi bật những lo ngại xung quanh việc sử dụng nguồn nước của sông một cách không công bằng, điều này phải được xem xét trong bối cảnh phát triển mua bán năng lượng xuyên biên giới thông qua việc phát triển điện lưới trong khu vực, được các chính phủ khu vực Mekong coi là một cách nhằm cải thiện an ninh năng lượng, kết nối cơ sở hạ tầng và hợp tác kinh tế trong khu vực. 

 

                                                         *

Các quan chức Hoa Kỳ và Nhật Bản đang ngày càng nêu bật những thiệt hại do các dự án đập của Trung Quốc gây ra ở thượng nguồn, đồng thời đề nghị một loạt sáng kiến liên quan đến sông Mekong nhằm cạnh tranh với hợp tác Mekong-Lan Thương do Trung Quốc hậu thuẫn. Bà có thể mô tả về cách các quốc gia nằm ở hạ nguồn sông Mekong đã xử lý sự chú ý ngày càng gia tăng đối với khu vực này như thế nào ? 

 

Nhìn chung, các quốc gia nằm ở hạ nguồn sông Mekong và MRC đã tương đối kín tiếng, không chỉ trích Trung Quốc. Trong đợt hạn hán năm 2016, Trung Quốc đã đồng ý với yêu cầu của Việt Nam xả nước từ các con đập trên đoạn sông Mekong chảy qua Việt Nam. Hà Nội đã công khai bày tỏ lòng biết ơn sau việc này. Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đều có cổ phần trong các đập thủy điện hiện có hoặc sẽ được xây dựng và các dự án phát triển nguồn nước sông Mekong và các nhánh sông, do đó những quốc gia này nhiều khả năng nhận thức được rằng những chỉ trích của họ về việc phát triển tài nguyên nước trong lưu vực sông có thể có tác động tiêu cực đến các kế hoạch tương lai của họ đối với con sông. 

 

Các quốc gia nằm ở hạ nguồn sông Mekong và MRC đã giải quyết phần lớn vấn đề này thông qua nỗ lực thu hút sự tham gia của Trung Quốc trong việc chia sẻ dữ liệu tốt hơn để cải thiện hợp tác tài nguyên nước. Cũng cần lưu ý rằng đợt hạn hán kéo dài xảy ra ở khu vực sông Mekong từ năm 2019 đến năm 2022, cùng với những chỉ trích về các con đập của Trung Quốc, đặc biệt là Thái Lan, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc gia tăng những lo ngại này. 

 

Vào tháng 1 năm 2020, Văn phòng Tài nguyên nước Quốc gia (ONWR) của Thái Lan cho biết « ưu tiên hàng đầu » của họ sẽ là nêu ra MRC về những biến động của mực nước và việc thiếu thông báo kịp thời liên quan đến các hạn chế và xả nước từ các đập của Trung Quốc. ONWR cũng kêu gọi việc trao đổi dữ liệu được cải thiện với Trung Quốc và Lào, đồng thời sự trao đổi thông tin này được chính thức hóa trong dài hạn. 

 

Trong bối cảnh mọi người càng chú ý đến những tác động tiêu cực của đập thủy điện trên sông Lan Thương (phần sông Mekong chạy qua Trung Quốc) trên nhiều lĩnh vực mà vào tháng 10 năm 2020, Trung Quốc đã đồng ý chia sẻ dữ liệu quanh năm từ hai trạm thủy văn với MRC, vốn được Giám đốc điều hành MRC lúc bấy giờ là An. Pich Hatda coi là “một bước ngoặt trong lịch sử hợp tác Trung Quốc-MRC.” Trước đây, chỉ có dữ liệu của mùa mưa được chia sẻ. Tuy nhiên, những lo ngại về tính minh bạch của dữ liệu liên quan đến hoạt động đập của Trung Quốc vẫn còn đó. 

 

                                                            *

Trung Quốc đã phản ứng như thế nào trước những tuyên bố về tác động mà việc xây đập của họ đang gây ra đối với các quốc gia ở hạ nguồn, và bà có thấy dấu hiệu nào cho thấy Bắc Kinh sẵn sàng tham gia đối thoại về những vấn đề này với các quốc gia ở hạ nguồn ? 

 

Mức độ tích trữ nước trong các đập của Trung Quốc đã làm trầm trọng hơn tình trạng hạn hán kéo dài và gần đây ở khu vực sông Mekong vẫn còn là một lĩnh vực gây tranh luận và không chắc chắn, điều này một lần nữa phản ánh sự thúc đẩy trong việc minh bạch hóa hơn nữa xung quanh các hoạt động của đập Trung Quốc. Cho đến nay, Trung Quốc vẫn khẳng định rằng các con đập của họ có lợi cho các nước ở hạ nguồn sông Mekong, do tác động “điều tiết” của chúng sẽ làm giảm lũ lụt trong mùa mưa và nâng cao khả năng cung ứng nước trong thời gian hạn hán và mùa khô, cải thiện giao thông đường thủy và thương mại dọc sông. 

 

Trung Quốc sẽ không thay đổi cách nhìn của mình về vấn đề này, khi các bài báo gần đây trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc đã bác bỏ việc các trạm thủy điện của Trung Quốc bị « các phương tiện truyền thông phương Tây » chỉ trích. Thay vào đó, họ đã nhắc lại bản chất có lợi của các đập thủy điện, lưu ý rằng nghiên cứu từ đại học Thanh Hoa đã phát hiện rằng dòng thác của đập Lan Thương đã làm gia tăng dòng chảy trong mùa khô, và nhấn mạnh rằng Trung Quốc là một nước láng giềng tốt với các quốc gia ở hạ nguồn. 

 

Như đã đề cập ở trên, hợp tác giữa Trung Quốc và các quốc gia ở hạ nguồn sông Mekong có thể được thực hiện trong lĩnh vực chia sẻ dữ liệu và hợp tác kỹ thuật để quản lý những vấn đề này, mặc dù vẫn còn nhiều bất trắc về mức độ mà Trung Quốc sẽ sẵn sàng tham gia trong việc chia sẻ dữ liệu về hoạt động của đập. Một số tiến bộ có thể đạt được vì hợp tác kỹ thuật đôi khi có thể cung cấp một không gian phi chính trị hữu ích để tham gia vào các cuộc thảo luận, nhưng điều này không có khả năng thay đổi các luận điểm chủ đạo hiện nay của chính phủ Trung Quốc. 

 

Tuy nhiên, khi phân tích những vấn đề này trong tương lai, cần phải thừa nhận rằng “Trung Quốc” không phải là một thực thể đơn nhất và những vấn đề này không thể chỉ xem xét qua lăng kính cạnh tranh địa chính trị chiến lược. Thay vào đó, những phát triển này cũng cần được đánh giá trong bối cảnh các quan hệ và ưu tiên giữa chính phủ ở trung ương, chính quyền cấp tỉnh và địa phương, các doanh nghiệp Nhà nước và ngành năng lượng ở Trung Quốc. 

 

                                                              *

 

Một điều có thể xảy ra song song với các tranh chấp ở Biển Đông là trên thực tế, các quốc gia Đông Nam Á không đoàn kết trong cách tiếp cận sông Mekong. Điều này không chỉ đúng với các quốc gia có biển, những quốc gia không quan tâm trực tiếp đến số phận của con sông và các nguồn tài nguyên của nó, mà còn đúng với chính các quốc gia Đông Nam Á lục địa. Bà có thấy dấu hiệu nào cho thấy 4 quốc gia ở hạ nguồn (5 quốc gia nếu tính cả Miến Điện) đang tìm cách có chung một tiếng nói về các vấn đề liên quan đến việc bảo tồn sông Mekong không ? 

 

Đây là một nhận xét hợp lý và thú vị. Thật không may, trong trường hợp của lưu vực sông Mekong, các chính phủ thường ưu tiên việc phát triển kinh tế song song với phát triển tài nguyên nước hơn là bảo tồn sinh thái của dòng sông. Điều này không có nghĩa là các chính phủ Mekong đã không quan tâm đến các tác động sinh thái của việc phát triển thủy điện trên sông. Dựa trên nghiên cứu của tôi ở Thái Lan và Cam Bốt, các cơ quan chính phủ phụ trách thủy sản và tài nguyên nước đã thực sự quan tâm đến những tác động này, nhưng những mối quan tâm này thường bị các cơ quan mạnh hơn, mang lại nhiều lợi nhuận hơn như các bộ năng lượng và các cơ quan Nhà nước phớt lờ. 

 

Mỗi chính phủ đều có những mối lợi kinh tế trong việc phát triển các đập thủy điện trên sông Mekong, và mạng lưới lợi ích phức tạp này vượt lên trên luận điểm chung về sự năng động hợp tác giữa các nước ở thượng và hạ nguồn. Phát triển thủy điện là một chính sách kinh tế chủ chốt trong các kế hoạch phát triển của chính phủ Lào. Thái Lan, Cam Bốt và Việt Nam là khách hàng mua điện của Lào và đã xây dựng các đập trên các nhánh sông Mekong. Các công ty Thái Lan và Việt Nam là nhà đầu tư vào các đập thủy điện của Lào và Cam Bốt dường như đã hồi sinh các kế hoạch xây dựng một con đập lớn trên dòng chảy chính của sông Mekong. Phát triển cơ sở hạ tầng tác động đến sông Mekong cũng diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau ngoài năng lượng, chẳng hạn như nông nghiệp và phát triển đô thị. 

 

Mặc dù vậy, chính các cộng đồng ven sông và xã hội dân sự ở Thái Lan, Cam Bốt và Việt Nam đã có tiếng nói mạnh mẽ nhất kêu gọi bảo tồn các hoạt động hữu ích cho hệ sinh thái của sông Mekong, đặc biệt vì lợi ích của hàng triệu người sống dựa vào dòng sông về mặt cuộc sống nói chung, sinh kế và an ninh lương thực.





No comments:

Post a Comment

View My Stats