Nguyễn Thị Thanh Bình: Sau 44 năm không còn tiếng súng đạn pháo, liệu tháng tư 1975
trong lòng bạn vẫn còn là tháng tư đen, và mỗi người trong chúng ta dường như đều
có mỗi cách riêng để nghĩ về hoặc truy điệu cho Ngày 30/4 chăng? Ví dụ bạn có cảm
hứng sáng tác một chút thơ “riêng tư” nào cho tháng 4 như thắp lên nén hương
lòng chẳng hạn? Nếu bạn không làm thơ thì bài thơ tháng 4 hay tác phẩm nào khiến
bạn xúc động nhất? Đại khái lúc trước tôi rất tâm đắc những linh cảm tiên tri của
thi sĩ Vũ Hoàng Chương trong mấy câu thơ: “Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc bến”,
hoặc “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”… Coi như là chuyện “thơ thẩn”, vì dường
như khi lòng mình chưa quên lãng nguôi ngoai thì người Việt vốn là dân tộc yêu
thơ, nên đều muốn được gởi gấm cùng Thơ. Kỳ thực bạn ơi, nếu có một ai đó đang
muốn lắng nghe một câu chuyện tháng 4 của bạn như “chuyện bây giờ mới kể”, thì
liệu bạn có muốn chia sẻ điều gì cho mốc điểm 30/4 năm nay? Và liệu có bao giờ
bạn tự hỏi giang sơn đất nước chúng ta đã quy về một mối, sao điều gì vẫn khiến
lòng người ly tán và không thống nhất được?
Hoàng Hưng: Tôi sẽ
không trả lời “trực tiếp” từng ý nhỏ trong các câu hỏi của bạn! Mà chỉ nhân đây
kể ra vài việc thật của bản thân hoặc nói lên suy nghĩ của mình vào lúc này
liên quan đến ngày 30/4.
Cho câu 1, cũng để
trả lời câu hỏi của một bạn văn ở “bên thua cuộc” mới quen trên FB, tôi đã post
vài đoạn nhật ký viết bằng văn vần từ đầu những năm 1970.
Nay xin chép lại
(theo trí nhớ) để bạn thấy tôi đã từng nghĩ thế nào về cuộc chiến, sau một số
năm cũng xổ ra không ít vần thơ hào hùng như mọi cây bút khác trên đất Bắc, thậm
chí còn viết đơn “tình nguyện đi B. (miền Nam) phục vụ chiến trường” (chắc là
làm báo “Giải phóng”?).
Các anh bảo chúng
tôi
Đi chiến đấu cho
ngày mai tươi đẹp
Chúng tôi đi
Vì không sợ chết
Chúng tôi chết
Vì sợ sống hèn
Nhưng sẽ ra sao cái
ngày mai ấy?
…
Chúng tôi đấy
Đều ngoan ngoãn cả
Anh vừa lòng chứ ạ?
Vâng
Chúng tôi cứ khoanh
tay nhắm mắt ngồi nhìn
Sư nặng nề ngu độn
của các anh
Cứ chầm chậm dìm
con tàu xuống biển
…
“Họ tháo cho ta
cánh tay xiềng xích
rồi đem xiềng xiềng
chặt óc tim ta”.
Tất cả đã thành một
rọ cua
Quơ càng vào nhau rối
rít
Đến chết không thôi
kìm kẹp lẫn nhau
Bạn ơi!
Hãy xé tan lá cờ liệm
chặt đời ta
Hãy lật nhào
Những thần tượng ta
siết bao yêu quý!
Trong vụ án “Về
Kinh Bắc” năm 1982 (tôi cầm bản chép tay “VKB” mà nhà thơ Hoàng Cầm chép tặng để
mang vào Sài Gòn “chơi”), vì tôi cãi bướng, công an đã vào SG lục tung nhà tôi
và vớ được những dòng “thơ” này. Họ kết luận: “Thơ này phản động gấp trăm lần
thơ HC” (lời ông Khổng Minh Dụ, trưởng phòng Văn nghệ của Cục An ninh Văn hoá –
A25 – lúc đó, sau này là Thiếu tướng Cục trưởng). Và kết quả là tôi được… đi tập
trung cải tạo (“chiếu cố nên chỉ “xử lý nội bộ, không đưa anh ra toà” – lời sĩ
quan điều tra khi kết luận vụ án), ở cùng trại với rất đông cựu sĩ quan công chức
của “bên thua cuộc”!
Nguyễn Thị Thanh Bình: Nếu chỉ một lần cần quay lại cuốn phim Hà Nội vứt bỏ Hiệp Định
Đình Chiến Paris, để mang danh nghĩa giải phóng Miền Nam, giữa đôi mắt “quan
sát” ráo hoảnh của Liên Hiệp Quốc, liệu bạn còn nhớ cảm giác hụt hẫng mất mát,
khi cả nhà cùng mở đài phát thanh nghe tin T.T Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng
kéo cờ trắng buông súng? Cảm giác sững sờ tê điếng ấy nếu có thử hỏi có giông
giống cảm giác lặng người bên vỉa hè MN Sài Gòn chan hòa nắng đẹp tự do của nhà
văn Dương Thu Hương, vì chợt nhận ra chiếc mặt nạ tuyên truyền dối trá của cách
mạng giải phóng? Thật tình hình ảnh vẫn còn ghi đậm trong tâm trí của bạn về
Ngày 30/4 là gì? Bạn có chứng kiến cảnh những người lính VNCH cởi quân phục vất
đầy đường, hay đại khái những âu lo tang thương khi “đàn bò vào thành phố” như
câu nhạc bất ngờ của Trịnh Công Sơn? Nếu bạn cũng “bất ngờ” thuộc diện “Bên Thắng
Cuộc” thì ngày 30/4/1975 bạn có nhớ mình đang làm gì, và khung cảnh, không khí
cũng như cảm giác tưng bừng hoa lá như thế nào ở Miền Bắc lúc đó. Đặc biệt khi
nghe báo tin trên đài cuộc chiến đấu thần thánh chống Mỹ đã cáo chung và Miền Bắc
đã hoàn toàn giải phóng Miền Nam từ đây anh em một nhà?
TNLT Hoàng Hưng
Hoàng Hưng: Tôi kể câu
chuyện khó tin này nhé! (Đã hơn một lần bộc lộ trên FB):
Một hai ngày gì đó
sau 30/4/1975, có cuộc mít tinh lớn chào mừng, ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Tất
nhiên tôi phải tham dự cùng với cả cơ quan mình làm việc (lúc đó tôi làm báo
Người Giáo viên nhân dân của Bộ Giáo dục). Ông Phạm Văn Đồng (thủ tướng) đọc diễn
văn khai mạc. Khi ông nhấn mạnh tuyên bố “cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước hoàn toàn thắng lợi” và ngưng lại cho mọi người vỗ tay như thường
lệ, thì… tất cả im phăng phắc. Ít giây sau chờ không thấy ai hưởng ứng, ông phải
tự mình “vỗ”, rồi mọi người mới bắt chước theo.
Trong lúc ấy, tôi tự
than thầm với mình: “Thế là chút hy vọng cuối cùng của Tự do cho VN đã tắt!”.
Hầu như năm nào, dịp
30/4 tôi cũng nhớ lại giây phút kỳ lạ, khó tin ấy!
Có lẽ chỉ có thể lý
giải: trong thẳm sâu lòng người Hà Nội lúc ấy đều chán ngán hết mức cuộc chiến
kéo dài quá lâu, đồng thời cũng mông lung một sự tiếc rẻ nào đó cho Sài Gòn – một
hình ảnh gần gũi với Hà Nội trước ngày “giải phóng” 1954??. Nghĩa là, một cách
vô thức, nhiều người thầm cảm giống như tôi thầm nghĩ một cách ý thức!
Tại sao tôi coi Sài
Gòn là “chút hy vọng cuối cùng của Tự do”? Nói thẳng, tôi không hề tin là miền
Nam có thể “Bắc tiến, giải phóng miền Bắc” như câu khẩu hiệu “tự sướng” của vài
nhà lãnh đạo miền Nam từng hô to! Nhất là sau khi Mỹ rút quân. Nhưng có lẽ… tôi
nghĩ đến một cách mơ hồ, tình trạng 2 miền, một khi chấm dứt chiến tranh theo Hội
nghị Paris, cứ “thi đua hoà bình”, giống như Nam-Bắc Triều, Tây-Đông Đức, thì đến
lúc nào đó, sẽ rõ rành rành “ai thắng ai” trên “mặt trận xây dựng kinh tế xã hội”!
Tất nhiên đó chỉ là ảo tưởng, khi một bên quyết “xẻ dọc Trường Sơn” và vẫn có
tiếp trùng trùng súng đạn của “phe ta”, bên kia thì nát bươm vì kẻ địch chui
sâu vào trong nội địa và cả… trong hàng ngũ, cả vì tự xâu xé, lại bị “phe ta”
good-bye!
Nguyễn Thị Thanh Bình: Với chính sách ngu dân, Việt Cộng đã mở những chiến dịch truy lùng truy
diệt và thiêu hủy toàn bộ sách vở sách báo của văn hóa, văn học Miền Nam. Họ
còn trâng tráo đến độ quy tội đó là thứ văn hóa nô dịch, đồi trụy, phản động.
Nghe nói học giả Vương Hồng Sển đã có lần viết thư năn nỉ họ và tuyên bố đòi được
chết theo sách, nếu toàn bộ sách quý trong thư phòng của ông bị đốt cháy. Bạn
nghĩ gì về “tội ác” cố tình diệt chủng nền văn minh văn hóa của MN này? Và giả
thử bạn cũng là nạn nhân của một tủ sách gia đình đáng quý, liệu bạn xử trí ra
sao lúc ấy? Còn nếu bạn đã lên tàu vượt biên hay di tản, thì thử hỏi cuốn sách
nào vào thời buổi đó được bạn vội vã trân quý mang theo? Tôi nghe nhà thơ Trần
Mộng Tú nói là chỉ kịp vác theo cuốn Truyện Kiều và Chinh Phụ Ngâm thì phải?
Hoàng Hưng: Với người Hà Nội gốc thì không mới lạ, vì đã từng chứng kiến cảnh ấy từ
năm 1954, khi Việt Minh vào tiếp quản thành phố (nhưng có lẽ ở một qui mô nhỏ
hơn, theo tôi nhớ thì chủ yếu là ở mấy trường trung học như Chu Văn An, Nguyễn
Trãi, nhằm “tẩy não” các học sinh lớn bị “nhiễm độc văn hoá đồi truỵ phản động”).
Riêng tôi, vào Sài
Gòn tháng 5 năm 1975, thì không được chứng kiến cảnh “đốt sách” nào. Ngược lại,
mừng như nắng hạn gặp mưa, khi suốt ngày được dạo trên phố Nguyễn Thị Nhu và
vài phố gần đấy, tha hồ xem và mua sách bán vỉa hè! Chợ trời sách khổng lồ chưa
từng thấy! Mua được cả đống sách mang về Bắc. Chắc đó cũng là câu chuyện của tất
cả trí thức, nhà văn Hà Nội vào Sài Gòn trong suốt mấy năm sau đó. Với tôi, có
3 loại sách quý đã hoàn chỉnh quá trình “giải độc ngược” (giải độc CS) mà tôi bắt
đầu có từ sau Đại hội XX Đảng CS Liên Xô với kho sách tiếng Pháp mà tôi đọc được
trong Thư viện Trung ương Hà Nội (kho sách này được Sứ quán Pháp bổ sung hằng
năm, nhà cầm quyền cho là rất ít người biết tiếng Pháp nên cứ mặc kệ tiếp nhận
để… tranh thủ được lòng kẻ thù cũ nhưng nay có thể giúp họ trên mặt trận ngoại
giao! Tôi đã đọc ở đó Docteur JIvago của Pasternak, nhiều tài liệu về phong
trào CS quốc tế của nhóm “xét lại” Đông Âu và Pháp…). Đó là: 1. Sách triết học
và khoa học xã hội nói chung (xin cảm ơn tủ sách Lê Thanh Hoàng Dân, và ông
Nguyễn Hiến Lê). 2. Sách Phật giáo (xin cảm ơn NXB Lá Bối). 3. Văn học Mỹ (đặc
biệt là các tác giả Henri Miller, W. Faulkner).
Có thể nói: chính
kho sách chợ trời Sài Gòn sau 1975 đã… góp phần “không nhỏ” để sau đó tôi mạnh
dạn kết giao với các đàn anh Nhân Văn-Giai Phẩm như Văn Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần,
Đặng Đình Hưng (vì càng đọc càng hiểu các anh hơn) và đó cũng là con đường… đưa
tôi vào… Trại!!!
Nguyễn Thị Thanh Bình: Cách đây khoảng hơn một năm, không chỉ trong giới cầm bút mà hầu như
đâu đâu cũng nghe người ta bàn tán về một thứ hội nghị gặp gỡ giao lưu kiểu hòa
hợp hòa giải dân tộc về văn học văn chương trong và ngoài nước, do chủ tịch Hữu
Thỉnh của Hội Nhà văn V.N chủ xướng gọi mời. Hẳn nhiên khi đụng phải phản ứng từ
chối thật mạnh mẽ của nhà văn “quân đội” Phan Nhật Nam, người ta cũng đâm ra muốn
đặt lại vai trò liệu nhà văn có thể lãnh nhận sứ mệnh to tát như thế để mở ra
những cuộc đại đoàn kết dân tộc? Thật tình hễ nghe người ta “khuyên bảo” về hai
chữ đoàn kết, tôi không biết có bao giờ họ muốn dang tay ra đoàn kết với người
dân… thật, hay chỉ cốt đoàn kết có tính cách cục bộ trong những đảng viên của Hội
Nhà Văn VN với nhau mà thôi? Và như thế bạn nghĩ có phương cách gì để những vết
thương được ngừng ung mủ, chảy máu? Thử hỏi làm sao để chúng ta có thể “giải
phóng” những uất ức của Ngày Quốc Hận 30/4, và sau 44 năm liệu ai mới thực sự
giải phóng ai?
Hoàng Hưng: Vụ HT và
“hội nghị hoà giải, hoà hợp văn chương” chỉ là một trò hề không đáng bàn.
Nhưng về nguyên tắc,
xin nói một lần cho xong: Không bao giờ có “hoà giải” giữa “bên thắng cuộc” và
“bên thua cuộc”!
Đơn giản lắm! Vì chỉ
có thể có chuyện ấy khi: “Bên thắng cuộc” tự nhận cuộc chiến tranh mà họ gây ra
để “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” là sai lầm! Tại sao sai lầm? Vì
như những dòng nhật ký của tôi đã chỉ rõ (Nhưng sẽ ra sao cái ngày mai ấy?): Cuộc
chiến huynh đệ ấy chỉ có thể biện minh nếu chế độ chính trị xã hội mà miền Bắc
muốn áp đặt cho miền Nam là ưu việt (tương tự chế độ của miền Bắc nước Mỹ so với
chế độ nô lệ của miền Nam trong nội chiến Mỹ). Rồi lại nhận là sai lầm khủng
khiếp khi mọi chính sách “cải tạo sau 1975” dẫn đến thảm kịch kinh tế lụn bại,
trại tập trung mọc khắp nước, hằng triệu thuyền nhân mất quê hương/ mất mạng
trên biển. Hoặc, ngược lại, “bên thua” chịu cúi đầu để được “bên thắng” bỏ qua
cái tội “tay sai đế quốc Mỹ”! Cả hai bên đều không thể. Nhất là đến bây giờ,
sau 44 năm, ngày càng rõ tanh bành, chế độ “thắng cuộc” là… lạc hậu, phản động,
mà chính nó đang… lặng lẽ và từ từ… đánh bài… chuồn (sang tư bản man rợ!).
Nếu nói “thống nhất
đất nước” là ý chí truyền thống của người Việt, thì cũng không thể chấp nhận
“thống nhất” với cái giá quá đắt: đưa cả nước vào con đường lạc hậu và từ đó lại
rơi vào bẫy của kẻ thù lâu đời, nguy hiểm nhất!
Chuyện “hoà giải”
càng khó vì bản tính “phe phái” và “chấp” của người Việt. Cứ xem ngay trong số
người ghét Cộng sản hiện nay, kể cả trí thức văn nghệ sĩ, vẫn có sự chia rẽ đến
nản lòng: giữa người Nam và người Bắc (rất đông người Nam cho rằng tất cả “người
Bắc” đều thuộc về “bên thắng cuộc” và phải chịu trách nhiệm về những đau thương
của “bên thua cuộc”); giữa những người luôn hô hào “chống Cộng quyết liệt”
(nhưng thực sự chưa biết “chống” cách nào ngoài cách luôn nhắc lại hận thù cũ +
chửi bới tất tật mọi thứ đang diễn ra trong nước) với những người muốn “thoát Cộng
bằng biện pháp chuyển hoá phi bạo lực”; giữa những nạn nhân của CS, hay những
người trước đây ít hoặc không dính gì đến CS, với những cựu CS nay “giác ngộ, hồi
chánh” (nhất là với số trí thức miền Nam xưa “nhảy núi” nay lại muốn “thoát Cộng”,
càng khó lắm lắm!)
Kinh nghiệm bản
thân: là một người không biết mình thuộc “bên” nào (hihi), vì sau 30/4/1975 thì
vào Sài Gòn với danh nghĩa “bên thắng” nhưng trong bụng thầm nghĩ mình “thua”,
rồi sau đó lại bị “bên thắng” tống giam cùng với “bên thua”, còn bây giờ thì được
coi là “đối tượng ngăn chặn”, cùng lúc lại… hẫng hụt trước những sự kỳ thị, hay
xầm xì nghi kỵ… mà mình phải nén lòng để không… quá rầu lòng!
Vậy: “Hoà giải” thì
không thể! Chỉ có khả năng “hoà hợp”:
- Trước mắt: Hoà hợp
trước tiên là giữa tất cả những người VN Tự Do trong-ngoài nước, bất kể quá khứ,
nay chung một mục tiêu kép: “thoát Trung, thoát Cộng”.
- Tương lai: người
Việt sẽ tự động “hoà hợp” sau vài thế hệ, khi mục tiêu trên đã hoàn thành, khi
con cháu của “Cộng sản” cũng như Cộng hoà lúc ấy đều là… nhà tư bản hoặc người
làm thuê, là trí thức hay doanh nhân độc lập (self-employed), chẳng còn ai nhớ
gì đến quá khứ lẫy lừng hoặc đau thương của cha ông trong cuộc nội chiến 20 năm
và “thống nhất” những năm sau đó!
Vậy thì: Nếu không
thay đổi được lịch sử, thôi thì ta cứ góp một hạt cát cho ngôi nhà tương lai của
người Việt, theo viễn cảnh được vẽ ra ở trên!
3/5/2019, ngày Tự
do Báo chí Quốc tế.
No comments:
Post a Comment