Nguyễn
Duy Vinh
Sat, 05/04/2013 - 09:43
Nhân
mấy hốm nay có nhiều bài viết về hiến pháp Việt Nam trên mạng, tôi cũng đọc và
sửa lại đôi chút bài viết này để xin phát biểu cái nhìn của mình. Tôi chỉ chú trọng đến những thay đổi cơ bản và đột ngột của các văn bản
hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 và tôi sẽ không bàn đến tính cách hợp hiến
hay không hợp hiến cũng như giá trị pháp lý của những văn bản nêu trên.
Trước tiên tôi cũng xin được phép nói qua về hai chữ
“hiến pháp”. Theo một số các chuyên gia về luật và các nhà soạn thảo hiến pháp,
hiến pháp của một quốc gia là một hợp đồng hay có thể gọi nôm na là giao kèo
giữa người dân và nhà cầm quyền. Giao kèo này quy định việc gì mỗi bên được làm
và không được làm, nhưng quan trọng hơn hết là giao kèo đó giới hạn quyền lực
của nhà cầm quyền trong khi quản lý việc nước. Nhìn trên phương diện ba quyền
biệt lập (tam quyền phân lập) theo cấu trúc của sự phân chia quyền lực minh
bạch ở những nước dân chủ Tây phương (những quyền hành pháp, lập pháp và tư
pháp), quốc hội là cơ quan lập pháp quy tụ toàn thể dân biểu đại diện dân có
quyền soạn thảo, sửa đổi và bổ sung hiến pháp. Tuy nhiên, ở đây phải nói ngay
là hiến pháp dù có hay cách mấy mà không được tôn trọng thì tính cách dân chủ
hay việc giới hạn quyền lực của nhà nước cũng bị lung lay.
Đi ngược dòng lịch sử, chúng ta biết rằng tư tưởng dân
chủ và các cố gắng nhằm xây dựng một hiến pháp dân chủ cho Việt Nam đã manh nha
từ những năm đầu của thế kỷ thứ 20 (xin đọc lại những tác phẩm của Phan Chu
Trinh, Phan Bội Châu v.v…) và những tư tưởng này đã từng là ngọn đuốc soi đường
cho nhiều đảng phái chính trị Việt Nam. Văn bản hiến pháp 1946 ra đời vào cuối
tháng 11 năm 1946 có thể coi là một điểm son trong quá trình xây dựng dân chủ ở
nước ta.
Hiến Pháp 1946 đã được xây dựng trên 3 nguyên tắc dân chủ
có thể cho là tiến bộ vào thời điểm đặc biệt của cuộc tranh đấu dành độc lập
của dân tộc Việt Nam : đoàn kết dân tộc, bảo đảm các quyền tự do căn bản và xây
dựng một nhà nước pháp trị. Bản hiến pháp này có đủ những điều khoản ghi rõ
quyền tự do bầu cử và ứng cử, quyền tư hữu của công dân và nhất là quyền phúc
quyết của người dân (trưng cầu dân ý) về văn bản hoặc bất cứ điều khoản nào của
hiến pháp. Văn bản 1946 ghi rõ các quyền : tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự
do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và
ngoài nước. Ngoài ra khi tòa án (tức là quyền tư pháp) chưa quyết định thì nhà
nước không được bắt bớ và giam cầm người dân. Nhà ở và thư tín của công dân
Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp lụât.
Tuy nhiên hiến pháp 1946 cũng có vài kẽ hở. Một trong
những kẽ hở quan trọng, theo các nhà chuyên soạn thảo luật, là Hiến Pháp 1946
đã không đề ra một cơ quan có thẩm quyền phán quyết về tính cách hợp hiến hay
bất hợp hiến của các đaọ luật hoặc những nghị quyết do nhà cầm quyền ban hành.
Kẽ hở thứ hai của hiến pháp 1946 là hiến pháp này có điều
khoản “chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm
tội phản quốc”. Điều khoản này đặt chủ tịch nước lên trên cả hiến pháp và hình
như có tính cách sửa soạn sự “lên ngôi” của một lãnh tụ đảng.
Và sự ra đời của hiến pháp 1959 của nước VNDCCH có thể
được xem như kết quả của một tư duy cộng sản vẫn từng nhen nhúm âm ỉ từ lâu
nhưng nay mới có cơ hội thành hình. Các từ ngữ như Đảng Cộng Sản Đông Dương,
Đảng Lao Động VN, đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ v.v… đã đột ngột xuất hiện trong
hiến pháp 1959. Và hiến pháp 1946 hoàn toàn không còn dấu tích trong văn bản
hiến pháp 1959.
Xin chép lại dưới đây một phần của văn bản 1959:
“Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương, ngày nay là Đảng Lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một
giai đoạn mới. Cuộc đấu tranh bền bỉ đầy gian khổ và hy sinh dũng cảm của nhân
dân ta chống ách thống trị của đế quốc và phong kiến đã giành được thắng lợi vĩ
đại… Nhưng đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức lại gây chiến tranh xâm lược
hòng cướp nước ta và bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần nữa. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, toàn thể nhân dân ta đoàn kết một lòng đứng lên đánh giặc cứu nước…
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong
Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhất định sẽ giành được thắng lợi vẻ vang trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà”…
Rồi việc gì đến sẽ đến, sau năm 1979, tức là sau cuộc
xung đột đẫm máu giữa Việt Nam và Trung Quốc, ĐCSVN đã cho ra đời hiến pháp
1980 với những lời nhập đề hoàn toàn mới.
Xin chép lại đây một đoạn của lời mở đầu :
…“Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đi con đường của Cách mạng
tháng Mười Nga, nhân dân ta đã lần lượt chiến thắng bọn đế quốc Nhật, Pháp, Mỹ
và bè lũ tay sai của chúng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân…
nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay
sai của chúng ở Campuchia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và
dân ta đã giành thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
chống bọn phản động Campuchia ở biên giới Tây-Nam và chống bọn bá quyền Trung
Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của mình….”….
Năm 1986, Tổng Bí Thư (TBT)
ĐCSVN Lê Duẩn qua đời. Cùng năm đó đại hội 6 của ĐCSVN bầu ông Nguyễn Văn Linh
làm TBT. Ông Nguyễn Văn Linh là một thành viên kỳ cựu của chi nhánh Nam Bộ của
ĐCSVN. Ông Linh đã từng bí mật sang Trung Quốc (TQ) gặp gỡ Chu Ân Lai và Mao Trạch
Đông trong thời kỳ chiến tranh Nam Bắc VN trước 1975. Từ năm 1986 ông Linh đã
có những cuộc gặp gỡ với đại sứ TQ ở VN tại Hà Nội (Đại Sứ Trương Đức Duy) ngay
sau khi lên chức TBT. Những cuộc gặp gỡ này không
ngoài mục đích sửa soạn cho một cuộc gặp gỡ bí mật giữa ông Nguyễn Văn Linh và
TBT ĐCSTQ là ông Giang Trạch Dân vào năm 1991 tại Thành Đô (Tứ Xuyên, TQ). Một
năm sau cuộc gặp gỡ ở Thành Đô, TBT mới của VN (thay ông Linh) là ông Đỗ Mười
và ông chủ tịch nước Võ Văn Kiệt chính thức công du Trung Quốc.
Hiến pháp 1992 ra đời ngay sau
chuyến công du này và từ nay các từ ngữ ám chỉ đến bọn bá quyền TQ đã được hoàn
toàn lấy đi :
…“Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện… nhân dân các dân tộc nước ta đã liên tục chiến
đấu, với sự giúp đỡ quí báu của bè bạn trên thế giới, nhất là các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước láng giềng, lập nên những chiến công oanh liệt, đặc biệt
là chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh thắng hai
cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân và đế quốc, giải phóng đất nước, thống
nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân”…..
Tháng 2 năm
1999, lãnh tụ hai nước VN và TQ công bố một tuyên cáo chung xác định mối giao
hảo mới giữa TQ và VN trong đó 16 chữ vàng xuất hiện. Từ nay hai nước sẽ có một mối quan hệ mới có
tính cách “ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu
nghị, và hợp tác toàn diện”.
Những sự kiện xảy ra gần đây, từ việc lấn áp của TQ trong
việc chia cắt biên giới Việt Trung, cho đến những cuộc xâm lấn biển đảo Hoàng
Sa và Trường Sa cho thấy người bạn láng giềng phương Bắc không phải là một
người bạn tốt. Mộng bành trướng của đế quốc TQ là một hiện thực.
Sự rụt rè và thiếu cứng rắn trong
việc chống đối những thao túng của TQ ở biển Đông hiện nay của nhà cầm quyền VN
cho thấy có điều gì không ổn và vô cùng bí ẩn. Đó là chưa kể việc
cấm dân không được biểu tình chống đối TQ cũng như việc dùng công an và côn đồ
xã hội đen đàn áp những người tham dự các cuộc xuống đường này. Về phía Bắc VN,
những bia mộ tưởng niệm những chiến tích của quân đội VN sau trận chiến đẫm máu
với TQ năm 1979 cũng dần dà bị nhà nước VN xóa đi.
Bản
báo cáo hàng năm của cơ quan Human Rights Watch năm 2012 (World Report 2012) về
Việt Nam (VN) ghi nhận rõ ràng nhà nước VN có sách nhiễu và khủng bố những
người lên tiếng kêu gọi dân chủ và nhân quyền cũng như những người xuống đường
chống việc xâm chiếm biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa VN bởi TQ :
…..Chính phủ Việt Nam đàn
áp một cách có hệ thống các quyền tự do ngôn luận, lập hội và nhóm họp ôn hòa.
Các nhà văn, blogger và các nhà vận động nhân quyền độc lập – những người lên
tiếng chất vấn chính sách nhà nước, phát hiện quan chức tham nhũng hoặc kêu gọi
thay đổi chế độ độc đảng bằng các giải pháp dân chủ thường xuyên bị công an
sách nhiễu, theo dõi gắt gao, bị giam giữ biệt lập trong thời gian dài đồng
thời không được tiếp cận với các nguồn trợ giúp pháp lý, và bị xử với các mức
án ngày càng nặng hơn với các tội danh mơ hồ về xâm phạm an ninh quốc gia. Công
an thường tra tấn can phạm để ép nhận tội và, trong một số vụ việc, đã sử dụng
vũ lực quá mức khi đối phó với những cuộc biểu tình đông người phản đối việc
cưỡng chiếm nơi ở, thu hồi đất đai hay bạo hành của công an. Các cuộc biểu tình
phản đối Trung Quốc ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2011 (LTS : và
gần đây nhất ngày 01 tháng 07 năm 2012) bị công an giải tán, những người tham
gia biểu tình bị đe dọa, sách nhiễu, và một số trường hợp bị tạm giam trong một
vài ngày. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 11 tổ chức vào tháng giêng năm
2011 và cuộc bầu cử Quốc Hội do nhà nước dàn dựng vào tháng Năm đã xác lập các
vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chính phủ trong năm năm tiếp theo. Qua cả
hai sự kiện nói trên, không hề thấy có dấu hiệu của bất kỳ một sự cam kết
nghiêm túc nào nhằm cải thiện thành tích nhân quyền kém cỏi của Việt Nam. Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của mình vào tháng Bảy, với sự
ủng hộ mạnh mẽ của Bộ Công an và những nhân tố bảo thủ khác.
Chỉ cần một đoạn văn ngắn của cơ quan Human Rights Watch
cho năm 2012 cũng đủ để nói lên một chuỗi liên tục những ngày sống trong kềm
kẹp và sợ hãi của người dân trong nước. Một bất hạnh lớn cho cả một dân tộc.
Sự thao túng độc quyền về cách cai trị cũng như những đàn
áp đầy bạo lực gần đây nhất với các vụ cưỡng chế đất đai cho thấy Tự Do – Độc
Lập – Hạnh Phúc là những khát vọng vẫn còn rất xa vời.
Khảo sát sự thay đổi đột ngột của những văn bản hiến pháp
VN từ năm 1946, chúng ta có thể kết luận hiến pháp Việt Nam hiện nay tùy thuộc
rất nhiều vào hoàn cảnh chính trị có tính cách nhất thời. Sự thay đổi xoành
xoạch này cho thấy hiến pháp Việt Nam là một giao kèo lỏng lẻo và hời hợt. Thêm
vào đó, cách quản lý độc đoán với một nền cai trị pháp quyền dưới sự kiểm soát
của nhà nước hiện nay trong nước chắc chắn sẽ đưa đến những cuộc khủng hoảng xã
hội trầm trọng hơn trong tương lai.
Và nếu chúng ta đọc kỹ bài phát biểu của Tổng Bí Thư
Nguyễn Phú Trọng (TBT NPT), đọc trước hội nghị của Ban Chấp Hành Trung Ương
Đảng ngày 02 tháng 05 năm 2013 tại Hà Nội, chúng ta có thể tiên đoán rằng những
thay đổi sắp đến của Hiến Pháp 1992, nếu có, như nhà nước vẫn đang kêu gọi dân
chúng đóng góp vào Dự Thảo sửa đổi hiến pháp 1992, sẽ chỉ đi vào những chi tiết
nhỏ thôi. Phần quan trọng nhất mà đa số các nhà trí thức trong và ngoài nước
kêu gọi (tỉ dụ Kiến Nghị 72), cũng như đa số các hội đoàn tôn giáo đạo Ky Tô và
đạo Phật trong và ngoài nước kêu gọi, sẽ không được nhà nước coi trọng và bàn
đến.
Tôi xin chép lại một phần của bài phát biểu của ông TBT NPT dưới đây để
chứng minh cho điều tôi vừa viết :
Nhà nước ta, tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nòng cốt là liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Tiếp tục kế thừa những quy định của
Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ
sung những vấn đề thực sự cần thiết, đã rõ, được thực tiễn kiểm nghiệm và có sự
thống nhất cao. Đối với những vấn đề mới hoặc còn nhiều ý kiến khác nhau,
Trung ương cần xem xét, trao đổi thật kỹ để có phương án tiếp thu, giải
trình phù hợp.
Những ai còn mơ về một cơ chế chính trị đa nguyên đa
đảng, trong đó không có chỉ một đảng cai trị như ở Việt Nam hiện nay, xin cứ
tiếp tục mơ. Vì lấy đi “Điều 4 của Hiến Pháp 1992” sẽ không được đảng cầm quyền
ở Việt Nam hiện nay chấp nhận.
Dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992 của nhà nước Việt Nam nghe
thì kêu to nhưng trong ruột thực ra trống rỗng. Ai không tin chỉ việc đọc lại
lời phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng trước hội nghị trung ương ĐCSVN khóa 7
tại Hà Nội.
Nguyễn Duy Vinh
(TS Cơ Khí Động Học về hưu và đang dạy học tại Châu Phi)
-------------------------------------------
Đoan
Trang 29-4-2013
No comments:
Post a Comment