02:20:am
09/01/13
Trong lịch sử nhân
loại, không có một chủ nghĩa nào tàn bạo hơn chủ nghĩa Cộng Sản. Từ khi Tuyên
ngôn đảng cộng sản ra đời năm 1848 cho đến khi bức tường Bá Linh bị đập đổ vào
1989, khoảng gần 100 triệu người từ nhiều quốc gia đã bị giết. Hơn hai mươi năm
qua, mặc dù ngọn lửa vô thần đã tắt trên phần lớn quả địa cầu, một góc trời
phương đông lửa vẫn còn đỏ rực, nhà tù vẫn còn giam giữ nhiều người bất đồng
với chế độ độc tài toàn trị và tự do vẫn là một bóng mây xa.
Hài cốt nạn nhân Mậu
Thân 1968
Người
đời có thói quen kết án Stalin đã gây ra tội ác tày trời đối với nhân dân Liên
Xô, Mao Trạch Đông đã giết trên 30 triệu nhân dân Trung Quốc và Pol Pot tiêu
diệt một phần tư dân tộc Khmer bằng súng và cả bằng dao phay, cán cuốc. Những
chuyện đó ngày nay nhân loại đều biết và tội ác của chúng không còn là vấn đề
tranh cãi nữa.
Tuy
nhiên, làm thế nào một nông dân có gốc gác bình thường, nếu không muốn nói là
hiền lành như Mao lại có thể trở thành sát nhân của mấy chục triệu dân Trung
Quốc? Làm thế nào Pol Pot, con của một điền chủ giàu có, được gởi sang Pháp ăn
học, được bạn bè nhớ lại như một người nhã nhặn, lịch sự và được gọi là trí
thức trong xã hội Khmer còn chậm tiến lúc bấy giờ, nhưng sau khi nắm chính
quyền đã giết hai triệu dân Khmer bằng búa, dao và những cách giết người tàn
bạo hơn cả trong thời Trung Cổ?
Bởi
vì chủ nghĩa Cộng Sản trang bị cho chúng một quyền lực tuyệt đối, một niềm tin
cuối cùng, một lối thoát tinh thần, một chỗ dựa lý luận để giải thích cho hành
động bất nhân của chúng. Nuon Chea, người đứng hàng thứ hai của chế độ Khờ Me
Đỏ chỉ sau Pol Pot, lạnh lùng trả lời báo chí, những kẻ bị giết chỉ vì họ là
“kẻ thù của nhân dân”. Đơn giản vậy thôi. Chúng ăn rất ngon và ngủ rất yên dù
sau một ngày ký hàng loạt bản án tử hình.
Giết
một vài đối thủ thì không sao nhưng để loại bỏ hàng triệu người là chuyện khác.
Stalin không thể lên tận các trại lao động khổ sai ở Siberia để bỏ đói những
người chống đối y. Mao Trạch Đông không thể xuống từng trường học để tra tấn
các thầy cô trong Cách Mạng Văn Hóa, Hồ Chí Minh không thể đích thân xử bắn bà
Nguyễn Thị Năm trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng họ có khả năng huấn luyện, đầu
độc một thế hệ đao phủ thủ trẻ tuổi hăng say và cuồng tín để làm thay. Quyền
lực đặt vào tay đám đao thủ phủ trẻ này chẳng khác gì con dao bén để chúng
thanh toán những mối thù riêng và lập công dâng Đảng.
Tháng
10 năm 2002, nhà báo Mỹ Amanda Pike đến Campuchia để tìm hiểu nguyên nhân tội
ác diệt chủng của Pol Pot đã không được làm sáng tỏ. Amanda Pike phỏng vấn bà
Samrith Phum, người có chồng bị Khờ Me Đỏ giết. Theo lời kể của bà Samrith
Phum, vào nửa đêm năm 1977 chồng bà bị một Khờ Me Đỏ địa phương bắt đi và giết
chết vì bị cho là “gián điệp CIA”. Hung thủ chẳng ai xa lạ mà là người cùng
làng với bà Samrith. Hiện nay, kẻ giết người vẫn còn sống nhởn nhơ chung một
làng với bà cách thủ đô Nam Vang vài dặm nhưng không một tòa án nào truy tố hay
kết án.
Với
chủ trương “Dân tộc Khờ Me cần đào hố để chôn đi quá khứ” Hun Sen đã cản trở
Liên Hiệp Quốc rất nhiều trong việc điều tra tội diệt chủng của chế độ Pol Pot.
Hun Sen cản trở vì bản thân y cũng từng là một sĩ quan Khờ Me Đỏ. Hun Sen nhiệt
tình với lý tưởng CS đến mức bỏ học theo Pol Pot khi còn trong tuổi thiếu niên.
Nhiều chi tiết trong quảng thời gian từ 1975 đến 1979 của cuộc đời y vẫn còn
trong vòng bí mật. Khi chôn quá khứ của Campuchia, Hun Sen muốn chôn đi quá khứ
tội lỗi của mình.
Tình trạng kẻ sát
nhân và gia đình những người bị sát hại vẫn còn sống chung làng, chung xóm,
chung thành phố không chỉ phổ biến tại Campuchia nhưng cũng rất phổ biến tại Huế sau vụ Thảm sát Tết Mậu
Thân 1968.
Số
người bị giết trong vụ Thảm sát Tết Mậu Thân khác nhau tùy theo nguồn điều tra
nhưng phần lớn công nhận số người bị giết lên đến nhiều ngàn người và “kẻ thù
nhân dân” không chỉ là công chức chính quyền VNCH mà còn rất đông sinh viên,
học sinh, phụ nữ, trẻ em và ngay cả một số giáo sư ngoại quốc.
Ông
Võ Văn Bằng, Nghị viên tỉnh Thừa Thiên và cũng là Trưởng Ban Truy Tìm và Cải
Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, kể lại:
“Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố,
người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt
xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại
nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số
người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.”
Tài
liệu liên quan đến Thảm sát Tết Mậu Thân rất nhiều, từ điều tra của các nhà
nghiên cứu nước ngoài cho đến các nhân chứng sống Việt Nam. Đến nay, thành phần được nghĩ đã gây ra biến cố đầy tang thương cho dân
tộc Việt Nam này là những người Huế “nhảy núi”. Họ là những người bỏ trường, bỏ
làng xóm, bỏ cố đô lên rừng theo CS và Tết Mậu Thân đã trở lại tàn sát chính
đồng bào ruột thịt của mình. Họ là những kẻ vừa được giải thoát khỏi
nhà giam Thừa Phủ đưa lên núi huấn luyện vài ngày rồi trở lại giết chết những
kẻ bị nghi ngờ đã bỏ tù họ.
Không
giống quân đội chính quy tấn công Huế, những du kích nằm vùng, những thanh
niên, sinh viên, học sinh là những người sinh ra và lớn lên ở Huế, thuộc từng
tên phố tên đường, biết tên biết tuổi từng người. Họ lập danh sách và đến từng
nhà lừa gạt người dân bằng cách “mời đi trình diện” rồi sẽ trả về nhà ăn Tết.
Những người nhẹ dạ đi theo. Mà cho dù không nhẹ dạ cũng chẳng ai nghĩ mình sắp
bị chôn sống chỉ vì làm chức liên gia trưởng của năm bảy gia đình, ấp trưởng một
ngôi làng nhỏ, xã trưởng của vài trăm dân. Kết quả, từng nhóm, từng đoàn người
lần lượt bị đem ra “tòa án nhân dân” và kết án tử hình.
Người “nhảy núi” nổi tiếng nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Ngày
12 tháng 7 năm 1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời câu hỏi của nhà văn Thụy Khuê
về sự liên quan của ông đối với vụ Thảm sát Tết Mậu Thân: “Sự thực là tôi đã
từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966, và chỉ trở lại
Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu Thân 1968,
tôi không có mặt ở Huế” và ông cũng thừa nhận Thảm sát Tết Mậu Thân là có
thật chứ chẳng phải “Mỹ Ngụy” nào dàn dựng “Điều quan trọng còn lại tôi xin
ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là
nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà
nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi
dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác
được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.
Khi
được hỏi ai là những người phải chịu trách nhiệm, Hoàng Phủ Ngọc Tường phát
biểu “Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những
người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” và tiếp tục nêu thêm chi tiết
chính Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân thừa nhận trong tạp chí
Sông Hương “Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những
người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi.”
Tóm
lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường trong buổi phỏng vấn dành cho nhà văn Thụy Khuê xác
nhận ông ta không có mặt ở Huế trong suốt thời gian Huế bị CS chiếm đóng và
những kẻ sát hại thường dân vô tội là do các “lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở
Huế” chủ trương.
Tuy nhiên 15 năm
trước đó, ngày 29 tháng 2 năm 1982, trong buổi phỏng vấn truyền hình dài 15
phút dành cho hệ thống WGBH, Hoàng Phủ Ngọc Tường thừa nhận việc dư luận đang
tố cáo ông là đúng, nghĩa là chính ông đã có mặt tại Huế: “Tôi đã đi trên
những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu
…Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra ..” và ông cho rằng một
số người dân Huế chết thảm thương là do sự trả thù của chính người Huế với
người Huế “chính nhân dân đã căm thù quá lâu, đó là những người đã bị chính
nó tra tấn, chính nó đã làm cho tất cả gia đình phải bị đi ở tù ra ngoài đảo
v.v. và đến khi cách mạng bùng lên họ được như là lấy lại cái thế của người
mạnh thì họ đi tìm những kẻ đó để trừ như là trừ những con rắn độc mà từ lâu
nay nếu còn sống thì nó sẽ tiếp tục nó gây tội ác trong chiến tranh.”
Nếu phân tích theo
thời gian và diễn biến chính trị thế giới, đặc biệt sự sụp đổ của phong trào CS
quốc tế, câu trả lời của Hoàng Phủ Ngọc Tường vào năm 1982 là thành thật và sát
với thực tế Mậu Thân nhất. Trong giai đoạn chuyên chính vô sản vài năm sau 1975,
không chỉ ông ta mà cả các lãnh đạo CSVN vẫn nghĩ “con đường tất yếu” là con
đường “tiến nhanh, tiến mạnh, tiếng vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Không có
một thế lực nào cản trở sức chảy của “ba dòng thác cách mạng”. Vào thời điểm
1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng những không sợ gì phải che giấu mà còn xem đó
như một thành tích cần được nêu ra. Xem
đoạn phim, khuôn mặt Hoàng Phủ Ngọc Tường đằng đằng sát khí khi diễn tả việc
giết một viên chức VNCH: “chỉ
lấy lại mạng sống của một người, giá đó rất nhẹ và công bằng” .
Thái
độ đó hoàn toàn khác với giọng ôn tồn khi ông ta nhắc lại lời của Đại tá CS Lê
Minh như thay cho chính mình 15 năm sau “bây giờ, là những người lãnh đạo kế
nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu
Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân
nhân của họ”. Thời gian đổi thay, lịch sử đổi thay và con người cũng thay đổi. Không
phải chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường mà cả những cựu lãnh đạo CS Đông Âu, một thời
giết người không chút xót thương, sau 1990 cũng trả lời báo chí với giọng ngọt
ngào như thế.
Nhiều
bạn hữu của Hoàng Phủ Ngọc Tường như tác giả Ngô Minh viết trên talawas 2008,
cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường “trong suốt những năm lên “xanh” ở A Lưới, Hoàng
Phủ Ngọc Tường không được phân công về thành phố hay đồng bằng một chuyến nào
cả” mà không biết hay cố tình bỏ qua sự kiện 26 năm trước chính Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã xác nhận mình ở Huế với những tình tiết mắt thấy tai nghe của một
người trong cuộc.
Hai
buổi trả lời phỏng vấn hoàn toàn trái ngược chứng tỏ Hoàng Phủ Ngọc Tường phải
có một khó khăn để giải thích sự liên hệ của mình đến vụ Thảm sát Mậu Thân. Lời
phát biểu của ông cho thấy một điều, những người bị giết chắc chắn biết người
giết mình là ai.
Không
giống Hoàng Phủ Ngọc Tường mâu thuẫn, hai ông Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan từ trên
núi theo đoàn quân CS đánh vào Huế. Hai ông không từ chối điều này nhưng
đều phủ nhận đã có liên hệ gì với Thảm sát Mậu Thân. Trong bài viết nhân đọc
bài “trịnh công sơn – Những hoạt động nằm vùng” Hoàng Phủ Ngọc Phan khẳng định:
“Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề
giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con
thú trên rừng chứ đừng nói là con người.”
Nhà
văn Nhã Ca kết án ông Nguyễn Đắc Xuân trong Giải Khăn Sô Cho Huế vì đã “đích
tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố để
xử tử” và ông Nguyễn Đắc Xuân đáp lại trong bài Hậu Quả Của “Cái Chết” của tôi:
“Còn tôi, một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm rưởi, không có
quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như Nhã Ca viết thì cũng không thể
làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm, làm sao tôi có thể thoát được
sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là những người sau nầy không
còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa…”
Chuyện
“thoát ly chưa đầy một năm rưỡi” không chứng minh được ông ta không có quyền
giết người, trái lại cũng có thể giải thích ngược, càng tham gia trễ càng phải
chứng tỏ nhiệt tình cách mạng cao độ, càng phải giết nhiều người, càng phải lập
nhiều công. Nói thế không phải để đánh bồi thêm một người đã ngã nhưng cho thấy
lời biện bạch của ông không thuyết phục.
Trong
tinh thần “Lợi ích của sự ngờ” (Benefit of the doubt), tạm cho những lời người
khác kể về các ông chưa đủ bằng chứng kết tội, tuy nhiên, các ông Hoàng Phủ
Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân, những thành viên tích cực của phong trào đấu
tranh đô thị, hoạt động 26 ngày trong lòng thành phố Huế bị rơi vào tay các ông
với nhiều ngàn người dân vô tội bị giết bằng những cách dã man hơn cả bọn diệt
chủng Pol Pot mà các ông nói rằng không biết gì, không thấy gì thì trẻ con ngây
thơ cũng không tin được.
Và
không chỉ ba ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan mà
cả thế hệ “nhảy núi” ở Huế trong đó rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhà văn,
nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến nay vẫn không biết gì, không thấy gì, không
viết gì về Thảm sát Tết Mậu Thân thì quả là chuyện lạ. Hãy thử đặt mình trong
vị trí của gia đình các nạn nhân vụ Thảm sát Huế, các ông có nghĩ rằng chính
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân hoặc đã giết hoặc
biết chắc ai đã giết thân nhân các ông các không?
Lẽ
ra Thảm sát Tết Mậu Thân phải là nguồn thôi thúc cho nhiều tác phẩm văn học lớn
nói lên sự đau khổ, sự chịu đựng tận cùng của đồng bào Huế nói riêng và dân tộc
Việt Nam nói chung. Lẽ ra những người đang bị dư luận kết án, nếu thật sự không
tham dự vào cuộc tàn sát, thay vì than mây khóc gió trong văn chương hay lao
đầu vào cơm áo, nên dành phần còn lại của đời mình đi tìm cho ra cội nguồn gốc
rễ để vừa giải oan cho đồng bào mà cũng minh oan cho chính mình. Gia đình nạn
nhân còn đó, nhân chứng còn đó, hầm hố còn đó, bạn bè còn đó, chứng tích còn
đó, chế độ còn đó. Có thể người đọc vì sự công phẫn chưa nguôi, sẽ không tin
hết các điều các ông các bà viết nhưng nếu đúng rồi lịch sử sẽ tin. Nếu không làm thế, cơ chế độc tài này chắc
chắn sẽ tàn lụi nhưng tên tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan,
Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v.. mãi mãi vẫn là những dấu đen ngàn
đời không phai.
Dư
luận khắt khe nhưng không bất công. Suốt 42 năm, các ông các bà có rất nhiều cơ
hội để làm sáng tỏ một sự kiện lịch sử mà các ông các bà từng tham dự, nhưng
ngoại trừ việc phải trả lời vài buổi phỏng vấn rải rác đó đây, các ông các bà
im lặng. Kết án lại những người kết án không phải là cách trả lời mà nhân dân
Việt Nam đang muốn biết. Ông Nguyễn Đắc Xuân được gọi là “nhà Huế học” nhưng
Huế không chỉ có sông Hương, núi Ngự, lăng tẩm, đền đài mà còn có Bãi Dâu, Khe
Đá Mài, khu Gia Hội và hàng chục ngôi mồ tập thể khác.
Đời sống của một dân
tộc không chỉ gồm những thời đẹp đẻ, vinh quang mà còn cả những giai đoạn đau
buồn, tủi nhục. Tại sao ông không viết? Phải chăng những người “nhảy núi” ở Huế
cũng giống như Hun Sen hay tên Khờ Me Đỏ giết chồng bà Samrith Phum năm 1977,
đang cố chôn đi quá khứ ? Sự im lặng của các ông các bà không phải là một công
án thiền mà là lời tự tố cáo lớn tiếng nhất.
Dân
tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ suy vi và phân hóa nhưng sự kiện một số
người dã tâm tàn sát nhiều ngàn người Việt khác trong chỉ vài tuần bằng các
phương tiện phi nhân chưa từng có như ở Huế là lần đầu. Vết thương Mậu Thân sẽ
không bao giờ lành một khi tội ác chưa được đưa ra ánh sáng. Nền tảng của hòa giải là công lý và sự thật chứ không phải che đậy và
lãng quên.
Nhiều
tác giả đã viết về Thảm sát Mậu Thân. Những dữ kiện trong bài viết này không có
gì mới mà đã được nhắc đi nhắc lại. Dụng ý của kẻ viết bài này chỉ muốn nhấn
mạnh một điều rằng, nhiều trong số những người “nhảy núi” còn sống ở Huế hay
trong và cả ngoài nước, nhưng chắc không sống bao lâu nữa. Tuổi tác của các ông
các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời gian còn lại như tiếng chuông ngân đã quá
dài. Tất cả sẽ là không. Các ông các bà ra đi không mang theo gì cả nhưng sẽ để
lại rất nhiều. Vẫn biết con người khó tự kết án chính mình nhưng các ông, các
bà vẫn còn nợ dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ mai sau, câu trả lời cho cái
chết của nhiều ngàn dân Huế vô tội.
Ngọn
nến trước khi tắt thường bật sáng, vì tương lai dân tộc, các ông các bà hãy
sáng lên sự thật một lần trước ngày chết.
Trần Trung Đạo (Facebook)
No comments:
Post a Comment