12:01:am
13/01/13
(Chôn nó
đi, phần 5)
Nhiều
người than phiền là Lòng Dân hôm nay đã nguội lạnh. Hoặc gỉa, nhu nhược. Không
còn thiết tha gì tới việc nước, rồi “mặc kệ nó” muốn làm gì thì làm. Muốn đến
đâu thì đến! Sự thật, có lẽ không phải như thế. Nhưng hãy công bằng mà nhìn lại
cục diện Việt Nam trong vòng vài trăm năm qua mà thương, mà thấy là ngưòi dân
Việt Nam ở mọi nơi đã nhận qúa nhiều cay đắng, bất hạnh.
Truớc
hết, họ đã phải đeo trên lưng qúa nhiều gánh nặng. Họ phải lao nhọc vì các nhà
nước một cách qúa mức. Họ phải chấp nhận hy sinh nhiều lần hơn chúng ta tưởng
tượng. Đổi lại, người dân đã bị các nhà cầm quyền đối xử một cách rất bất công,
thô bạo. Trong đó, có nhiều khoảng thời gian việc đối xử không còn ở cấp độ bất
công, nhưng là một phương thức đối xử bất nhân có hệ thống. Ấy là chưa kể đến
sự việc bị các thế lực chính trị lợi dụng, lừa đảo lòng yêu nước của họ. Từ đó,
lòng người không muốn chai đá cũng phải chai đá. Không muốn lạnh nhạt với thời
cuộc thì cũng không có cách nào để phấn khởi hơn.
Thật
vậy, theo số liệu của lịch sử, Hoa kỳ lập quốc từ năm 1789, cũng nhờ binh ngoại
và trải qua một cuộc nội chiến, nhưng nay vượt lên trên tất cả. Ở Việt Nam,
Nguyễn Ánh cũng đi cầu binh ngoại cũng đẩy người dân Việt Nam vào một cuộc nồi
da xáo thịt trong nhiều năm… Chiến tranh đã chấm dứt vào năm 1802 (sau Hoa Kỳ
khoảng 23 năm). Nhưng nay thì đếm từ cuối bảng đi lên. Tại sao? Có phải vì
những lý do sau?
1. Sự lạm dụng
quyền lực, khiến dân lành bị chết oan.
Sau
khi làm Tổng Thống, George Washington đã cả một đời lo cho dân, vì dân, vì nước
mà xây dựng một nền móng dân chủ vững chắc cho tương lai dài của đất nước.
Trong khi đó, sau khi yên vị, những Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, trở thành
những Neron ở trời đông, đã lạm dụng quyền lực, chém giết hơn 200.000 ngàn
người dân lành với mục đích xây dựng quyền lực cho đế chế quân chủ của dòng họ.
Đọc
sử, nhìn con số dân lành bị chết oan, chết bằng muôn loại cực hình ai cũng thấy
rợn người. Rồi thấy những hình phạt gián tiếp giáng xuống trên gia đình các nạn
nhân, có ai không mủi lòng hoặc không lên án cái man rợ của những bạo chúa? Ấy
thế mà, Sử xem ra cũng có chỗ bất công khi những kẻ giết người vì mục đích tư
dục, không hề bị “lịch sử” phê phán, trừng phạt. Trái lại, còn được treo gương,
đề tên ở trên đường phố của Việt Nam!
Tôi
tin rằng, dân tộc Việt Nam không phải là giống dân mọi rợ, thờ thần bạo ác? Lại
không thiếu tên tuổi của những ngưòi vì dân vì nước từ hơn 4.000 năm qua, nhưng
không thấy nhắc đến. Trái lại, tên tuổi của những bạo chúa giết người thô bạo
lại được treo cao gía ngọc trên các đường phố Việt. Tại sao lại thế? Chỉ vì họ
là vua quan chăng? Tôi không cho cái nhìn ấy là đứng đắn và quan trọng. Bởi lẽ,
dù chỉ là một người chiến binh, một người nông dân áo vải đã hiến cả mạng sống
của mình vì dân tộc, vì đất nước thì cái phẩm giá, cái nghĩa khí họ để lại cho
non sông còn cao qúy và đáng trọng hơn ngàn lần so với tên của những người chỉ
có vị vua, quan mà chẳng có một chút công trạng nào với nước.
Có
ai muốn đường phố Việt Nam vẫn mang tên những tội phạm bán nước Lê chiêu Thống,
Trần ích Tắc, Hồ chí Minh hay những kẻ giết người như Nguyễn văn Trỗi, Trường
Chinh… sau khi chế độ bạo tàn này đã bị hạ bệ không?
Tôi
chưa sang Đức, không biết ở đó có tên đường phố nào mang tên Hitler, Himmler
không? Đừng bảo là những nhân vật này thuộc về lịch sử nên phải để lưu lại danh
tánh nhá. Lịch sử thì có góc riêng của lịch sử như khi ngưòi ta nhắc đến Trần
ích Tắc, Lê chiêu Thống.
2. Sau khi giành
được Độc Lập, người dân bên kia vỹ tuyến 17 được những gì?
Bên
cạnh những hệ lụy từ lâu đời ấy, sau cuộc kháng chiến dành lại Độc Lập từ tay
thực dân, ngoài những khẩu hiệu lẫy lừng, người dân ở bên kia vỹ tuyến 17 được
những gì? Họ có được đời sống tự do, ấm no hạnh phúc, được công lý và luật pháp
của một nước độc lập bảo vệ? Hay họ bị Hồ chí Minh cho ăn bánh vẽ, rồi bị nhào
nặn thành những kẻ nô lệ với cuộc sống còn tồi tệ, thống khổ hơn cả những ngày
sống dưói ách thực dân?
Cuộc
kháng chiến gọi là dành Độc Lập mà vào phút chót Hồ chí Minh bỗng nắm được
quyền lực không phải là do công lao của Hồ chí Minh và tập đoàn cộng sản mà có.
Nhưng là do công sức của toàn dân, trong đó phải kể đến những cuộc chống thực
dân đã có từ trước, tổn hại rất nhiều xương máu của ngừoi dân từ vụ binh biến ở
kinh thành với vua Hàm Nghi, rồi đến những đoàn nghĩa quân lên đường vì nước
chẳng vì vua quan như ông Phan Đình Phùng, Cao Thắng đến Hoàng Hoa Thám, Đề
Thám, Nguyễn Trung Trực, Phan Liêm, Phan Tôn, Nguyễn thái Học, cô Giang, cô Bắc
và các phong trào Đông Du, với cụ Phan bội Châu, Phan chu Trinh… mà có. Nhưng
sau khi cưóp được chính quyền trong tay của chính phủ Trần trọng Kim, Hồ chí
Minh và tập đoàn cộng sản, phần vì quyền lợi phe nhóm, phần vì phận làm nô lệ
cho Nga, Tàu nên họ đã quay trở mũi giáo vào dân chúng.
Trước
hết, để đền ơn nhân dân đã hy sinh xương máu trong cuộc tranh đấu dành lại độc
lập cho Việt Nam từ tay thực dân Pháp, Hồ chí Minh, ngay sau khi nắm được chính
quyền đã tổ chức một mùa đấu tố rực rỡ với chủ đề “cải cách ruộng đất”. Nói là
cải cách ruộng đất cho nó có chữ vậy, thực chất đây là cuộc phỗng tay trên toàn
bộ tài sản của đất nước vào tay đảng cộng sản. Cuộc đấu tố này đã được thực
hiện ở trên đất bắc sau ngày ký Hiệp Định đình chiến 20-7-1954. Với cái chết
oan khuất của hơn 170.000 người trên tổng số khoảng 14 triệu dân, HCM vĩnh viễn
đi vào lịch sử Việt Nam như là một đồ tể vô tiền khoáng hậu. Nạn nhân của Hồ là
những ai?
Thứ
nhất, họ là những ngưòi dân yêu nước, đã từng nuôi ăn, cho ở đợ những tên tuổi
từ Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng, Trường Chinh, Hoàng văn Hoan, Nguyễn duy Trinh,
Trần quốc Hoàn, Võ Nguyên Giáp… cho đến các cấp nhỏ nhất tại các thôn xóm.
Nghĩa là không có một đoàn đảng viên nào mà đã không sống nhờ vào lòng hảo tâm
của những ngưòi mà chúng giết sau này. Người bị giết đầu tiên được nhắc đến tên
là bà Nguyễn thị Năm ở Bắc Ninh. Người không được nhắc đến tên tuổi là những
nông dân trên các cánh đồng, bằng cách này hay cách khác đều là những ân nhân
nghìn đời của cộng sản.
Kế
đến là nhiều cha mẹ, anh em ruột thịt và thân nhân, lối xóm của rất nhiều sỹ
quan và cán binh, có người còn sống, có người đã chết trong chiến đấu, thuộc
những đại đoàn chính quy, hậu cần, trong suốt thời kỳ kháng chiến. Họ là những
ân nhân của cách mạng, đã từng tiếp tế lương thực gạo thóc, tiền bạc thức ăn
cho Việt Minh trong suốt 9 năm kháng chiến. Nhưng được Hồ chí Minh đền ơn bằng
cách lôi ra đấu tố vì là điền chủ, phú nông, lý trưởng, chánh tổng… với tội
danh: “tay sai của thực dân cài ngưòi vào tổ chức của ta. Nó tiếp tế cho ta
là vì muốn nắm tin tức của ta. Thực tế chúng là những kẻ bóc lột dân ta”!
Rồi
đến bản thân nhiều sỹ quan binh sỹ đã đi vào kháng chiến cũng không tránh được
tai họa vì nghề đấu tố của HCM. Lý do, sau chiến tranh, người cán binh về thăm
quê, chưa gặp gia đình đã gặp đội đấu và đội “quần chúng nhân dân”. Các anh bị
bắt giữ và bị hành quyết với tội danh: “Nó là con địa chủ, có ăn có học ở
thành phố, ở với tây, được cài vào trong đội quân của ta làm phản gián!”.
Tôi có hai ngưòi thân nằm ở trong trường hợp này (trung tá Phạm Hàm va em là
thiếu tá Phạm Hiến) quê ở Yên Mô, Ninh Bình. Bố ở nhà bị giết vì tội “Việt
gian”, con về thăm nhà cũng được Việt cộng cho đi tầu suốt! Sau cùng là nông
dân có vài sào ruộng và vài con trâu cũng từng góp gạo, góp của cho kháng
chiến. Nhưng được đảng đôn lên hàng phú nông, thuộc giai cấp bóc lột và cũng
nhận được một nhát dao ân huệ của Hồ chí Minh. Tính ra trong cả nước, không ai
mà không có tội. Hôm họp ở làng tôi, một làng đã vào tề ở ngoài bắc, sau vào
nam lại lập ấp, cán bộ chắp tay sau đít, đi đi lại lại điểm mặt: “bà con
liệu đấy, ở đây không ai mà không có tội, chỉ là nhà nước chưa tính tới phiên
mà thôi!”
Gặp
những cảnh bị đối xử bất nhân, bất công như thế đã đủ làm cho ngưòi dân lạnh
nhạt, thờ ơ với việc nước chưa? Liệu còn có ngọn lửa nào, hay cuộc lừa phỉnh
nào sẽ mãnh liệt hơn để cho lòng họ nóng lại hay không? Không, tôi tin là không
có một ngọn lửa nào, không có một chiêu bài nào có thể làm cho lòng họ nóng
lại, để họ tự đem chính bản thân của mình ra để phục vụ cho một chế độ tàn bạo
ngay sau mùa đấu tố 1954 được nữa.
3. Trong khi đó, ở
miền nam từ 1954-75, Lòng Dân ra sao?
Cuộc
chia đôi đất nước không làm cho lòng người ở miền nam yên tâm, dù ở đây chính
quyền ra sức bảo vệ họ thay vì mở những cuộc đấu tố, cải cách như ở ngoài bắc.
Tuy thế, nhiều lúc họ cũng chẳng biết số phận của mình sẽ ra sao. Nhìn chung,
chính quyền, phần thì nỗ lực để vãn hồi an ninh trật tự đầy bè phái và hỗn
loạn, sống như vô pháp vô cương do Bảo Đại để lại. Phần thì ra công ra sức xây
dựng, đặt nền móng cho một định chế Dân Chủ sau khi thu hồi Độc Lập từ tay thực
dân Pháp và bãi bỏ thể chế quân chủ đã tồn tại trên giải đất này từ thời lập
quốc. Đã thế, còn lao nhọc chăm lo đến đời sống của người dân, hỗ trợ, ổn định
cuộc sống cho hơn một triệu đồng bào di cư, trốn nạn cộng sản từ bắc vào nam.
Đến khi mới có chút nắng, mang màu hy vọng cho một tương lai của đất nước trên
đỉnh đầu thì các thế lực chính trị ăn bám theo Tây, nhưng đã mất quyền lực, hay
vì ảo giác chính trị (muốn có quyền lực) lại tìm cách khuấy động lòng dân nổi
lên đấu tố chính quyền, thay vì hướng dẫn người dân đi vào đường lối chính
thống, thay đổi chính phủ bằng những lá phiếu theo điều kiện của luật pháp!
Một
trong những vụ khuấy động lòng dân lớn rộng, nấp dưới tấm bình phong tôn giáo
để che đậy mưu đồ chính trị có lợi cho cộng sản là phong trào “chống kỳ thị tôn
giáo” do TT Thích Trí Quang lãnh đạo (điều này lúc trước xem ra là cấm kỵ,
nhưng nay thì chả còn ai phủ nhận khi xem những đoạn Video cũ) đưa đến cái chết
của TT Thích quảng Đức làm rúng động thế giới. Tuy bị cáo buộc khá nhiều, nhưng
sau nửa thế kỷ tính từ ngày nền Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền nam Việt Nam cáo
chung với cái chết đau thương của TT Ngô đình Diệm và người bào đệ của ông,
ngưòi ta đã không thể tìm ra những bằng chứng cụ thể, xác thực nào về việc
chính quyền này kỳ thị tôn giáo. Thay vào đó là những chứng cứ cho thấy có bàn
tay của Việt cộng nằm trong cấp lãnh đạo của phong trào này.
Sang
đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa, ngọn lửa kỳ thị được cộng sản thổi bùng lên và lôi
kéo được khá đông quần chúng miền trung tham dự, mà điển hình là trường hợp
Thanh Bồ- Đức Lợi ở Đà nẵng, Nếu những vị lãnh đạo của hai tôn giáo lớn lúc bấy
giờ là Công Giáo và Phật Giáo không sớm nhận ra đó là một âm mưu do Cộng sản
cài đặt, và không đủ kiềm chế thì cuộc chiến về tôn gíao đã có thể bùng phát.
Dù là lớn hay nhỏ thì cái tai họa cho dân tộc chắc không nhỏ và ảnh hưởng không
phải chỉ là một khoảng thời gian.
Câu
chuyện vẫn chưa chấm dứt ở đây. Ngoài biên, chiến trận mỗi lúc thêm khốc liệt.
Hậu phương, thêm nhiều tổ chức đấu tranh vận động quần chúng, thanh niên sinh
viên học sinh xuống đường đòi hòa bình, đấu tố chính quyền. Kết qủa, ngày
30-4-1975 đã đến. Nó đến trong nỗi bàng hoàng, hoảng sợ của mọi ngưòi, kể cả
những người đã từng theo cộng khuấy động lòng dân đứng lên đấu tố chính quyền
lúc trước. Tất cả đều trắng mắt ra để nhìn “mưa sa trên lá cờ đỏ” mà không dám
có lấy nửa lời phản kháng, hoặc đòi công lao! Lòng dân ra sao sau tháng tư đen?
4. Hoà bình rồi,
đồng bào ơi. Hoà bình rồi, nhận lấy đắng cay!
Hoà
bình rồi, đồng bào ơi. Hoà bình rồi. Mừng chưa nào, ra nắm tay nhau mà nhẩy son
đố mì… Mừng chưa, người Việt Nam đã hoàn toàn được giải phóng! Mừng ơi, sau hai
mươi năm chiến tranh mới có một ngày như hôm nay!
Câu
chuyện hôm trước vui nhộn thế. Qua một đêm đen, sáng hôm sau đã ra khác. “Đả
đảo Thiệu Kỳ, mua gì cũng có. Hoan hô Hồ chí Minh, mua cái đinh phải xếp hàng”!
Hai câu đồng dao như tát nước vào mặt những kẻ mang ảo giác chính trị từng lôi
kéo người dân, thanh niên sinh viên học sinh xuống đường đấu tố chính quyền,
tiếp tay cho việc làm mất luôn miền nam. Rồi nó như một bài “Giáng” đã nói lên
tất cả mọi sự thật phũ phàng về đời sống kinh tế của con người dưới chế độ cộng
sản. Không phải chỉ là những ngày đầu, nhưng là khởi đầu của một cuộc tang
thương nối tiếp.
Bước
sang lĩnh vực chính trị, xã hội còn thê lương hơn nhiều: “Nam Kỳ khởi nghĩa
tiêu Công Lý. Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do”. Nay thì những kẻ từng chống đối TT
Ngô đình Diệm, hay TT Nguyễn văn Thiệu ở miền nam trước kia không còn cười được
nữa. Bởi vì một bài “ Giáng” khác của chế độ mới đã công bố toàn bộ sách lược
của chế độ đối với người dân. Ai nghe thấy cũng đều ngậm đắng nuốt cay. Mà sự
“ngậm đắng nuốt cay,” không cười được nửa không phải chỉ bắt đầu bằng câu đồng
dao của thời đại khi Việt cộng đổi tên đường phố ở Sài Gòn. (Chẳng biết có phải
là lòng trời đã xui khiến hay là tình cờ có sự trùng hợp mà đường Công Lý bị
thay bằng cái tên Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Và đường Tự Do thì được thay bằng cái tên
Đồng Khởi!) để cho ngưòi ta nói chuyện diễu. Nhưng thực chất là từ ngày
30-4-1975 người dân sống trên phần đất ấy không được Công Lý bảo vệ và cũng
chẳng có cuộc sống trong Tự Do. Bởi vì, sau những cuộc biểu tình đòi hòa bình,
đấu tố chính quyền do cộng sản giật giây, giờ đây, ngưòi miền nam đến lúc nối
theo nhau vào nhà tù. Dĩ nhiên, trong đó có rất nhiều những khuôn mặt “nhớn”
từng chống TT Diệm và TT Thiệu lúc trước. Những tưởng “trở mình” là nên quan
tướng nhớn, nào ngờ chỉ là ảo giác! Phần ngưòi dân thì hết nỗi thống khổ này
chồng lên thống khổ khác. Bị ức chế bị chà đạp từ đời sống hàng ngày cho đến
đời sống tinh thần trong tôn giáo. Hỏi xem bây giờ họ sẽ theo ai? Theo Ngô đình
Diệm phục vụ con người, hay theo Hồ chí Minh mở cuộc đấu tố anh em? Hoặc là ì
ra, muốn đến đâu thì đến?
Ở
độ tuổi từ 50 trở lên thì có đầy đủ những chán chường ấy chất lên người, họ còn
khát vọng gì cho tương lai nữa hay không? Chắc là không đâu nhỉ? Tuổi trẻ thì
sao? “Vô tri thời bất mộ”. Người ta không thể mộ mến cái mà người ta không
biết. Và cách để biết, để tri thì không có gì hơn được, hay bằng phương cách
giáo dục cẩn thận, đứng đắn ngay từ trong học đường. Tiếc rằng, cả hai điều
kiện căn bản này đều vắng bóng trong hệ thống giáo dục và đào tạo của cộng sản
từ năm 1954 ở ngoài bắc, và ở miền nam từ sau 30-4-1975.
a. Về lịch sử
Học
sinh không được học gì về lịch sử của dân tộc mình. Không biết hai bà Trưng
chống cuộc ngoại xâm nào. Không biêt những tên Tô Định, Mã Viện tàn bạo với dân
mình ra sao. Không biết chuyện “gò” Đống Đa mang ý nghĩa gì. Không biết Chi
Lăng nơi chôn vùi Liễu Thăng ở nước nào. Không dám nói đến việc vua Quang Trung
đại phá quân Thanh. Trần Hưng Đạo triệt quân Nguyên… Lại miệt mài nhồi nhét vào
đầu những cái gương “đuốc sống” tưởng tượng Lê văn Tám, Võ thị Sáu, Nguyễn văn
Trỗi, Bế văn Đàng, đánh Mỹ cứu nước… để khi thi môn sử, lỡ có đề án ra nhầm vào
những nhân vật trên là cả lớp, cả trường, có khi cả khoá thi bị điểm Zêrô, điểm
1, điểm 2. Với một kết quả như thế thì tìm đâu ra lòng yêu nước của những thế
hệ mới? Nên không lạ gì tập đoàn cộng sản từ Hồ chí Minh đến những cấp gọi là
lãnh đạo hôm nay đều cúi đầu, cúc cung phục vụ cho chủ nhân Tàu với lòng độc ác
tàn hại dân rất cao và không bao giờ thiếu. Trái lại, lúc nào cũng sẵn sàng.
Bằng chứng, việc biểu lộ lòng yêu nước của những ngưòi trẻ Việt Nam hôm nay đã
rất hiếm hoi. Đến khi họ tự tập trung với nhau lên tiêng trong những vụ việc về
biên giới, biển đảo bị Trung cộng lần chiếm, đã không hề được các “quan chức”
nhà nước hỗ trợ hay gỉa làm ngơ. Trái lại, từ những Điếu Cày, Tạ phong Tần…..
đến Nguyễn chí Đức, Lê quốc Quân, Bùi Hằng, rồi Việt Khang, Lê Phương Uyên…
cùng thét gào lên trong nức nở Việt Nam Tôi Đâu: Anh Là Ai ở trong chốn nhà
lao!
b. Về nhân cách,
lễ nghĩa
Những
dòng chữ nắn nót treo ở trên tấm bảng đen và trên tường trong lớp học của học
sinh miền nam trước kia thường là những dòng chữ tuyệt vời trong ý nghĩa giáo
dục “Tiên học lễ, hậu học văn”, “Ngày nay học tập ngày mai giúp đời” hoặc là “
nhiễu điều phủ lấy giá gương”… đã được nhà nước “cộng hoà xã hội chủ nghĩa”
giải phóng, lột bỏ, quăng đi cho bằng hết. Rồi thay vào đó là lối giáo dục hết
sức phản giáo dục với hàng chữ: “Sống và học tập theo gương bác hồ vĩ đại”.
Thưa cô, gương của “bác” là gương gì ạ? Có Trung , có Hiếu, có Lễ, có Nghĩa, có
Tín không ạ? Cô gíao thấp giọng:
-
“bác có nhiều tấm gương lớn các cháu phải noi theo”. Trung Hiếu Lể Nghĩa Tín
các chữ ấy đều có. Nhưng chỉ có chữ thôi phần thực hành thì không. Có em nào
nom thấy bác làm giò, thắp nhang cho ông bà cha mẹ bao giờ không? Thưa cô không
ạ! Thế đấy, nên họ nói thì cứ mặc. Các em nhớ đấy, “bác còn nhiều cái gương
khác nữa”. Trung thì không bán nước, Nhân thì không giết ngưòi. Lớn lên tự mình
nhìn việc mà đánh gía. Nghe thế, lũ trẻ hoang mang, chẳng biết đâu mà mò. Về
nhà, cha mẹ em cứ dạy là phải thảo hiếu cha mẹ và yêu thương đồng loại và yêu
tổ quốc. Ai đúng, ai sai? Lạ, lạ qúa….Tiếng đầu đời không gọi cha gọi mẹ, mà
gọi Sít ta lin!
Với
những tấm gương ấy trong học đưòng, ngoài xã hội, cộng sản đã phá nát nền luân
lý của dân tộc và của tôn giáo tại Việt Nam nên “nguời ta phải nói dối nhau mà
sống” (ĐB Trần quốc Thuận PCT QH khóa IX). Hầu như không tìm ra một câu nói
thật nào với nhau, nhất là về phương diện quan điểm chính trị. Trong khi đó
cuộc sống của xã hội càng ngày càng bị phủ ngập bởi những loại tội đại ác. Con
giết cha, vợ giết chồng, tình nhân giết nhau, bạn học giết bạn học và cả học
trò chém thầy, cô, vì không có điểm tốt. Phần thầy thì gạ tình trò đổi lấy
điểm. Khi bước ra đường là đụng tiến sỹ, gái điếm. Bước vào nhà thương, ngõ hẹp
thì thấy đầy dẫy những phòng nạo, cạo, hút thai công khai. Hỡi ơi, mỗi năm có
đến hàng trăm ngàn vụ phá thai và nghĩa địa hài nhi thì mọc lên như nấm ở khắp
nơi. Mà người cha không ai biết đến, trong khi người mẹ đa phần là trẻ vị thành
niên, thậm chí có em, một năm đã phá thai đến ba, bốn lần! Một xã hội tốt đẹp,
có trật tự, lễ giáo trước 1975, chỉ hơn ba mươi năm đạt đến những “thành tích”
lẫy lừng này thì hẳn nhiên, không còn cái gương nào “tốt” hơn, “sáng” hơn hoặc
là bằng với cái gương của Hồ chí Minh mà chế độ này đem treo và vào áp dụng ở
khắp đầu đường, xó chợ!
Đó
là những điều làm ảnh hưởng đến Lòng Dân, tưởng là ghê gớm hay mới mẻ. Thật ra,
nó cũ rích và tôi chỉ nói lên được đôi chút trong những nỗi thống khổ tận cùng
của dân tộc ta trong vài trăm năm qua, không thể nói lên toàn cảnh được. Nên
với gánh nặng tựa núi đá, cộng thêm cuộc khủng hoảng đạo lý và niềm tin do cộng
sản tạo ra, cứ mãi đổ xuống trên thân thể người dân như thế. Họ chưa chết, chưa
ra điên hết, còn được như hôm nay đã là may mắn, nói chi đến vấn đề bạc nhược,
hay thờ ơ trước thời cuộc. Khi đàn gà phải cáo nấp ở trong góc chuồng, chi nghe
thấy tiếng động nhỏ ở đâu đó là đã vỡ mật, cần chi phải nhìn thấy con cáo.
Người Việt Nam ta hôm nay còn nằm ở trong hoàn cảnh bi đát hơn thế nhiều. Vì lũ
cáo đã nằm ngay ở trong chuồng gà. Cũng may, nhờ kinh nghiệm từ thời phong kiến
đến cộng hòa, đặc biệt sau sáu mươi năm sống dưới chế độ bạo tàn cộng sản đã
giúp họ thu vén cho mình một chút vốn liếng riêng. Rõ ràng, họ căm thù cộng sản
đến tận xương tủy, nhưng cũng không thể bồng bột vào cuộc đấu tố chúng để lãnh
lấy thất bại. Nghĩa là, họ sẵn sàng đứng dậy để Chôn Nó Đi, nhưng sự sẵn sàng
ấy phải có những điều kiện khả dĩ, nắm chắc thành công. Bởi lẽ, sau một thất
bại lớn, cuộc sống còn thê lương hơn nhiều.
Tóm
lại, Lòng Dân như một thúng bột. Gặp cơn gío lốc thì bay đi tứ tán. Bột bị phí
phạm và không đem lại lợi ích. Nhưng nếu biết đem bột hoà chung với nước thì
lại trở thành lương thực để nuôi sống con ngưòi.
Theo
đó, chúng ta, không thể lên tiếng trách cứ dân tình là thiếu tri thức, ý thức
về quốc gia hay thờ ơ với việc nước được. Trái lại, phải xác định rằng các
chính quyền trong vài thế kỷ qua cũng như các thế lực mang ảo giác chính trị đã
lừa dối lòng yêu quê hương của người dân qúa nhiều. Những thế lực này là nguyên
nhân làm hỏng thúng bột. Làm bột bay đi tứ tán. Là nguyên nhân tạo ra sự lạnh
nhạt trong lòng người dân. Và tệ hại hơn thế là, chính sự lạnh nhạt, thờ ơ của
người dân hôm nay lại là con đường mở cho cộng sản tồn tại trên đất nước này.
Như
thế, muốn Chôn Nó Đi, chúng ta phải tìm cách vận động thế nào để cho bầu nhiệt
huyết vì quê hương lại có dịp luân chuyển trong huyết quản con dân Việt Nam.
Thí dụ, ngày xưa tầng lớp sỹ phu nắm giữ mọi trọng trách thúc đẩy nhân dân đi
lên. Nay xem ra là đến thành phần tuổi trẻ phải gánh vác công việc này. Bởi lẽ,
họ là những người viết blog riêng, vào các trang mạng xem thông tin. Họ nhận
được nhiều nguồn tin đúng. Đọc được những quan điểm đứng đắn về biên giới, chủ
quyền trên biển đông. Nhờ họ, những bản tin nhà nước đàn áp, bắt giam những
ngưòi chống Trung cộng xâm lược, đến được với nhiều người. Đặc biệt là ở vùng
nông thôn là nơi không có nhiều điều kiện tiếp cận với thông tin thật. Nay nhận
được những bản tin, họ hiểu được chẳng bao lâu nữa Trung cộng sẽ vào chiếm đình
làng. Hoặc gỉa, trực tiếp điều hành những công việc ngay tại xã thôn như chúng
đang làm ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam như ở Nông Cơ, Tân Rai… những khu
khai thác quặng mỏ, khai thác rừng thuê mà không một người Việt Nam nào được
phép đến, kể cả cán bộ cấp trung ương. Những bản tin này sẽ đưa người dân vào
những ưu tư trước thời cuộc. Người dân dần thay đổi cách suy nghĩ, cách nhìn.
Riêng tầng lớp thanh niên thay thế lớp Sỹ Phu, trở thành những yếu tố chính cho
một cuộc cách mạng mới mà toàn dân đang mong chờ để được tiếp tay. Từ đó, bầu
nhiệt huyết về quê hương sẽ trỗi dậy.
Một
khi bầu nhiệt huyết vì quê hương lại cháy lên trong Lòng Dân thì có xá chi việc
loại trừ chế độ cộng sản ra khỏi đất nước Việt Nam. Trái lại, vẫn trách cứ, vẫn
đổ lỗi cho dân, hoặc chỉ lợi dụng họ khi muốn qua cầu, chúng ta sẽ đi vào ngõ
cụt, không thể tìm được sức mạnh hỗ trợ từ đồng bào của mình. Nếu không có sức
mạnh vạn năng từ Lòng Dân, không ai có thể làm nổi công việc lấp bể dời non.
©
Bảo Giang
©
Đàn Chim Việt
---------------------
CÙNG TÁC GIẢ :
Chôn nó đi (phần 2) 10:15:am 07/09/12
Chôn nó đi 12:01:am 04/09/12
Phận lưu đày 12:01:am 18/08/12
Tự Do hay là Chết? 09:18:am 29/07/12
Bán đất nhà người [2] 11:26:am 15/07/12
Cộng sản và đạo thờ ông bà 12:01:am 03/06/12
Tôn giáo và cái ách cộng sản (6) 12:01:am 31/05/12
Ngọn cờ sau Ba Mươi năm 04:21:am 05/05/12
Ai cứu non sông? 01:28:am 13/04/12
Đường một chiều 12:25:pm 25/02/12
Tiếng chuông Thái Hà (2) 12:01:am 01/12/11
Tiếng chuông từ Thái Hà 06:13:am 19/11/11
Tôn giáo và cái ách cộng sản [5] 12:30:am 19/10/11
Nỗi nhục non sông 12:01:am 11/10/11
Tôn giáo và cái ách cộng sản[3] 10:07:pm 03/09/11
No comments:
Post a Comment