17-1-2012
Gần đây, sau sự kiện “Bên Thắng cuộc”, một
số bác lại bắt đầu lải nhải về chuyện phải “tôn trọng lịch sử”. Không rõ loại
“sử” mà các bác ấy đòi tôn trọng là do ai viết và viết để làm gì? Nếu vẫn là
loại “sử” được dùng như công cụ duy trì vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội”
của Đảng thì có “tôn trọng” hay không là tùy các bác, chỉ mong các bác đừng áp
đặt, buộc mọi người phải tôn trọng nó.
Mình vốn không có chuyên môn về sử nên mạo
muội mượn một bài của bác Cao Tự Thanh – người mà mình rất hâm mộ về kỹ năng
nghiên cứu, khả năng tư duy, uy tín khoa học – thay cho lời giải thích về việc
tại sao mình đề nghị đừng áp đặt, buộc mọi người phải tôn trọng thứ “lịch sử đã
được định hướng”…
1.
Chén đắng rượu Xuân thu – Bi kịch của Phan Thanh Giản
Cao Tự Thanh
Là một nhân vật lịch sử có số phận khác
thường, Phan Thanh Giản đã chết bốn lần. Lần thứ nhất là Phan uống thuốc độc tự
tử. Lần thứ hai, Phan bị thực dân ám sát khi khen ông sáng suốt không chống lại
Pháp. Lần thứ ba, Phan bị triều đình Tự Đức bức tử với bản án “truy đoạt tất cả
chức hàm, đục tên trong bia Tiến sĩ, giữ mãi cái án trảm giam hậu”. Lần thứ tư
là vào thời gian 1960 – 1963, khi chúng ta hạ quyết tâm dùng bạo lực cách mạng
để giải phóng miền Nam, và nền sử học rời khỏi con đường dài phục vụ cách mạng
mà đi vào con đường tắt phục vụ chính trị đương thời đã xử tử ông (cũng như phê
phán những người yêu nước chủ trương không dùng bạo lực như Phan Châu Trinh),
gây ra một công án đau lòng khiến những trí thức như Ca Văn Thỉnh đương thời
day dứt và các chính khách như Võ Văn Kiệt hiện nay trăn trở.
Năm 1994 vấn đề Phan Thanh Giản lại được
đặt ra trong Hội thảo khoa học ở Vĩnh Long, nhưng hầu như không có tiếng vang
nào đáng kể. Các công trình cũ vẫn còn đó, các giáo trình cũ vẫn còn đó, quan
niệm cũ vẫn còn ngự trị, tâm lý cũ vẫn còn tác động. Nhiều người không ngại
khẳng định Phan Thanh Giản, mà sợ phản đối đồng chí và đồng nghiệp, cấp trên
hay thầy học của mình. Cho nên đến cuộc Tọa đàm Thế kỷ 21 nhìn về nhân vật lịch
sử Phan Thanh Giản do Hội Khoa học Lịch sử tổ chức ở Thành phố Hồ Chí Minh ngày
16 tháng 8 mới đây, cái số phận nhiều cay đắng mà ít vinh quang ấy lại một lần
nữa được đưa ra mổ xẻ.
Trong cuộc Tọa đàm vừa qua, nhiều người đã
khẳng định Phan Thanh Giản là một người yêu nước và thương dân. Thương dân có
đồng nghĩa với trọng dân hay không ở các nhà nho xưa còn là chuyện phải bàn,
nhưng uyên nguyên của tấn bi kịch lịch sử nơi Phan Thanh Giản là ở chỗ ông đã
theo một cái học coi triều là nước. Cho nên lúc vua sợ giặc mà dân chống giặc,
Phan Thanh Giản cũng dần dần rơi vào bế tắc trên một lập trường chính trị chiết
trung. Vừa mong ái dân vừa muốn trung quân, cái tâm thế lưỡng phân này khiến từ
1859 Phan không kế thừa được một cách tích cực truyền thống yêu nước chống
ngoại xâm của dân tộc Việt Nam và sau Hòa ước 1862 thì có nhiều hành động bất
lợi cho phong trào chống Pháp “chẳng nghe Thiên tử chiếu”. Cho nên bi kịch lúc
còn sống của Phan Thanh Giản trước hết là sự thất bại về trí tuệ của thế giới
cũ, một thế giới già cỗi đang rúng động và từng bước giải thể trong quá trình
tiếp xúc với cái thế giới mới sung sức, năng động và tàn nhẫn hơn tới từ phương
Tây. Đây cũng là bi kịch của chế độ phong kiến Việt Nam thế kỷ XIX nói chung và
nhà Nguyễn nói riêng, vì với một chính quyền thì sự bất lực trước nhiệm vụ thực
tiễn luôn gắn liền với sự suy thoái về đạo đức chính trị. Dĩ nhiên trong chính
trị thì không phải có tội lỗi hay sai lầm là không có tinh thần yêu nước, nên
vẫn có thể nói Phan Thanh Giản là một người yêu nước ít nhất theo kiểu của ông.
Trong cuộc Tọa đàm vừa qua có một số người
đi sâu khẳng định Phan trên phương diện đạo đức cá nhân, nhưng điều đó không có
nhiều tác dụng trong việc đánh giá các nhân vật lịch sử, nhất là một nhân vật
có hành trạng chính trị phức tạp như Phan Thanh Giản. Chín chữ “Đại Nam hải
nhai lão thư sinh tính Phan” như một lá đơn từ chức gởi cho người đương thời và
hậu thế của ông vì thế cũng mang ý nghĩa của một biểu trưng hai mặt, hay nói
như Nguyễn Đình Chiểu “Minh sinh chín chữ lòng son tạc, Trời đất từ nay bặt gió
thu”, đó là sự buông xuôi của nhà chính khách bất lực mặc dù thông qua cách
chuộc tội của bậc quân tử chí thành. Cái nhục mất thành mất đất của nhà Nguyễn,
Phan Thanh Giản đã tình nguyện gánh chịu “Theo nghĩa thì thần phải chết, không
dám tạm bợ sống mà để lại cái nhục cho quân phụ” (Di sớ). Nhưng nỗi khổ làm dân
vong quốc của sĩ dân Lục tỉnh thì ông tự biết mình không sao gánh được “Minh
sinh xin bỏ, nếu không xin đề Quan tài của người học trò già họ Phan ven biển
nước Đại Nam, cũng lấy đó đề trên bia mộ”. Bi kịch của Phan Thanh Giản lúc còn
sống vì vậy còn là sự phá sản về đạo đức của trật tự cũ, một trật tự không phản
ảnh thực tiễn mà khẳng định tín điều.
Không phải chén độc dược nào cũng đắng. Năm
Phan Thanh Giản bốn tuổi, Ngô Tòng Châu đã uống rượu độc tự tận ở thành Quy
Nhơn. Chén rượu của Ngô được các nhà nho phù Nguyễn chống Tây Sơn đương thời ca
ngợi về hiệu quả chính trị “Tận chước thuần thành thù họa loạn – Rót hết lòng
thành mời họa loạn” (Lê Quang Định, Ngô Lễ bộ tửu) cũng như về ý nghĩa lịch sử
“Thiên cổ công danh túy hậu hoàn – Say rồi, ngàn thuở vẹn công danh” (Trịnh
Hoài Đức, Ngô Lễ bộ tửu). Còn chén độc dược của Phan Thanh Giản thì đắng ngắt
nỗi đau bất lực và thất bại. Nhưng vị đắng mà chén rượu Xuân thu dành cho Phan
Thanh Giản không chỉ có thế. Sau khi “nhắm mắt đi vào cơn trường dạ” (Đinh
Hùng) năm 1867, ông vẫn có một cuộc đời không ngừng thăng trầm cùng vận nước.
Từ bản án xử tội của triều đình Tự Đức năm 1868 tới sắc văn khai phục của triều
đình Đồng Khánh năm 1885, các thế lực phi nghĩa luôn tiếp tục lợi dụng cái hành
trạng chính trị đa diện và đa nghĩa này. Nhưng điều xót xa là năm 1963 giới sử
học mácxít lại cường điệu sự khác biệt giữa Phan Thanh Giản với Trương Định,
Nguyễn Hữu Huân mà quên đi sự khác biệt giữa ông với Trần Bá Lộc, Tôn Thọ
Tường, thậm chí trong khi lẽ ra phải chống lại những kẻ lợi dụng lịch sử thì
lại quay ra lên án Phan Thanh Giản… Và đến khi thấy cần sửa chữa sai lầm ấy,
một nhà sử học nổi tiếng đã phải kê khai chi tiết công tội của Phan Thanh Giản
theo hai hệ thống dựng nước và giữ nước như một báo cáo ưu khuyết điểm của
“đương sự” để trình lên Ban Bí thư! Cái bi kịch sau khi chết của Phan Thanh
Giản vì vậy còn là bi kịch của một hệ thống nhận thức luận và phương pháp luận
sử học. Phát biểu trong cuộc Tọa đàm ngày 16 tháng 8 vừa rồi, nhà nghiên cứu
Trần Bạch Đằng cũng nói “Một nhà sử học lớn như Trần Huy Liệu (người tổng kết
cuộc Hội thảo về Phan Thanh Giản năm 1963 ở Hà Nội) không thể không biết điều
đó (tức sự thành kiến với Phan Thanh Giản)”. Chính nghĩa cũng có những bất công
của nó!
Từ 1975 đến nay, vẫn chưa có công trình
nghiên cứu mới về Phan Thanh Giản nào được xuất bản ở Việt Nam. Dĩ nhiên việc
tìm hiểu Phan Thanh Giản mà trọng tâm là tấn bi kịch của ông có phải là vấn đề
khoa học cấp thiết cần đưa ra vào lúc này hay không là chuyện khác, nhưng chắc
chắn nó phải được tiến hành một cách thật sự khoa học, nghĩa là trên một cơ sở
tư liệu chính xác, toàn diện và nhất là với một thái độ nghiêm túc và không vụ
lợi. Điều này có thể sẽ giúp Phan Thanh Giản tránh được cái chết lần thứ năm
trong thời hội nhập. Bởi vì Phan Thanh Giản là một bi kịch của cả lịch sử lẫn
sử học trong quá khứ, nhưng nếu không nhận thức và chia sẻ được bi kịch ấy thì
đó là tấn bi kịch của chính chúng ta.
2.
Nếu mình nhớ không lầm thì hình như Cicero,
một triết gia La Mã, từng bảo, sử là lửa của chân lý, là sinh mạng của ký ức,
là người thầy của cuộc sống và là sứ giả của tiền nhân. Không phải ngẫu nhiên
mà sử trở thành một ngành khoa học. Song thực tế cho thấy, sử đã và đang là một
trong vài ba môn học mà thế hệ trẻ Việt Nam không muốn học. Vài năm qua, tỷ lệ
điểm 0 môn sử trong các kỳ thi lên tới 80%, 90% đã trở thành vấn nạn chưa có
giải pháp. Bao nhiêu phần trăm của vấn nạn này thuộc về sự áp đặt loại “sử”
được viết, được dùng như công cụ duy trì vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội”
của Đảng? Những người vẫn ra rả đòi “tôn trọng” loại “lịch sử đã được định
hướng” này có dám nhận trách nhiệm khi đã và đang tạo ra những thế hệ không còn
lửa của chân lý, không có ký ức, thiếu vắng người dạy, đứt gãy với tổ tiên,
nguồn cội không?
No comments:
Post a Comment