Thứ Năm, 24/01/2013
Văn Cao
Âm nhạc sang trọng bậc nhất nước Việt của
ông còn sống mãi. Những bài hát rất hay, rất quý phái cao sang đầy chất thánh
ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một cứu cánh góp
phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có cơ bị diệt vong bởi chính sự
băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi thường
nhật trìu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông: ANH
VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc.
Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn thiêng liêng,
cao cả này mà thôi...
*
“Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một
ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con
diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi
la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong
những thân phận riêng tư...” - Trịnh
Công Sơn.
Năm 2013 này là năm kỷ niệm 90 năm ngày
sinh của thiên tài văn nghệ Văn Cao - người đã tự lưu đầy mình vào vĩnh cửu
bằng ba tài năng lớn: hội họa, thi ca và âm nhạc. Văn Cao nhà cải cách tiền
phong cả ba nghệ thuật: hội họa, âm nhạc và thi ca. Bài này chỉ nói về kiếp
nhạc của Văn Cao.
Không đợi khi xuân đến, tết về như dịp này,
chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ: “Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi
viết cuối tháng 12-1975, hoàn thành trong dịp tết Bính Thìn năm 1976.
Đây là bài hát có số phận đặc biệt nhất
trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát mang nhiều tâm trạng
đối lập, hòa trộn nước với lửa: vui ít, buồn nhiều, mừng ít, tủi nhiều, hoan ca
ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng khuâng ít, đau đáu nhiều,
tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều, cứng cỏi ít, run run nhiều,
da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum họp ít, cô đơn nhiều, yêu
thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều...
Hầu như tất cả các trạng thái tình cảm trái
ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này: ai vui hát lên thì
nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên thấy một trời
đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang đồng cảm cùng
mình…
Nghe đi nghe lại bản nhạc này, ta thấy xuất
hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt.
Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc “Mùa xuân đầu
tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình.
Riêng lời bài hát đã là một bài thơ hay:
“Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng cho bao tâm hồn.
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh.
ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.
ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người.
Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về.
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.”
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng cho bao tâm hồn.
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh.
ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.
ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người.
Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về.
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.”
Rất nhiều chim én, nhiều nắng gió, có nước
mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm... nhưng sao hình ảnh “khói
bay trên sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần làm không gian
của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ thờ thế, xao xác thế, hoang vắng thế,
hiu quạnh thế, đơn độc có phần cô đơn thế? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu quê hương
của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao nay, một
khói sóng trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết: “một trưa nắng thôi
hôm nay mênh mông”:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!)
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!)
Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời con nai vàng
ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui não nùng
Văn Cao nay: “Tiếng gà trưa xao xác não nùng”.
Bài hát như một điệu valse bằng nước mắt;
sự thướt tha, quý phái của một giai điệu bi thương; sự sang trọng của ngậm
ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm của một vu vơ;
sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự dịu
dàng của nỗi thương đau, xót nhớ...
Chừng như đã mấy chục năm chiến tranh liên
miên chưa từng có xuân về? Chừng như gần hết cả đời người bận chuyện đấu tranh
giai cấp giành giật miếng ăn chưa từng thấy chim én báo xuân? Chừng như đã rất
lâu rồi sự căm thù trùm lên xã hội không còn ai biết thương người? Chừng như đã
lâu lắm rồi ta tha hương trên chính quê hương mình? Chừng như suốt mấy cuộc
chém giết kinh hoàng mạo danh cách mạng, không còn ai biết yêu con người? Chừng
như mấy mươi năm rồi con người đã quên mình còn nước mắt? Chừng như lâu rồi tâm
hồn người không được sưởi nắng mùa xuân?
Và chừng như lâu lắm rồi Văn Cao quên không
còn nhớ mình từng là nhạc sĩ lãng mạn đã có cả chục ca khúc vào hàng kiệt tác?
Chừng như cây đàn piano cũ kỹ do Hội nhạc sĩ Việt Nam cho Văn Cao thuê mỗi
tháng 07 đồng, (thuê căn gác chật hẹp cũ kỹ 108 Yết Kiêu 15 đồng) đã bị thời
gian phủ bụi đầy rêu mốc? Chừng như đôi tai Văn Cao đã bị súng đạn thời cuộc,
sự hò hét xướng ca hò vè phục vụ chính trị một thời làm ù đặc, khi tất cả các
kiệt tác âm nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa (Miền Bắc) cấm
hát, trừ bài quốc ca (kể cả thơ Văn Cao cũng bị cấm)?
Và chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời
Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây
đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt mở miệng
ca hát: “Mùa xuân đầu tiên”
Chừng như nỗi niềm ngày 30 tháng tư năm
1975: “có một triệu người Việt Nam vui thì cũng có một triệu người Việt Nam
buồn” (lời ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát: “Mùa
xuân đầu tiên” của Văn Cao? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một
nửa nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào
nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười
khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt
thế, nức nở nghẹn ngào thế?
Có lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt tác
“Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao sau khi được báo “Sài Gòn giải phóng”
in trước tết Bính Thìn: 01-01-1976, được hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy
lần liền bị cấm suốt 24 năm (1976-2000). Sinh thời, Văn Cao không được nghe,
được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của mình được trình diễn. Sau khi
ông mất (1995) 05 năm, “Mùa xuân đầu tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt
của chế độ.
Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ
Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài
hát này:
“Sau khi bài "Tiến về Hà Nội" ra
đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã
thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa... Nhưng rồi những năm tháng sau
này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được
dàn dựng...
Tôi còn lưu giữ được một số tác phẩm của
ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói. Giá như ông không bị rơi
vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hoá” mất 30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ
còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc Việt Nam.
Những ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà
Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng
rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu tràn đầy và có cả những
khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”.
Văn Cao đã sáng tác xong ca khúc MÙA XUÂN
ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn.” - Trích bài “Văn Cao với ca
khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Thao in trên “Tạp chí Sông Hương”
số 179-180
Văn Thao tiết lộ tiếp rằng, bài hát bị cấm
ở Việt Nam nhưng bên nước Liên Xô người ta lại dịch sang tiếng Nga, phát trên
Đài phát thanh Matxcova:
“Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng
con đường nào), trong cái năm 1976 ấy MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga
và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ
quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: “Con
cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác
phẩm nào đâu.””
Qua tiết lộ trên của anh Văn Thao, con
trưởng nhạc sĩ thì nhà ông Văn Cao trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu suốt một thời
luôn luôn có công an ngầm canh gác, ai đến đều “bị vỗ vai” hỏi tên tuổi,
xem đến nhà tên phản động “Nhân Văn” làm gì? Người viết bài này sau năm
1975 có lần đến thăm nhạc sĩ Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu thuyết vĩ đại: “Giờ
thứ 25” của văn hào Romania Constantin Virgil Gheorghiu (1916-1992) mang ra
từ Sài Gòn như đã hứa, cũng đã từng bị công an mật “vỗ vai” hỏi đi đâu?
Bèn bảo: đi phỏng vấn tác giả “Quốc ca” viết bài in báo cũng bị cấm à? Người “vỗ
vai” hất đầu cộc lộc: “Vào đi”.
Người ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù nhân
lương tâm bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã hội chủ
nghĩa. Rằng Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30 năm vì tội Nhân Văn - Giai Phẩm.
Rằng suốt 30 năm ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất nghèo khổ, “bố có được biết
đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu”.
Chúng ta lại được nghe người con trai thứ
của nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể sơ qua về sự ra đời của “Mùa
xuân đầu tiên”:
“Đó là một đêm vào giữa tháng 12-1975.
Chúng tôi đang sống với cha mẹ trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa đông Hà Nội
rét tê tái. Cha tôi đã từ lâu rồi không đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có
tiếng chân nhè nhẹ lần từng bước từ phòng trong ra gần chiếc đàn piano - đối
diện với chiếc đivăng tôi đang ngủ.
Một giai điệu khe khẽ vang lên, nó được đàn
bởi một bàn tay phải. Cũng phải nói thêm là cha tôi đã đàn trên chiếc đàn vốn
được Hội Nhạc sĩ VN cho thuê lại với giá 7 đồng rưỡi một tháng (lương tôi hồi
đó là 63 đồng, còn tiền thuê nhà là 15 đồng); từ ngày kỷ niệm 30 năm Tiến quân
ca (1974), chiếc đàn mới được tặng hẳn cho cha tôi thì cha lại rất ít có dịp
dùng đến.
Bài hát đã được báo Sài Gòn Giải Phóng số
năm mới 1-1-1976 in trang trọng ở bìa 4 và thu thanh ngay sau đó, được phát
trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, nếu tôi không nhầm thì do ca sĩ Trần Khánh và
đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam trình bày. Bài hát được phát khoảng mươi
lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu qua sóng phát
thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng.
Như mọi lần, trong suốt mấy chục năm, cha
không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi nói chắc chắn bài hát sẽ có
ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như mọi lần, cha tôi lại đúng. Chỉ
có điều lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài hát lần đầu tiên được phát trên
sóng truyền hình Việt Nam năm 2000, cha tôi đã mất được năm năm.” - Nhà thơ NGHIÊM
BẰNG - THU HÀ ghi
Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong tác phẩm “Đêm
giữa ban ngày”, kể lại lời Văn Cao nói với ông về Tố Hữu hay Trường Chính
chủ trương đánh “Nhân Văn”, kể lại chuyện ông lãnh tụ Trường Chinh cho
gọi Nguyễn Tuân và Văn Cao lên cảnh cáo sau vụ “Nhân Văn – Giai Phẩm”
< *1 *> (xem thú thích dưới bài)
Xuân Diệu đấu tố Văn Cao là trùm phản động,
là đầu sỏ chống cộng < *2*> (xem chú thích cuối bài)
Với tất cả tội trạng tày trời do Xuân Diệu
đấu tố Văn Cao công khai trên báo chí, tội của Văn Cao có khi còn to hơn tội
của bà nhà văn Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang (cùng bị án 15 năm tù giam, 05
năm quản thúc vì hai người này bị cho là đầu sỏ gây ra vụ án chống đảng “Nhân
văn – giai phẩm”). Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt gông vì ông chính là tác giả
Quốc ca.
Ngay sau vụ “Nhân Văn”, nhà nước
cộng sản tính lấy một bài hát “Cách mạng tiến quân” của Đỗ Nhuận làm bài
quốc ca, thay bài “Tiến quân ca” của Văn Cao nhưng việc không thành. Mấy
năm sau, năm 1981 nhà nước mở cuộc thi quốc ca trong suốt hai năm, quyết thay
bài hát của tên phản động đang bất đắc dĩ dùng làm quốc ca; nhưng mấy trăm bài
dự thi thay đổi quốc ca, không bài nào được chọn (vì quá tẻ nhạt) để thay thế
bài ca lịch sử của Văn Cao.
Nếu không có bài quốc ca che chắn, có lẽ
Văn Cao có thể đã chết trong tù Cộng sản? Một Văn Cao mềm mỏng, nồng nàn, say
đắm, lãng mạn tận cùng (với các ca khúc bất diệt: “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”,
“Bến xuân”, “Trương Chi”, “Thiên Thai”...) trong một Văn Cao tỉnh bơ, quyết
liệt, lạnh băng, thần kinh thép, thậm chí dữ dằn, sắt máu: “thề ăn gan uống
máu quân thù”... “đường ta đi xây xác quân thù”... đến cùng tận khi một
mình một xe đạp, đến tiệm hút thuốc phiện ở Hải Phòng, dương khẩu súng lục số
7165 của tổ chức (do Nguyễn Đình Thi trao) nhắm thẳng vào đầu Đỗ Đức Phin (bị
Việt Minh cho là tay sai của Nhật) tuyên án từng lời đanh thép: tao bắn mày vì
mày là Việt gian tay sai giặc Nhật! Đoạn, Văn Cao bóp cò súng cái đoàng, đầu Đỗ
Đức Phin nức toác, tóe máu; rồi ông thủng thẳng nhét súng vào thắt lưng, đủng
đỉnh đạp xe đi như đang dạo mát...
Sau này, cả cuộc đời còn lại, Văn Cao vô
cùng ân hận vì đã bắn chết một con người là Đỗ Đức Phin. Đến nỗi, sự sám hối
quằn quại khôn xiết này đã khiến ông không còn dám gõ lên piano những giai điệu
lãng mạn tuyệt đẹp thuở ban đầu kiểu “Suối mơ”, “Bến xuân”... nữa; vì
ông có cảm giác tay mình còn nhuốm máu đồng loại. Thế mà, có những kẻ vô lương
tâm, can dự vào việc giết chết hàng chục triệu đồng bào vô tội của mình mà vẫn
vênh mặt tự hào, chẳng một chút ăn năn sám hối!
Nghe nói Văn Cao còn bắn sẩy (bắn hụt) hai
mật thám Nhật tại Hà Nội là Cung Đình Vạn và Võ Văn Cẩm (không biết có phải vì
ông căm thù quân Nhật từng giết bố vợ mình là cụ Nghiêm Xuân Huyến - một chủ
báo, chủ xuất bản lớn Hà Nội từng bị Nhật thủ tiêu trong tù?). Một con người
như thế không dễ gì thỏa hiệp, đầu hàng, thà chết cho điều mình tin yêu hơn là
phải sống như một chiếc bóng trong suốt hơn ba mươi năm bị giam lỏng trong án
tù thả rông: “Nhân văn - Giai phẩm”...
Có lần, Văn Cao kể cho người viết bài này
(trong một bàn rượu đơn sơ “cuốc lủi”, lạc rang, đậu phụ mắm tôm, với
bạn tâm giao: nhà văn Mạc Phi, nhà văn Sơn Tùng...) rằng: “Sau vụ Nhân Văn,
anh em “chống đảng” chúng tôi, ngoài mấy người bị án tù 15 năm, tất cả đều bị
đi cải tạo lao động trên Tây Bắc. Trong chặng đường đi đày trên tàu hỏa, dù tôi
đang đau dạ dày nặng sắp chết vẫn bị điệu đi, mấy lần tôi đã toan nhảy xuống
đường tự tử khi tàu chạy, nhưng hình bóng đàn con lóe lên trong đầu như ánh
chớp, hình bóng bà Băng (bà Nghiêm Thúy Băng – phu nhân nhạc sĩ) còng lưng nuôi
đàn con bơ vơ mất bố, tôi liền bỏ ý định tự sát để tiếp tục sống hèn mà trở về
nuôi con...”
Có lẽ men “cuốc lủi” làm Văn Cao cảm
động, tay ông run run, kể tiếp: “Thảm nhất là khi ở nơi cải tạo lao động,
đến bữa ăn, cứ thấy mình ngồi bàn nào là anh em (cùng bị đi đày lao động) lại
tìm sang bàn khác ngồi, không ai chịu ngồi cùng bàn ăn với kẻ đầu sỏ Nhân Văn,
đến nỗi chị nuôi trại đi đày phải xẻ một suất cơm ôi cá thối cho tôi ngồi một
mình một bóng mà ăn cho khỏi chết đói chứ nào có ngon lành gì...”
Ngày 30 tháng tư 1975, ngày kết thúc 30 năm
chiến tranh, theo mấy người con và mấy người bạn thân của nhạc sĩ kể lại, Văn Cao
im lặng không nói gì, không reo mừng hò hét vỗ tay vỗ chân rầm rập trong hàng
nghìn ca khúc khẩu hiệu điếc tai như phần lớn đồng nghiệp đã hét. Có lẽ, ông
nghĩ rằng, nhờ chiến thắng này mà có thể thân phận “tù tại ngoại” của
ông cũng sẽ được giải phóng, thoát án giam lỏng nhân văn chăng?
Dồn nén khát vọng tự do mấy chục năm, dồn nén khát vọng
hòa bình mấy chục năm, dồn nén khát vọng mùa xuân mấy chục năm, dồn nén khát
vọng thoát khỏi “nhà giam tư nhân” mấy chục năm, dồn nén khổ đau buồn
hận mấy chục năm, dồn nén oan ức bị chà đạp mấy chục năm, chợt một sáng cuối
đông, đầu xuân năm 1976, vỡ òa cảm xúc, vỡ òa nước mắt nhỏ giọt yêu thương, nhỏ
giọt mật đắng nghẹn ngào lên từng phím đàn thành giai điệu Văn Cao “Mùa xuân
đầu tiên” chăng?
Thành ra, “Mùa xuân đầu tiên” chính
là lời reo vui của đắng cay, niềm rưng rưng kiếp nạn giải thoát, nỗi hoan ca
ngục tù gặp nắng gió mênh mông...?
Xin xem thêm tài liệu tổng kết vụ án “Nhân
Văn - Giai Phẩm” (NVGP) của đại tá công an A 25 Thái Kế Toại đã in công
khai trên rất nhiều trang mạng, để thấy thân phận của Văn Cao suốt ba mươi năm
dưới chế độ “ưu việt gấp triệu lần tư bản” thê thảm là dường nào < *3 *>
(xem chú thích cuối bài)
Qua lời tự thú của vị đại tá công an phụ
trách theo dõi văn hóa văn nghệ trên, ta thấy số phận kẻ trọng tội NVGP bị lưu
đày trong chính căn phòng mình, trên chính quê hương mình của Văn Cao và các
bạn hữu NVGP của ông hầu như đã bị tước quyền công dân, tước hết quyền sáng tạo
nghệ thuật, bị “giam tại nhà”, bị đấu tố, bị làm nhục, bị cải tạo lao
động hà khắc; không khác mấy so với những kẻ thua trận Việt Nam cộng hòa bị tù
tội trong danh phận học tập cải tạo sau năm 1975...
Không thấu hiểu hoàn cảnh sống bị chà đạp,
bị lăng nhục, vùi dập, bị đói khổ, bị mất hết tự do nơi Văn Cao suốt ba mươi năm,
chúng ta sẽ không cảm nhận được hết nỗi vui của người tù vừa tìm thấy một khe
hở gió nắng, được vụt lóe với khói trên sông, với tiếng gà trưa hiu quạnh trong
nỗi đau nghẹn ngào “Mùa xuân đầu tiên” này...
Chính nỗi đau buồn kia đã đẩy Văn Cao tới
chân tường của cô đơn, lưu đày ông vào ly rượu và khói thuốc. Chứng nghiện rượu
đã giúp Văn Cao phần nào quên đi thực tại thê thảm, giúp ông có nghị lực để
sống qua thời thương khó. Nhiều đêm, không ngủ được, thức khuya để tìm ảo giác
trong men rượu, thấy bóng mình in trên tường, Văn Cao chợt rùng mình hoảng sợ,
ngỡ là công an mật nửa đêm xuyên tường đến hỏi cung ông, suýt nữa làm ông co
cẳng ù té chạy...
Suốt một đời Văn Cao không chạy thoát khỏi
bóng mình, không thoát khỏi kiếp lưu đầy thiên bẩm của một nghệ sĩ lớn mà thời
đại dường như không đủ chỗ cho mình tỏa bóng. Đành thu bóng lại như con mèo
nghệ thuật nằm cuộn tròn trong đống tro tàn cải tạo tại gia mà ăn năn hối cải
về tội chống đảng của mình.
Đâu rồi chàng trai Văn Cao yêu đời, yêu
người, tự do tự tại, thanh bình, phiêu lãng miền thiên giới, thần tiên sống lẫn
con người, lãng mạn tới tận cùng chân trời góc bể trong những ca khúc tiền
chiến tuyệt tác? Xin cùng nghe lại bản nhạc đầu tay tuyệt diệu của trang thiếu
niên 16 tuổi, và xem lại lời của ca từ “Buồn tàn thu”:
Ai lướt đi ngoài sương gió,
Không dừng chân đến em bẽ bàng,
Ôi vừa thoáng nghe em mơ ngay bước chân chàng,
Từ từ xa đường vắng.
Đêm mùa thu chết, nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng.
Em ngồi đan áo lòng buồn vương vấn, em thương nhớ chàng.
Người ơi còn biết em nhớ mong,
Tình xưa còn đó xa xôi lòng.
Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên
Chim với gió bay về, chàng quên hết lời thề.
Áo đan hết rồi, cố quên dáng người,
Chàng ngày nào tìm đến?
Còn nhớ đêm xưa kề má say sưa
Nhưng năm tháng qua dần, mùa thu chết bao lần.
Thôi tình em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá vàng.
Không dừng chân đến em bẽ bàng,
Ôi vừa thoáng nghe em mơ ngay bước chân chàng,
Từ từ xa đường vắng.
Đêm mùa thu chết, nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng.
Em ngồi đan áo lòng buồn vương vấn, em thương nhớ chàng.
Người ơi còn biết em nhớ mong,
Tình xưa còn đó xa xôi lòng.
Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên
Chim với gió bay về, chàng quên hết lời thề.
Áo đan hết rồi, cố quên dáng người,
Chàng ngày nào tìm đến?
Còn nhớ đêm xưa kề má say sưa
Nhưng năm tháng qua dần, mùa thu chết bao lần.
Thôi tình em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá vàng.
“Buồn tàn thu” một nỗi buồn đẹp, trong veo dù tình em tưởng “chết
rơi theo lá vàng”. Cái buồn của tình yêu “em thương nhớ chàng” Văn
Cao kết hợp hồn nhạc ngũ cung với chất khải huyền Thánh ca Thiên Chúa giáo rất
cổ thi; như người chinh phụ nhớ chinh phu “Chinh phụ ngâm” Đặng Trần Côn
- Đoàn Thị Điểm, như thần thiếp nhớ quân vương “Cung oán ngâm khúc”
Nguyễn Gia Thiều, Kiều nhớ Thúc Sinh trong mùa thu chết “Rừng phong thu đã
nhuốm màu quan san” Nguyễn Du thuở lục bát “người lên ngựa, kẻ chia bào”
của “bụi hồng dặm cuốn chinh an”...
Cái buồn của con người gặp cái buồn của
trời đất, rất “mang mang thiên cổ sầu” Văn Cao. Chàng thiếu niên 16 tuổi
đã ký thác đời mình trong vàng thu lá chết, lấy lá vàng mùa thu làm chiếc diều
của của nghệ thuật muôn đời siêu thoát. Chàng tự lưu đày mình vào mùa thu một
cách tự nguyện. Chàng chết đuối theo vàng thu chìm nghỉm để bất tử trong giai
điệu du dương, sang trọng, như danh họa Nga gốc Do Thái Levitan phó linh hồn
cho mùa thu Nga vĩnh cửu sơn dầu...
Ngay từ 16 tuổi, bằng sự lãng mạn tận cùng
qua “Buồn tàn thu”, Văn Cao đã sung sướng được đắm chìm vào vương quốc
Cái - Đẹp. Chàng dùng nỗi buồn làm rượu, làm lương thực hằng sống nuôi dưỡng
những giai điệu du dương lãng mạn đẹp nhất của nền tân nhạc Việt Nam thuở ban
đầu trong năm kiệt tác vô song: “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”, “Bến xuân”
(lời Phạm Duy) “Trương Chi” và “Thiên Thai”...
Dường như năm bản nhạc lãng mạn trên là năm
bản thánh ca của tâm hồn con người, đưa ta thoát mọi phàm tục để được thánh
hóa, được thăng hoa tới muôn vàn mê đắm, thoát khỏi hận thù mà bất tử với
thương yêu? Bản tình ca của nỗi buồn, của Cái - Đẹp ban sơ được hát lên cùng
thiên giới thiêng liêng niềm hoài niệm trần thế; nơi suối nguồn róc rách mê ly
chảy ra từ năm dòng kẻ nhạc Văn Cao, theo giai điệu thiên thần réo rắt thanh
tao kia mà rót vào hồn ta hơi thở đất trời, rót vào tai ta chất men say của
niềm ham sống, của tin yêu và hoài vọng. Âm nhạc Văn Cao nâng cánh con người
bay lên cõi đẹp, cõi mê, cõi thần tiên, cõi hằng sống là vì thế chăng?
Chừng như Văn Cao đã ngầm ký gửi thân phận
mình vào hai ca khúc lãng mạn một cách siêu nhiên có phần kỳ bí, huyền nhiệm: “Thiên
thai” và “Trương Chi”, vừa mang phong cách cao sang, nền nã, cổ điển
của nghệ thuật Apollon - thần ánh sáng và thi ca, vừa mang phong cách ma mị,
xuất thần, cuồng si của nghệ thuật Dionysos - thần rượu nho (theo quan niệm về
bi kịch Hy Lạp của Nietzsche)?
Văn Cao, ngay từ độ đôi mươi, đã tự đày ải
mình lên miền thiên giới trong đại kiệt tác “Thiên Thai”. Cuộc nhập “Thiên
Thai” ấy không chỉ có hai chàng Lưu Nguyễn mà thực ra đã có ba chàng: người
tham gia khí muộn vụ thiên hành lên cõi tiên ấy chính là Văn Cao:
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
Kià đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên
theo gió tiếng đàn xao xuyến
Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
Kià đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên
theo gió tiếng đàn xao xuyến
Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền
Âm ba thoáng rung cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ Đào Nguyên
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ Đào Nguyên
Thiên Thai chốn đây Hoa Xuân chưa gặp Bướm
trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn
Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quyên
đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn xui ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên
đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn xui ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên
Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành
suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần
Gió hắt trầm tiếng ca tiếng phách ròn lắng
xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về
Tiên nữ ơi!
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về
Tiên nữ ơi!
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên
Văn Cao và hai chàng Lưu Nguyễn đã nhập “Thiên
Thai” nghệ thuật. Nơi đó, Cái Đẹp chính là tiên nữ, khởi nguồn mọi xúc cảm
hồn người. Nghệ thuật, nói cho cùng KHÔNG VỊ BẤT CỨ ĐIỀU GÌ, vì nó là cái chân
thiện mỹ đã được thánh hóa, được đóng dấu thiên giới cao sang. Tột cùng của
nghệ thuật là sự thoát tục, sự thăng hoa con người lên những thế giới khác, tâm
hồn khác, rung động khác, mê ly khác, ảo diệu khác... do con đò của tưởng tượng
chở ta sang bờ bên kia của sự thật, bờ bên kia của thế giới.
Những giai điệu thần tiên mê ly hết mực Văn
Cao đã đưa hồn ta du nhập cùng ba chàng lãng tử Lưu - Nguyễn - Văn vào cõi
trời. Thiên Thai ấy, tiên nữ ấy, nghê thường ấy hóa ra không ở đâu xa, lại ở
chính nơi hồn ta khi được âm nhạc thiên tài Văn Cao đánh thức...
Văn Cao hóa thân vào bi kịch nghệ thuật
Trương Chi, hay chính hồn chàng Trương Chi đã ám lấy cuộc đời Văn Cao trong một
ca khúc hay đến rợn người, hay đến ngờ có ma trong giai điệu du dương chìm
lắng, thê lương, rờn rợn liêu trai, khuya khoắt ngồi nghe một mình có thể nổi
da gà:
Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không gian mới rung thành tơ
Vương vất heo may hoa yến mong chờ
Ôi, tiếng cầm ca thu tới bao giờ.
Trầm trầm không gian mới rung thành tơ
Vương vất heo may hoa yến mong chờ
Ôi, tiếng cầm ca thu tới bao giờ.
Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang,
Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng
Đây đó từng song the hé đợi đàn.
Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng
Đây đó từng song the hé đợi đàn.
Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân
Hò khoan mơ bóng con đò trôi
Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời
Hò khoan mơ bóng con đò trôi
Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời
Anh Trương Chi
Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung,
Anh thương nhớ.
Oán trách cuộc từ ly não nùng.
Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung,
Anh thương nhớ.
Oán trách cuộc từ ly não nùng.
Đò trăng cắm giữa sông vắng.
Gió đưa câu ca về đâu?
Nhìn xuống đáy nước sông sâu.
Thuyền anh đã chìm đâu!
Từng khúc nhạc xa vời
Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi.
Sương thu vừa buông xuống
Bóng cây ven bờ xa mờ xóa dòng sông
Gió đưa câu ca về đâu?
Nhìn xuống đáy nước sông sâu.
Thuyền anh đã chìm đâu!
Từng khúc nhạc xa vời
Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi.
Sương thu vừa buông xuống
Bóng cây ven bờ xa mờ xóa dòng sông
Ai qua bến giang đầu tha thiết,
Nghe sông than mối tình Trương Chi
Dâng úa trăng khi về khuya,
Bao tiếng ca ru mùa thu.
Nghe sông than mối tình Trương Chi
Dâng úa trăng khi về khuya,
Bao tiếng ca ru mùa thu.
Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn
Còn nghe như ai nức nở và than,
Trầm vút tiếng gió mưa
Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng?
Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức nở và than,
Cùng với tiếng gió vương,
Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa.
Còn nghe như ai nức nở và than,
Trầm vút tiếng gió mưa
Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng?
Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức nở và than,
Cùng với tiếng gió vương,
Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa.
Đò ơi! Đêm nay dòng sông Thương dâng cao
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền,
Ta ca trái đất còn riêng ta.
Đàn đêm thâu
Trách ai khinh nghèo quên nhau,
Đôi lứa bên giang đầu.
Người ra đi với cuộc phân ly,
Đâu bóng thuyền Trương Chi?
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền,
Ta ca trái đất còn riêng ta.
Đàn đêm thâu
Trách ai khinh nghèo quên nhau,
Đôi lứa bên giang đầu.
Người ra đi với cuộc phân ly,
Đâu bóng thuyền Trương Chi?
Bi kịch Trương Chi chính là bi kịch của
nghệ thuật, bi kịch cuộc đời, hơn nữa là bi kịch của thiên tài và thời đại, bi
kịch của Văn Cao và chế độ… Hình như Văn Cao đã đổi vai cho chàng ca sĩ thiên
tài Trương Chi trong câu chuyện cổ diễm tình, được kể lại bằng hồn Văn Cao với
giai điệu bi ca, khốc ca, hú ca, Mỵ Nương ca?
Hồn Trương Chi u uẩn, u u trong gió sương
vương vấn trên sông, đêm đêm đã lấy đi hết nước mắt nàng Mỵ nương ân hận nghìn
đời. Nay hồn ấy, tình đơn phương yêu đến chết ấy lại nhập vào hồn Văn Cao với
giai điệu sầu thương, nức nở, lấy đi bao giọt khóc của người nghe nhạc hôm nay.
Thương thay chàng Trương Chi Văn Cao đã
dâng hiến cả tâm hồn và thân xác mình cho tình yêu con người, cho tình yêu thời
đại, yêu đến nỗi cuồng điên kiểu Xuân Diệu: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào
ngươi” nhưng đã bị thời đại đáp lại bằng “cú đớp chính trị” Nhân Văn Giai
Phẩm tàn mạt cả một đời.
Nàng Mỵ Nương cuộc đời, nàng Mỵ Nương thời
đại không chấp nhận tình yêu đơn phương tận hiến ấy, yêu và ca hát như con ve
tới chết cho nàng, vì nàng, một tình yêu phi điều kiện, phi chính trị. Cũng như
Trương Chi, Văn Cao đã bị nàng Mỵ Nương - Thời đại phụ tình, hớp hết hồn chàng,
rút hết gan ruột chàng trong các ca khúc kháng chiến bất hủ: “Trường ca Sông
Lô”, trong “Tiến quân ca”, trong “Làng tôi”, trong “Tiến
vế Hà Nội”, trong “Ngày mùa”… ăn ốc đổ vỏ, rồi nhốt chàng vào mật
thất cô đơn như một huyệt mộ của tự do trá hình có tên là căn gác chật hẹp 108
Yết Kiêu, Hà Nội, thuê 15 đồng một tháng (ở tù tại gia mà phải thuê a?)...
Trương Chi đã yêu, đã chết cho mối tình lý
tưởng đơn phương, thân xác tan vào sông nước và hồn hóa thành đá quý làm chén
ngọc cho Mỵ Nương gieo nước mắt thương tình thành sông. Văn Cao không ném thân
xác mình vào cát bụi để được chết vì yêu như Trương Chi; nhưng linh hồn ông, âm
nhạc ông đã đang và mãi mãi sẽ được người đời yêu thương đón nhận. Hồn Văn Cao
còn hát mãi tiếng tuyệt vời Trương Chi trên dòng sông âm nhạc, nơi sẽ có hàng
nghìn Mỵ Nương xinh đẹp mong ước chàng sống lại để hậu thế được yêu chàng như
lời thơ R. Tagore vẽ hộ tình yêu mai sau dành cho chàng Trương Chi - Văn Cao:
“Nàng ơi / tất nhiên là nàng sẽ ra đời /
trong một thế kỷ nào đó / xin nàng tha thứ cho / nếu quả vì tôi kiêu hãnh / vẽ
dáng nàng đang đọc thơ tôi / khi trăng rọi im lìm qua khe chữ / tôi biết đêm
nay / dưới trăng mờ / nàng thắp đèn chờ / dù nàng biết chẳng bao giờ nhà thơ
(nhạc sĩ - chua thêm TMH) đến nữa …”
(bản dịch từ tiếng Anh của Cao Huy Đỉnh)
Tiền bối Văn Cao ơi!
Âm nhạc sang trọng bậc nhất nước Việt của
ông còn sống mãi. Những bài hát rất hay, rất quý phái cao sang đầy chất thánh
ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một cứu cánh góp
phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có cơ bị diệt vong bởi chính sự
băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi thường
nhật trìu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông: ANH
VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc.
Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn thiêng liêng,
cao cả này mà thôi...
Sài Gòn ngày 23-01-2013
Trần Mạnh Hảo
_________________________________
Phần chú thích:
Chú thích <*1*>:
“Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần
phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà
ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố
Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút
gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí
cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy
bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche
(tiếng Pháp, có nghĩa là cuộc quân hành dài, ý nói Trường Chinh) mới là kẻ sáng
tác ra vụ Nhân văn - Giai phẩm. Để chạy tội Cải cách ruộng đất. Để tạo ra cái
hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai
khác. Đừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình
và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm
đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che
miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Đôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có
mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue
Marche: "Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay,
từng con một. Đổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi
anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới
ngóc đầu dậy được!" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là
thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải hiểu - tôi đã chịu
khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn
nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.
Chú thích <*2*>:
"Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm
luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào
gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những
chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như
thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá
của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. (...)
Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào
Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật
toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất
nặng. (...)
Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho
người đánh cá cái khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết,
chỉ có một mình mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối
toát ra như một âm khí nặng nề:
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca trái đất còn riêng ta! (...)
Ta ca trái đất còn riêng ta! (...)
Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ý
nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường
tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt
Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của lòng yêu nước.
Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những
lời hát:
Ta là đàn chim bay trên mây xanh
Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan...
...Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan...
...Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Ta không trách trình độ chính trị của ta và
của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự
say lấy mình đó là tiền thân của cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta
giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn
thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến
công ngang trời” kia lại là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến
tranh tự vệ!
Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có
dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc
mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra
một màu vị tan rã, như bài "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", hay như
bài "Ngoại ô mùa đông 46" (Văn nghệ số 2, tháng 4-5/1948):
Ta đi trong nhà đổ
Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình
Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn xiêm hài dành hương phấn cũ…
...
Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
Gió lạnh khi qua viện tàng thư
Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ
Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (...)
Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình
Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn xiêm hài dành hương phấn cũ…
...
Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
Gió lạnh khi qua viện tàng thư
Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ
Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (...)
Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một
bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ,
ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn
Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối lập với ai là “chúng ta”?
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả (...)
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả (...)
Trên đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở
miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm;
chúng nó là thế đấy (...)
Những con người của chúng ta, từ Cách mạng
tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới
“lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược
điểm gì, cả Trái đất cũng biết chúng ta vĩ đại!" (Xuân Diệu, Dao có mài
mới sắc Nxb Văn học, Hà Nội 1963, tr. 101-114. Bản điện tử do Lại Nguyên Ân
cung cấp, tài liệu Talawas)
http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100411-nhan-van-giai-pham-phan-xiii-van-cao
http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100411-nhan-van-giai-pham-phan-xiii-van-cao
Chú thích <*3*>:
“VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN CỦA
ĐẠI TÁ CÔNG AN
Được đăng bởi nguyentrongtao và VANDANVIET.COM
Được đăng bởi nguyentrongtao và VANDANVIET.COM
NTT: Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là
Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo giõi văn
nghệ sĩ và văn hóa) đã gửi tới NTT.ORG một chuyên luận dài về Nhân Văn Giai
Phẩm, và chúng tôi đã đăng làm 5 kỳ từ đầu tháng 8/2010, được nhiều trang mạng
đăng lại. Nay tác giả đã chỉnh sửa lại bài viết của mình và nhờ NTT.ORG đăng
lại trọn vẹn bài viết này. Các bạn hãy đọc nó như đọc một “góc nhìn” về sự
thật.
VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM MỘT TRÀO LƯU DÂN
CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH TÂN VĂN HỌC KHÔNG THÀNH - LÊ HOÀI NGUYÊN
Xin trích một số đoạn trong tài liệu này,
để chứng minh phong trào Nhân Văn Giai Phẩm 1955 -1958 chỉ là một trào lưu tìm
dân chủ, tìm tự do cho văn học nghệ thuật, không hề mang tính phản động, lật đổ
chế độ như chính quyền cộng sản đã vu cáo, để đàn áp các đồng chí của Văn Cao
một cách khốc liệt, như từng xảy ra mà đại tá công an A 25 Thái Kế Toại đã
chứng minh và kết luận một cách khoa học, thấu tình đạt lý, khiến kẻ viết bài
này miễn bình luận:
“Tác giả (tức đại tá công an A 25 Thái Kế
Toại) tin rằng Nhân Văn – Giai Phẩm (NVGP) không phải là một vụ án gián điêp
phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ
chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền
dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn
học nghệ thuật tự do sáng tạo…
…Còn vụ án được đem xét xử công khai có thể
nói đấy là một vụ án xử vì mục đích chính trị chưa đủ chứng cứ cấu thành tội
danh hoạt động gián điệp mà động cơ của nó có thể có sự lợi dụng để khuất lấp
tai tiếng và bảo vệ vị trí của chính những người lãnh đạo Đảng đã mắc sai lầm
trong CCRĐ
…Nội dung bản án kết tội NVGP trong phiên
xử án như sau:
“Chúng là những tên gián điệp phản cách
mạng, phá hoại hiện hành,hoạt động có tổ chức, thực hiện âm mưu của địch, tiến
hành những hoạt động chiến tranh tâm lý đê hèn nhất, những hoạt động phá hoại
thâm độc nhất, để cuối cùng lật đổ chế độ chúng ta ở miền Bắc…”
…- Nhà nước cộng sản huy động hầu hêt các
phương tiện thông tin đại chúng của chính quyền tham gia phê phán. Báo Nhân
Dân, Hà Nội Mới, Quân Đội Nhân dân, Tạp chí Học Tập, Tạp chí Văn Nghệ, Đài phát
thanh Tiếng nói Việt Nam, Văn Nghệ Quân Đội, Tạp chí Điện Ảnh… Đặc trưng của
các cơ quan ngôn luận cộng sản là chỉ cho phép sự phê bình chính thống, không
cho phép người bị phê bình được nói lại…
…-Huy động các cơ quan quản lý trí thức,
văn nghệ sỹ tổ chức các cuộc kiểm thảo, phê bình đấu tố những người tham gia
NVGP, sau khi đấu tố đương sự phải viết bản tự thú tội để công khai hóa trên
các phương tiện tuyên truyền…
…-Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của hệ
thống công an để bắt bớ, đàn áp...
…-Sử dụng các biện pháp quản lý hành chính
như khai trừ Đảng, khai trừ BCH khai trừ hội viên các hội VHNT, treo bút không
cho xuất bản tác phẩm có thời hạn hoặc vĩnh viễn, cách chức, chuyển công tác,
hạ lương, đưa ra khỏi biên chế, bắt buộc cư trú ở những vùng xa Hà Nội, đưa đi
cải tạo bằng lao động chân tay ở nông trường, nhà máy, hợp tác xã nông nghiệp…
…- Ngoài ra gia đình các đối tượng còn phải
chịu sự đối xử khắc nghiêt của các cơ quan quản lý xã hội và toàn xã hội như
việc học hành, thi cử, phân công công tác, lấy vợ lấy chồng…
…Đáng lẽ có những hình thức kỷ luật chỉ có
thời hạn vài ba năm nhưng cuối cùng kéo dài cho tới thời kỳ đổi mới. Các đối
tượng hết hạn tù và quản chế đang là công dân bình thường nhưng vẫn bị quản lý
như người mất quyền công dân…
Nói chung là cái biện pháp tổng hợp ấy có
một mãnh lực vô hình ghê gớm, nó làm tê liệt mòn mỏi sức lực và tinh thần của
một bộ phận trí thức tinh hoa trong thời gian dài 30 năm…
…Năm 1958 là năm đen tối của họ (NVGP), bị
đấu tố, kỷ luật, ngồi tù, cải tạo lao động…
…Trong thời gian này Hồ Chí Minh đi thăm
Liên Xô, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên có ghé thăm Bắc Kinh, chứng kiến và có thể
học hỏi các kinh nghiệm tổ chức phong trào đánh phái hữu. Việt Nam cử Tố Hữu,
Huy Cận và Hà Xuân Trường sang học tập kinh nghiệm, chính sách của Trung Quốc…
... Bản thân Trường Chinh cũng không thể
đẩy cao hơn tốc độ cuộc chiến chống NVGP vì ông ta không còn đầy đủ quyền lực
như trước nữa…
…Phải nói rằng ngôn ngữ văn học miền Nam đã
đi trước hiện đại hóa so với ngôn ngữ văn học miền Bắc mấy chục năm. Phải chăng
đó là hậu quả của việc thủ tiêu cuộc cách mạng văn học của NVGP?”
(hết trích bài của đại tá công an A
25 Thái Kế Toại)
No comments:
Post a Comment