BÊN THẮNG CUỘC - HUY
ĐỨC
QUYỂN II : QUYỀN
BÍNH
PHẦN
IV : TAM NHÂN
Chương
18: Tam nhân phân quyền
Cho dù không chấp
nhận tam quyền phân lập nhưng quyền lực nhà nước trong thập niên 1990 cũng có
“cân bằng và giám sát” bởi sự phân quyền của tam nhân: Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ
Văn Kiệt (Bộ ba/ Gỡ cấm
vận/ “Đa phương hóa”/ Tổng cục II/ Đất quân đội/ Hóa giá nhà/ Đường dây 500)
*
*
Về mặt lý thuyết, chủ tịch Quốc hội nằm trong “tứ trụ” nhưng
khi viết lời tựa cho
cuốn Đại tướng Lê Đức Anh, ông Đỗ Mười chỉ nhắc
đến Tổng bí thư, chủ tịch nước và thủ
tướng. Ông Mười viết: “Ba chúng tôi về quan điểm đường lối, đối nội, đối
ngoại trên các lĩnh vực nói chung đều nhất trí với
nhau, có việc gì chưa thật thống nhất
thì đưa ra tập thể Bộ Chính trị bàn để đi đến thống nhất”. Rất khó để tìm được
bằng chứng về sự không nhất trí giữa ba
ông thông qua các biên bản họp Bộ Chính trị. Khi xuất hiện trước công
chúng, cả ba đều đứng cạnh nhau tươi cười, và sinh
thời, họ chỉ dành cho nhau những lời tốt đẹp. Nhưng đằng sau sự yên tĩnh trên bề mặt ấy, quyền lực được
ba ông chế ước lẫn nhau một cách chặt chẽ
trong thế chân kiềng.
Bộ ba
Không gian chính trị trong thập niên 1990 đã rút ngắn khoảng cách
giữa các giai tầng trong xã hội Việt Nam. Trong các thập
niên trước, chỉ có các nhà báo thực sự cung đình như Thép Mới, Hoàng Tùng, Bùi Tín… mới mong có thể tiếp cận được những nhà lãnh
đạo như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng.
Giữa họ có một khoảng cách xa vời với không chỉ các thường dân mà còn với cả
các uỷ viên trung ương, thậm chí cả với nhiều uỷ viên
Bộ Chính trị.
Tuy được truyền thông nhà nước mô tả như là một nhà lãnh đạo giản
dị, trên thực tế, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh vẫn là một
người khó gần. Theo ông Nguyễn Đình Hương(413): “Ông Linh thường cấm những uỷ viên Trung ương có khuyết điểm như Hà
Trọng Hoà, Phạm Song… vào họp Trung ương một
cách vô nguyên tắc”. Thế hệ Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, tuy vẫn còn
được coi như “cha, chú”, đã bắt đầu ý thức được họ
đang ở trong thời kỳ chuyển tiếp từ giai đoạn cầm
quyền với vai trò lãnh tụ sang giai đoạn cầm quyền như các nhà chính trị.
Đầu thập niên 1990, Quốc hội bắt đầu họp dài ngày hơn, vườn hoa
Nhà Kiếng và hành lang Hội
trường Ba Đình bắt đầu trở thành nơi tiếp xúc giữa
các nhà lãnh đạo trung ương với các đại biểu là quan
chức địa phương và các nhà doanh nghiệp. Đây cũng là khu vực mà báo giới có thể
tiếp xúc phỏng vấn trực tiếp các Bộ trưởng,
các trưởng ban của Đảng, Tổng bí thư, chủ tịch nước và thủ tướng.
Chủ tịch Lê Đức Anh không có mặt thường xuyên bên ngoài vườn hoa.
Tuy ông luôn tỏ ra thân thiện nhưng uy lực của “vị tướng
một mắt” vẫn làm e ngại không ít người. Chỗ ông đứng không mấy khi có vòng trong vòng ngoài, và báo chí cũng không có cho ông
nhiều câu hỏi. Ngược lại, Tổng bí thư Đỗ Mười
xuất hiện ở đâu là kéo theo đó một đám đông. Tổng bí thư có thể “hùng biện” cho
đến khi các nhà báo lần lượt lẻn đi vì ông bắt
đầu lặp lại những điều đã nói trong các giờ giải lao trước đó. Ông Võ Văn Kiệt thì khác. Sau khi Trợ lý Vũ Quốc Tuấn “bật
mí” vài điều muốn giải toả của Thủ tướng với
các nhà báo quen biết, ông Kiệt sẽ tươi cười xuất hiện ở tam cấp của Hội trường
Ba Đình, bắt đầu một cuộc họp báo không chính
thức.
Với Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt, ông Đỗ Mười bao giờ cũng thể hiện
sự tương kính. Khi có việc gì cần trao đổi, đích thân ông
Mười đi thẳng vào “Thành” gặp ông Lê Đức Anh hoặc ra tận sân tennis gặp ông Võ Văn Kiệt. Nhưng với Chủ tịch Quốc hội Nông Đức
Mạnh thì ông lại thường thể hiện cách “lãnh
đạo” rất khác thường. Khi Quốc hội không phê chuẩn ông Đào Đình Bình, một ứng
cử viên trẻ vào chức Bộ trưởng Bộ Giao thông,
từ hàng ghế đầu, ông Đỗ Mười đã nhấp nha nhấp nhổm. Đến giờ giải lao, ông bước ngay lên bục Chủ tịch Đoàn, đuổi
theo ông Nông Đức Mạnh ra tận hậu phòng của
Hội trường Ba Đình. Ông Đỗ Mười dí tay sát cổ áo Chủ tịch Quốc hội và nói: “Anh
lãnh đạo Quốc hội thi hành nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng như thế à?”(414).
Ông Đỗ Mười sùng bái nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và chấp hành
nghị quyết một cách chân thành. Năm 1958, khi làm Bộ trưởng
Bộ Nội thương, ông chỉ huy đánh tư sản ở Hà Nội. Hai mươi năm sau, cũng chính ông dẫn “đại quân” vào Sài Gòn đánh tư sản ở miền
Nam. Nhưng đến Tết năm 1989, khi đã trở thành
người đứng đầu của một chính phủ thi hành nghị quyết “đổi mới”, ông lại lên
tivi “chúc mọi người làm ăn phát tài”. Theo
ông Trần Xuân Giá: “Khi về làm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, từ tư duy cho đến cách điều hành của ông Đỗ Mười thay đổi một
cách không ngờ. Ông lắng nghe và thấy được
những cân đối lớn của nền kinh tế, có khả năng tổng hợp và đưa ra được những
quyết định sắc sảo”. Ông Đỗ Mười cũng chọn
mang theo sang Văn phòng Tổng bí thư những người gần gũi trong đội ngũ chuyên gia đã giúp ông chống lạm phát thành
công như Lê Đức Thuý, Nguyễn Văn Nam… Đặc
biệt, không ít người bất ngờ khi ông chọn ông Hà Nghiệp làm người giúp việc.
Ông Hà Nghiệp được coi là một trong những
người có đóng góp trong tiến trình thay đổi tư duy của ông Trường Chinh. Sau khi ông Nguyễn Văn Linh lên Tổng bí thư,
ông Trường Chinh có ý giới thiệu Hà Nghiệp với
hy vọng ông Linh tiếp tục phát triển tư duy đổi mới, nhưng ông Linh gạt đi. Ông
Hà Nghiệp phải sang làm trợ lý cho Tổng bí thư
của Lào rồi về nước “ngồi chơi xơi nước”.
Tháng 8-1991, khi được đưa lên làm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
ông Võ Văn Kiệt đã nhờ ông Hà Nghiệp viết cho mình bài
diễn văn nhậm chức và theo ông Kiệt, ông dự định sẽ mời Hà Nghiệp sang làm việc cho mình. Khi Hà Nghiệp ở không thì không thấy ai
hỏi han, khi ông Kiệt định mời thì ông Đỗ Mười
đã đi trước một bước ra quyết định đưa Hà Nghiệp về làm trợ lý.
Tiểu sử chính thức của ông Đỗ Mười ghi: “Xuất thân từ một gia đình
nông dân, bản thân là thợ sơn”. Nhưng, khi trở thành Tổng bí
thư, theo thư ký của ông, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam, ông lại có tham vọng trở thành một nhà lý luận. Bên cạnh hai nhà Marxist
cứng rắn là Đào Duy Tùng và Nguyễn Đức Bình,
ông trọng dụng Lê Xuân Tùng và tới đại hội giữa nhiệm kỳ, đưa thêm một nhà lý
luận khác, ông Nguyễn Phú Trọng, vào Trung ương.
Sự say sưa của ông đã tập hợp thêm được Nguyễn Hà
Phan, Lê Khả Phiêu, hai nhân vật được ông bổ sung vào Bộ Chính trị trong hội
nghị giữa nhiệm kỳ tháng 1-1994.
Nhưng, theo ông Nguyễn Văn Nam: “Ông Đỗ Mười vẫn là một con người
hành động chứ không phải
là một con người lý luận. Cho nên khi điều hành bên
chính phủ, ông có thể nhận biết thực tế để có những
quyết định phù hợp; khi làm công tác Đảng, đụng đến các vấn đề lý luận thì ông
phải trông cậy vào Đào Duy Tùng, Nguyễn Đức
Bình, về sau có thêm Nguyễn Phú Trọng và chịu ảnh hưởng không ít từ những người này”.
Đỗ Mười tên thật là Nguyễn Duy Cống, sinh ngày 2-2-1917, tại xã
Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Chú ruột ông là Nguyễn
Thọ Chân, Bộ trưởng Lao động trong Chính phủ Phạm Văn Đồng. Thuở hàn vi, ông có hai người bạn thân là Hoàng Hữu Nhân và
Phạm Viết Đào. Cả hai đều sắc sảo, ông Nhân
từng có những ý định đổi mới táo bạo từ khi còn là bí thư Thành uỷ Hải Phòng,
sau Đại hội VI làm trưởng Ban Công nghiệp
Trung ương nhưng phẫn uất, có lúc phải nhảy lầu, vì bị Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh o ép. Ông Đào thì ngang ngạnh, vui vẻ
hưu trí với chức thứ trưởng Bộ Ngoại thương,
thậm chí còn “đàn đúm” với Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiên Giang, những người từng ủng
hộ Trần Xuân Bách. Ông Đào thường gọi những
người được Đỗ Mười trọng dụng như Đào Duy Tùng, Nguyễn
Đức Bình… là lũ “chim ri, chim sẻ”.
Ông Đỗ Mười sống gần như độc thân trong ngôi nhà Tây phía sau Phủ
Chủ tịch, vốn là nơi ở của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Người gần gũi ông nhất suốt
gần ba thập niên tại ngôi nhà này là bà Thuận,
người nấu cơm của ông. Năm 1997, ông Đỗ Mười chuyển về sống trong biệt thự số
11 Phạm Đình Hổ. Bà Thuận, lúc này đã có một
người con, không về ở cùng. Trong phòng riêng của mình, ông Đỗ Mười cho treo bức ảnh chụp ông và Fidel Castro, cho
đặt một chậu địa lan bằng nhựa… Bàn làm việc
của ông đầy những tài liệu, bài báo chi chít những nét gạch đỏ. Một chiếc phản
cá nhân trải nệm bông gòn, bọc vải hoa màu đỏ
sẫm, được kê gần đó. Ông thường đặt lưng trên chiếc giường này sau những giờ xem tài liệu.
So với Lê Đức Anh, lý lịch tham gia cách mạng của ông Đỗ Mười rõ
ràng hơn, và so với ông Võ
Văn Kiệt, Đỗ Mười là bậc tiền bối cả về tuổi đời và
tuổi Đảng(415). Ông Đỗ Mười trở thành uỷ viên dự
khuyết Trung ương Đảng từ năm 1955. Ông Võ Văn Kiệt là uỷ viên dự khuyết năm
1960. Trong khi tới năm 1976, ông Lê Đức Anh
mới vào Trung ương. Đỗ Mười giữ chức phó phủ tướng từ năm 1969, nhưng, năm 1982, ở Đại hội V, ông bị đặt thứ ba trong
hàng kế cận do Tổng bí thư Lê Duẩn và nhà tổ
chức quyền biến Lê Đức Thọ sắp xếp: Tố Hữu, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười.
Ngày 12-8-1991, ba ngày sau khi trở thành chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng, ông Võ Văn Kiệt nhận xét: “Đồng chí Tổng
bí thư Đỗ Mười vừa là người kế thừa những kinh nghiệm rất lớn của đồng chí
Nguyễn Văn Linh, vừa có những kinh nghiệm lớn về quản
lý nhà nước. Một khi đồng chí lãnh đạo cao
nhất hiểu và thông cảm sâu sắc những khó khăn của công tác quản lý nhà nước thì
đó là một thuận lợi lớn cho chúng tôi”(416).
Theo ông Vũ Quốc Tuấn: “Sáu tháng sau, ông Kiệt mới nhận ra là mình nhầm. Ông Kiệt nói với tôi: Tôi tưởng anh Mười đã từng
làm việc nhiều năm ở chính phủ, hiểu biết công
việc chính phủ thì sẽ là một thuận lợi cho tụi mình. Không ngờ, ông biết nhiều
việc của chính phủ quá thì ông lại can thiệp
nhiều hơn, làm khó mình hơn”.
Theo ông Trần Xuân Giá: “Từ đầu đến cuối, ông Đỗ Mười không ủng hộ
ông Kiệt, cả về lối sống lẫn quan điểm. Cuối năm 1981,
một buổi chiều sau những giờ họp căng thẳng, tôi cùng ông tản bộ trên đoạn đường trước Lăng, ông cho tôi biết tin Võ Văn Kiệt
được điều ra Hà Nội. Khi đó, ông Đỗ Mười đã
dùng những câu, những từ rất nặng nề mà tôi không tiện nhắc lại để nói về ông
Kiệt. Ông Mười cho rằng: Thằng đó sẽ chết vì
quan điểm kinh tế thị trường của nó”. Ông Phan Văn Khải cho rằng: “Ông Đỗ Mười đổi mới là do áp lực chứ không phải do chuyển
biến về nhận thức như ông Trường Chinh. Ông
cũng không được học hành căn bản để hiểu các vấn đề một cách có hệ thống”.
Theo ông Đoàn Mạnh Giao: “Thời kỳ Đỗ Mười - Võ Văn Kiệt xuất hiện
thuật ngữ Nhà Đỏ - Nhà
Trắng hay Hùng Vương Đông - Hùng Vương Tây để chỉ mối
quan hệ giữa bên Đảng và bên Chính phủ”.
Nhưng, theo ông Phan Văn Khải: “Khi còn cầm quyền, ông Kiệt không thèm nghe Đỗ
Mười, ông Mười nói gì thì nói, ông cứ làm theo
kiểu của ông”. Ông Khải thừa nhận đây là lý do mà khi trả lời phỏng vấn báo Thanh Niên ngay khi vừa nhận chức, ông
nói: “Về bản lĩnh chính trị tôi không thể nào
so sánh với đồng chí Võ Văn Kiệt”(417). Khi ông Kiệt làm “phó”, theo ông Vũ
Quốc Tuấn: “Những việc ông Đỗ Mười chủ trì thì
ông Kiệt cũng ít tham gia. Có nhiều cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, ông Kiệt không dự. Ông Kiệt tập trung cho những
công trình của mình ở Đồng bằng sông Cửu Long,
đặc biệt là chương trình khẩn hoang Đồng Tháp Mười. Ông Mười thấy ông Kiệt chủ
động quá nên lại kéo ông Kiệt về, hai ông tỏ
ra tâm đầu ý hợp”.
Khi trở thành thủ tướng, ông Võ Văn Kiệt có các thành viên chính
phủ như Phan Văn Khải, Đỗ Quốc Sam, Lê Xuân Trinh và cả
những người từng được cất nhắc bởi ông Đỗ Mười như Trần Xuân Giá, Nguyễn Đình Lộc… Họ là những nhà kỹ trị, giúp ông thiết kế
các thiết chế pháp lý cho nền kinh tế thị
trường vận hành. Ông Kiệt tập trung thời gian của mình cho những công trình
quốc gia và tích cực hoạt động trong lĩnh vực
đối ngoại. Trong thập niên 1990, “nụ cười Võ Văn Kiệt” trở thành một gương mặt nổi bật không chỉ ở trong nước. Nhưng, uy tín
trong dân không phải bao giờ cũng trở thành
sức mạnh trong một nền chính trị mà quyền lực được giải quyết trong nội
bộ(418).
Tướng Lê Đức Anh dường như không tham gia tranh luận về ý thức hệ,
về kinh tế thị trường. Chủ
tịch nước, theo Hiến pháp, là một chức danh không mấy
thực quyền, nhưng trong thời gian giữ cương vị
này, ông Lê Đức Anh đã tạo ra được một ngoại lệ.
Năm 1986, khi từ Campuchia trở về thay thế tướng Lê Trọng Tấn làm
Tổng tham mưu trưởng, tướng Lê Đức Anh không ở những căn
biệt thự dân sự bên ngoài mà chọn một căn nhà thuộc cụm nhà khách Bộ Quốc phòng. Đó là một căn nhà hai tầng được xây từ
thời Pháp nằm trong khuôn viên Thành Hà Nội
cũ. Tướng Anh thường vào ra Thành bằng cổng chính, 51B Phan Đình Phùng nhưng
có thể đón khách từ cổng phụ, số 5 Hoàng Diệu. Bà Võ
Thị Lê, người vợ thứ hai mà ông cưới năm 1956,
sau khi tập kết ra Bắc, sống như hình với bóng với ông trên tầng hai, trong khi
những người giúp việc thì ở tầng dưới hoặc các
ngôi nhà nằm trong khuôn viên.
Ông Lê Đức Anh sinh ngày 1-12-1920 tại Truồi, một làng quê nghèo
đói bên phá Tam Giang, thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa
Thiên. Cha ông vừa làm ruộng vừa có thêm nghề thuốc nên cuộc sống gia đình, theo ông, đỡ cực hơn mọi người. Ông học vỡ lòng ở
trong làng rồi ra Huế học tiểu học. Năm mười
một tuổi, ông được gửi ra nhà chị gái, có chồng đang dạy học ở thành Vinh học
tiếp nhưng cũng chỉ được thêm một, vài năm.
Học vấn của ông Lê Đức Anh ở mức đọc thông viết thạo.
Ông Lê Đức Anh bắt đầu được “giác ngộ” thông qua những câu chuyện
về “một người có tên là
Nguyễn Ái Quốc” do hai người cậu ruột của ông, Lê Bá
Giản và Lê Bá Dị, kể. Theo lý lịch tự khai: Lê
Đức Anh chính thức tham gia cách mạng từ năm 1937 và được kết nạp vào Đảng Cộng
sản Đông Dương vào ngày 1-5-1938. Năm 1939,
khi bị đàn áp, một số đồng chí bị bắt, ông lánh vào Đà Nẵng, lên Đà Lạt, rồi đến năm 1942 thì xuống đồn điền cao su Lộc
Ninh. Cuộc hôn nhân với bà Lê cùng với một số
điểm không rõ ràng về thời điểm vào Đảng là hai vấn đề khiến ông Lê Đức Anh
luôn bị những người từng hoạt động với ông xới
lên mỗi khi quyền lực của ông được nới rộng(419).
Ông Lê Đức Anh gặp người vợ đầu tiên, bà Phạm Thị Anh, vào tháng
8-1945, khi ông đang là “uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ phụ
trách tổ chức và quân sự”(420) và bà Bảy Anh đang là phó chủ tịch Hội Phụ nữ xã An Tây, huyện Bến Cát.
Bà Phạm Thị Anh sinh năm 1925, con một gia đình địa chủ nhỏ ở Bình
Dương. Cả mấy anh chị em
đều đi theo Việt Minh, có người đang làm chủ tịch
huyện, có người đang làm bí thư xã. Thời gian ấy, bà Bảy Anh chỉ mới vừa đôi mươi lại được coi là hoa khôi
trong khi ông Lê Đức Anh thì bị rỗ và một bên
mắt bị bệnh vảy cá. Ông Lê Đức Anh “tìm hiểu” bà bằng cách cho mượn sách và mỗi
lần như thế lại kẹp vào một mảnh giấy ghi mấy
chữ. Làm hậu thuẫn cho ông còn có hai tỉnh uỷ viên: Tư Đang và Nguyễn Oanh(421); Tư Đang khi ấy là con nuôi của
gia đình bà Bảy. Nhưng, bà Bảy Anh cho rằng,
việc bà chọn ông Lê Đức Anh chủ yếu vì nếu lấy ông thì bà không phải làm dâu;
ông Lê Đức Anh cũng ngỏ lời đúng khi bà muốn
yên bề gia thất.
Cuộc hôn nhân ngay ngày đầu đã gặp sự cố: Đám cưới vừa bắt đầu thì
có Tây càn, ông Lê Đức Anh
đạp xe chở vợ về bên Hội Phụ nữ rồi quay lại chỉ huy
chống càn. Đứa con đầu lòng của họ ra đời khi bà
Bảy Anh chỉ mới có bầu bảy tháng, bà ngoại cháu đặt tên là Lê Thiếu. Vừa sinh
xong lại gặp càn, y tế xã đưa lên võng gánh
chạy vào rừng, đứa bé nhiễm lạnh, chết. Sau đó, Lê Đức Anh được điều về Khu 8. Năm 1950, khi xuống miền Tây thăm chồng, bà Bảy có
thai đứa con thứ hai. Năm 1951, bà sinh hạ một
người con gái đặt tên là Lê Xuân Hồng.
Sau Hiệp định Geneva, Lê Đức Anh nằm trong số những cán bộ được
đưa ra miền Bắc. Từ Bình
Dương, hai mẹ con bà Bảy Anh xuống thăm chồng. Nhưng
bà quyết định không tập kết ra Bắc như những
người phụ nữ khác. Khi ấy, mấy anh em bà Bảy theo kháng chiến để lại một đám
trẻ con lít nhít, bà không nỡ để cho cha, một
người đàn ông goá vợ phải một mình chăm nom bọn trẻ. Chỉ không lâu trước đó, gia đình bà Bảy Anh đã phải mất ba anh
em trai trong một vụ án oan lớn ở Bến Cát(422).
Lê Đức Anh ra Bắc, thoạt đầu được giao làm sư trưởng Sư đoàn 330,
đóng ở Thanh Hoá; sau được
điều về Bộ Tổng tham mưu làm cục phó Cục Tác chiến.
Thời gian này, quân đội đang chịu cuộc “chỉnh
huấn, chỉnh quân” khốc liệt do cố vấn Trung Quốc chỉ đạo. Trong chi bộ của ông
có hai người bị kiểm điểm nặng, ông và ông Bội
Dong, vì lấy vợ thuộc thành phần tư sản, địa chủ. Cả hai sau đó đều tuyên bố “ly khai với gia đình vợ”(423).
Năm 1956, ông kết hôn với bà Võ Thị Lê, có chồng là một đại uý
quân đội đã hy sinh và đang có một người con riêng. Năm
1957, họ có với nhau một con trai, đặt tên là Lê Mạnh Hà; năm 1959, họ sinh thêm một người con gái, cũng đặt tên là Lê Xuân Hồng.
Giữa thập niên 1960, Lê Xuân Hồng lớn, người
con của ông Lê Đức Anh và bà Bảy Anh, cũng được tướng Trần Văn Trà tổ chức đưa
ra miền Bắc(424). Ở Hà Nội, bà Lê làm y sỹ ở
bệnh viện Hữu Nghị. Những năm ông làm Bộ trưởng Quốc
phòng rồi chủ tịch nước bà luôn ở bên cạnh chăm sóc ông. Đây là thời gian mà
cuộc sống của ông bà được mô tả là cẩn trọng
tới từng chén cơm, viên thuốc.
Gỡ cấm vận
Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt bắt đầu nhiệm kỳ khi “cánh
cửa Trung Quốc” đã được
khai thông. Chuyến đi Bắc Kinh, từ ngày 5 đến
10-11-1991, của Tổng bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt là chặng cuối trong tiến trình bình thường hoá mà
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh bắt đầu và tướng
Lê Đức Anh đóng một vai trò trung gian quan trọng. Sứ mệnh của họ là gỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại và bình thường hoá
quan hệ với Mỹ.
Việc ông Võ Văn Kiệt chọn Thái Lan và các nước ASEAN trước khi tới
Bắc Kinh, mở đầu chuyến
công du ngay sau khi nhận chức chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng là có cân nhắc. Theo ông Vũ Khoan: “Tại
một cuộc họp của lãnh đạo Đảng và Nhà nước bàn về cơ hội thoát khỏi tình thế bị
bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ quốc tế,
trong lúc nghỉ giải lao anh Sáu gọi tôi - đại diện cho Bộ ngoại giao được triệu tập sang dự họp - ra trao đổi ý kiến. Anh đặt
vấn đề: đã có sự nhất trí cao về đánh giá tình hình
và chủ trương phá vây, song ta cần tính kỹ bước đi sao cho có hiệu quả nhất.
Anh gợi ý nên áp dụng chiến thuật ‘hoa sen
nở’, đi từ trong ra, theo đó trước hết cần cải thiện quan hệ với các nước
trong khu vực Đông Nam Á vốn có lợi ích sát sườn
trong quan hệ với ta đi đối với việc bình thường hoá quan hệ với nước láng giềng phương Bắc là Trung Quốc; từ đó tạo ra
thế mới để cải thiện, thiết lập quan hệ với
các nước ở vòng cung thứ hai thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Australia, New Zealand, rồi vươn sang vòng
cung xa hơn là EU; thành công của những bước
đi ấy sẽ tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy Mỹ chấm dứt chính sách cô lập, cấm vận
nước ta”.
Giữa ba ông gần như không có bất đồng trong các nỗ lực nhằm thoát
ra khỏi lệnh cấm vận thương mại của Mỹ. Tướng Lê Đức Anh
thừa nhận: “Chúng ta bị dồn tới chân tường”. Lệnh cấm vận mà người Mỹ áp dụng với Việt Nam đã khoá chặt cửa gần hai thập
niên: Việt Nam không thể nhập khẩu công nghệ mới
từ các nước phương Tây, không thể làm ăn trực tiếp với các công ty đa quốc gia,
tài khoản bị phong toả, không thể hưởng các
trợ giúp đầy đủ từ ngay cả các định chế quốc tế như World Bank, IMF…
Bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ gần như bế tắc kể từ khi những
nỗ lực dưới thời Tổng thống Jimmy Carter thất bại. Hai
trở ngại chính cho tiến trình này là việc Việt Nam đóng quân ở Campuchia và việc tìm kiếm tù nhân và người Mỹ mất tích
trong chiến tranh (POW /MIA). Cho tới lúc đó,
Việt Nam thường chỉ được người Mỹ nhớ tới như là tên của một cuộc chiến tranh,
cuộc chiến được biết theo cách mô tả của
Hollywood.
Ngay sau Hiệp định Paris, 27-1-1973, 590 tù binh Mỹ bị bắt ở Việt
Nam, Lào và Campuchia đã được trao trả. Tuy nhiên, vẫn còn
2.646 người Mỹ bị xếp vào danh sách mất tích. Không ai biết bao nhiêu trong đó bị chết mà không tìm được hài cốt. Việc tìm kiếm
MIA gần như phải đình lại sau ngày 30-4-1975.
Trong khoảng từ tháng 2-1973 đến tháng 3-1975, người Mỹ chỉ xác nhận được sáu
mươi ba bộ hài cốt trong đó có hai mươi ba
chết trong thời gian bị giam giữ và năm trường hợp chết tại Lào. Trong thập niên 1980, một số người Việt vượt biên đến
Mỹ đã đổ thêm dầu vào lửa khi nói là họ vẫn
nhìn thấy tù binh Mỹ ở Việt Nam. Nhiều người Mỹ tin rằng Hà Nội đã nói dối về
số lượng tù nhân chiến tranh.
Những cố gắng tìm kiếm của Chính phủ Mỹ ở Lào và Campuchia sau năm
1975 không làm hài lòng
người dân. Một số cựu binh Mỹ trong vai người hùng đã
quay lại Đông Dương trong các nỗ lực được gọi
là “chiến dịch giải cứu” tù binh. Hollywood làm trầm trọng thêm vấn đề POW /MIA
khi để trí tưởng tượng của mình tô vẽ những
cuộc phiêu lưu của những cựu binh này. Trong thập niên 1980, có lẽ không mấy người Mỹ không biết đến Chuck Norris và
Sylvester Stallone. Đặc biệt là Sylvester Stallone
trong vai Rambo. Trong khi tù binh Mỹ được mô tả là đã bị chính phủ của mình bỏ
quên thì hình ảnh Stallone và Chuck Norris vạm
vỡ, quả cảm trên những bích chương quảng cáo - “Chiến tranh chưa kết thúc cho đến khi chàng trai cuối cùng trở
về” - đã tác động rất lớn đến tinh thần người Mỹ.
Chính quyền của Tổng thống Reagan (1980-1988) phản đối việc bình
thường hoá cho đến khi có sự xác nhận Việt Nam đã rút hết
quân ở Campuchia và có sự hợp tác đầy đủ của Việt Nam nhằm đạt được mức độ cao nhất có thể về việc tìm kiếm những người
mất tích có tên trong danh sách.
Ronald Reagan cũng như người kế nhiệm ông, George H. W. Bush
(1988-1992), đã giao công cuộc tìm kiếm POW /MIA cho Bộ
Quốc phòng, nhằm tránh áp lực của các nhóm vận động hành lang. Năm 1987, Reagan phái tướng về hưu John Vessey đến Hà Nội.
Năm 1988, Hà Nội cho phép các nhóm tìm kiếm
POW /MIA đến hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nhưng vấn đề người Mỹ mất
tích vẫn không nhờ thế mà dịu xuống.
Chính quyền Mỹ liên tục bị chỉ trích là đã che giấu thông tin,
những sản phẩm bịa đặt thường lại được tin cậy hơn
là những thông tin chính thức. Tháng 7-1991, một thăm dò trên tờ Wall Street
Journal cho thấy: 3/4 số người được hỏi tin chính
quyền Mỹ đã không làm đủ những điều cần thiết để
tù binh được trao trả. Tổng thống Nga Boris Yeltsin, tháng 6-1992, đã đổ thêm
dầu vào lửa khi nói với NBC News rằng, một số
tù binh Mỹ có thể đã được chuyển từ Hà Nội đến Liên Xô.
Năm 1991, theo đề nghị của Thượng nghị sỹ Bob Smith, Thượng viện
lập Uỷ ban Đặc biệt về POW
/MIA. Uỷ ban do Thượng nghị sỹ John Kerry, một cựu
binh trong chiến tranh Việt Nam làm chủ tịch. Một
cựu binh khác, Thượng nghị sỹ John McCain(425), tham gia với tư cách uỷ viên.
Tiếng nói của hai ông trở nên có trọng lượng
nhất trong vấn đề này(426).
Từ Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt cũng
đã “đánh vào” tâm lý của dân chúng Mỹ khi ông trả lời
phỏng vấn báo Time, tuần lễ từ ngày 7 đến 13-1-1992, nói rằng: “Sự nghi ngờ chúng tôi còn giam giữ một số người Mỹ còn sống… là một
điều ngớ ngẩn. Động cơ nào có thể thúc đẩy
chúng tôi làm điều đó?”. Báo Time hỏi: “Làm sao để dân chúng Mỹ có thể tin vào
sự đảm bảo của các ông?”. Ông Kiệt: “Ở Việt
Nam có hàng chục ngàn gia đình có người thân bị mất tích. Tôi cũng là một nạn nhân. Gia đình tôi có bốn người, vợ và
ba con của tôi, bị mất tích trong chiến tranh.
Trực thăng Mỹ đã giết 300 người trong một trận càn dọc sông Sài Gòn, vợ và con
trai, một con gái của tôi đã mất trong trận
càn đó. Tôi có thể thấu hiểu được nỗi đau của tất cả các gia đình Mỹ có người thân bị mất tích trong chiến tranh… Tôi mong muốn dân
chúng Mỹ hiểu được hoàn cảnh của chúng tôi
trong vấn đề này. Chúng tôi xin mời bất cứ người nào nghi ngờ còn người Mỹ sống
ở Việt Nam hãy đến Việt Nam mà tìm hiểu”.
Cuối năm 1992, khi tới Hà Nội lần thứ hai, ông John Kerry đã đề
nghị Chủ tịch nước Lê Đức Anh cho phép một cộng sự của
ông, Thượng nghị sỹ Bob Smith xuống đường hầm ở khu vực lăng Hồ Chí Minh để tận mắt thấy không có lính Mỹ bị giam dưới lăng như
Hollywood nói.
Vào cuối nhiệm kỳ của mình, Tổng thống George H. W Bush đã đi được
một quãng dài trong “lộ
trình” do phía Mỹ đơn phương đưa ra để bình thường
hoá. Đáp lại việc Việt Nam chấp nhận một văn phòng
của Mỹ tại Hà Nội để xử lý vấn đề POW /MIA, Mỹ bãi bỏ lệnh hạn chế đi lại trong
bán kính hai mươi lăm dặm đối với các nhà
ngoại giao Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc, đồng thời cho phép người Mỹ được đi đến Việt Nam một cách có tổ chức, thay vì chỉ
được đi theo từng cá nhân. Tháng 12-1991, các
công ty Mỹ được phép có một số hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Tháng 11-1992,
lệnh hạn chế liên lạc điện thoại được bãi bỏ, dịch vụ
gọi điện trực tiếp giữa Mỹ và Việt Nam được thiết
lập.
Lệnh cấm vận có thể đã được bãi bỏ nhanh hơn nếu G.H.W. Bush tái
đắc cử. Nhưng ông đã thua
cuộc trước Bill Clinton, một thống đốc chỉ bằng tuổi
con trai ông. Bình thường hoá quan hệ với Việt Nam
sẽ rất khó khăn với Bill Clinton, người đã tránh nhập ngũ thời chiến tranh Việt
Nam, nếu không có tiếng nói của hai cựu binh,
Thượng nghị sỹ Dân chủ John Kerry và Thượng nghị sỹ Cộng hoà John McCain.
Đầu tháng 4-1993, chính quyền Clinton lặng lẽ, thận trọng tìm kiếm
những bước đi tiến tới bình thường hoá với Việt Nam.
Ngày 12-4-1993, tờ Wall Street Journal tuyên bố “Bill Clinton dường như đã ở bên bờ của sự kết thúc hoàn toàn chiến tranh Việt
Nam”. Nhưng ngay trong ngày hôm đó, tờ New
York Times giật tít lên đầu trang nhất: “Nhiều tài liệu cho thấy năm 1972 Hà
Nội đã dối trá về số lượng tù binh”. Bài báo
được viết bởi Celestine Bohlen, trưởng văn phòng tại Moscow của tờ New York Times. Ngay trong ngày 12-4-1993, Hà Nội tuyên bố
tài liệu này là bịa đặt. Nhưng, cả báo chí và
chính trường Mỹ lúc đó dường như không ai còn đủ sự điềm tĩnh để đánh giá “bản
báo cáo” về sau được chứng minh là nguỵ tạo
này(427). Báo chí Mỹ tuyên bố: “Chúng ta không thể thiết lập quan hệ với những kẻ đã giết tù binh chiến tranh”. Một thăm
dò do Wall Street Journal/NBC thực hiện vào
các ngày 17 và 20-4-1993 cho thấy 2/3 người Mỹ tin rằng tù binh Mỹ vẫn còn bị
giữ tại Đông Nam Á.
Ngày 18-4-1993, tướng John Vessey từ Hà Nội trở về khẳng định với
Tổng thống Bill Clinton, không có cơ sở để tin là vẫn còn
người Mỹ bị giam giữ ở Việt Nam. Tuyên bố này của tướng Vessay tiếp tục bị các tổ chức hoạt động chống Việt Nam trong vấn đề
POW /MIA phản đối. Khi đó, cựu Phó Thủ tướng
Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Hảo đang ở Washington, D.C.. Hơn hai năm trước,
ông đã nhận giúp Hà Nội vận động hành lang.
Khi ông Hảo xuất cảnh năm 1981, ông Võ Văn Kiệt vẫn giữ liên lạc với ông thông qua bà Bùi Thị Mè(428).
Tháng 2-1990, vừa tới Thuỵ Sỹ dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới, ông
Kiệt gọi điện thoại ngay cho ông Hảo, khi ấy đang là một
chuyên gia tư vấn của World Bank. Ông Nguyễn Văn Hảo kể: “Đang ở Haiti, tôi nhận được điện thoại, người đàn ông ở đầu dây
bên kia hỏi tôi có nhận ra ai không. Tôi đề nghị
ông nói lại một lần nữa, rồi kêu lên: Sáu Dân. Tôi hỏi ông đang ở đâu? Ông bảo:
Geneva. Tôi nói: Mai tôi qua”.
Tháng 12-1991, sau khi trở thành chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông
Võ Văn Kiệt mời ông Nguyễn
Văn Hảo trở lại Việt Nam. Ông Kiệt bàn với ông Hảo
việc quay trở lại Washington, vận động Mỹ bỏ cấm
vận và thúc đẩy nhanh tiến trình bình thường hoá. Ông Kiệt không làm việc này
“đơn tuyến”. Ông bố trí để ông Hảo gặp Chủ
tịch Lê Đức Anh và Tổng bí thư Đỗ Mười. Theo ông Hảo: Ông Đỗ Mười coi ông như một “người của mình”. Ông Mười hỏi: “Anh
về đã vào viếng lăng Cụ chưa?”. Ông Hảo trả
lời: chưa. Ông bảo: “Anh nên đi”. Ông Hảo nói: “Vậy anh đưa tôi đi đi”. Thế là
ông Đỗ Mười đích thân đưa ông Hảo viếng lăng
Hồ Chủ tịch.
Sứ vụ của ông Nguyễn Văn Hảo bắt đầu cuối năm 1992, khi ứng cử
viên của Đảng Dân chủ, Bill Clinton dần dần thắng thế.
Thông qua một nhà cung cấp thực phẩm cao cấp, Marc Ashton, ông Hảo đã ba lần tiếp cận được ông Ron Brown. Lần đầu, khi Ron
Brown đang là chủ tịch Uỷ ban Toàn quốc của
Đảng Dân chủ, tổ chức thành công đại hội của Đảng đưa Bill Clinton chính thức
ra tranh cử tổng thống Mỹ. Cuộc gặp gần như
tình cờ khi ông Hảo đang ở nhà Ashton và Brown từ cuộc gặp với các thành viên Đảng Dân chủ ở Virginia trở về ghé ngang. Họ kéo
nhau ra một nhà hàng gần đó. Bữa tối diễn ra
khá thân thiện, Brown còn nói đến việc hợp tác làm ăn với Việt Nam khi giao
thương được tái lập.
Tháng 12-1992, khi cuộc bầu cử đã ngã ngũ với phần thắng thuộc về
Bill Clinton, Ashton đến thăm cô em vợ, Madsen, đang là
“bạn rất thân” của Brown, đang ở trong nhà của chính Brown, rồi rủ Brown cùng ghé lai rai chút đỉnh. Khi Brown đến thì ông Hảo
đã ở đó. Cuộc gặp được viết lại trên báo Time
ngày 11-10-1993 rằng, ông Hảo mang theo một lá thư được viết sẵn của Chính phủ
Việt Nam chúc mừng ông Brown và hy vọng quan
hệ hai nước sẽ tốt đẹp hơn. Brown để lại lá thư trên bàn sau khi nói rằng ông không muốn nhận một lá thư như
thế. Mấy ngày sau, theo đề nghị của Ashton,
Brown gửi ông Hảo một mảnh giấy ghi: “Nice to have met you. Happy holidays”.
Lần gặp thứ ba diễn ra vào trưa 13-2-1993,
Ashton lại mời Brown ăn trưa cùng cô bạn Madsen, cùng đi có thêm ông Hảo. Rồi chính ông Ashton đề nghị Brown đưa mọi
người ghé thăm Bộ Thương mại nơi Brown vừa
được bổ nhiệm làm Bộ trưởng. Brown đồng ý.
Thượng nghị sỹ John Kerry đưa tên của Thủ tướng Võ Văn Kiệt lên
đầu danh sách những người Việt Nam mà ông cho là có đóng
góp đặc biệt cho chương trình POW /MIA và tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt-Mỹ. Thượng nghị sỹ John Kerry gặp ông Kiệt
nhiều lần, và năm 1993 khi ông Kiệt tiếp ông ở
Thành phố Hồ Chí Minh, John Kerry đã đề nghị ông Kiệt nên viết thư gửi Tổng
thống Bill Clinton yêu cầu Mỹ xoá lệnh cấm vận
thương mại, tiến tới bình thường hoá. Ông Kiệt hỏi: “Theo ngài thì tôi nên viết cho tổng thống như thế nào?”. Thay vì
chỉ góp ý, ông John Kerry đã lấy giấy bút ra
tự tay thảo giúp ông Kiệt lá thư gửi Bill Clinton. Theo ông Võ Văn Kiệt: “Tôi
gần như chỉ phải sửa lại rất ít bản thảo mà
ông John Kerry chuẩn bị giúp. Tôi cho chuyển bức thư ra Hà Nội đóng dấu rồi gửi vào ngay để kịp nhờ Thượng nghị sỹ John Kerry mang
về Mỹ”. Ngày 2-7-1993, Clinton tuyên bố: “Mỹ
không còn phản đối những dàn xếp được ủng hộ bởi Pháp, Nhật, và các nước khác
nhằm nối lại sự giúp đỡ của các định chế tài chánh
quốc tế cho Việt Nam”.
Đầu năm 1994, Việt Nam được Liên Hiệp Quốc mời đến Ohio dự một hội
nghị của Tổ chức Thương
mại và Phát triển, UNCTAD. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cử
Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết đi với tư
cách là trưởng đoàn. Ông Lê Văn Triết kể: Vừa tới Ohio thì Tổng thư ký Liên
Hiệp Quốc, Boutros Boutros Ghali, gặp nói:
“Tôi muốn có một cuộc họp riêng giữa ông và ông Bộ trưởng Thương mại của nước chủ nhà”. Không kịp xin ý kiến Hà Nội, ông Triết
trao đổi với phiên dịch Trần Đức Minh và một
quan chức Bộ ngoại giao đi cùng rồi nhận lời. Hôm sau, ông B.B.Ghali giới thiệu
ông Triết với Bộ trưởng Thương mại Mỹ Ron
Brown rồi lấy cớ bận một việc khác, rút lui.
Sau vài câu xã giao, Ron Brown nói: “Tôi muốn có cuộc gặp này để
thông báo với ông, tổng thống của chúng tôi sắp tuyên bố
bỏ cấm vận thương mại đối với Việt Nam”. Ông Triết cố gắng giấu sự xúc động, trả lời: “Tôi rất hoan nghênh; điều đó rất phù
hợp với nguyện vọng của người Việt Nam cũng
như người Mỹ”. Brown nói: “Tôi muốn nghe ông nói sâu hơn về suy nghĩ của người
Việt Nam”. Ông Triết: “Lịch sử hai nước có sự
bất hạnh là gặp nhau trong chiến tranh, tôi không nói lỗi của ai, nhưng chiến tranh ở Việt Nam cũng là bất hạnh của
cả nhân dân Mỹ. Lệnh cấm vận gây thiệt hại rất
lớn cho chúng tôi, chúng tôi có nhiều hàng hoá mà không thể bán sang đây, nhưng
nhiều doanh nghiệp Mỹ muốn làm ăn với Việt Nam
cũng không thể được”. Brown: “Tôi cám ơn ông. Tôi muốn hỏi thêm, sau dỡ bỏ cấm vận, cái gì sẽ đi theo?”. Ông
Triết: “Với tư cách cá nhân, tôi nghĩ, sau đó
là thiết lập quan hệ ngoại giao”. Brown: “Ở tầm nào?”. Ông Triết: “Đại sứ”.
Brown: “Đó cũng là ý kiến của Thủ tướng?”. Ông
Triết: “Thủ tướng sẽ có ý kiến riêng, nhưng tôi biết ông là một người cởi mở, đường lối của Đảng chúng tôi hiện nay là làm bạn
với tất cả, đây là một quyết định phù hợp với
thời đại”. Ron Brown cám ơn rồi nói tiếp: “Tôi đề nghị chúng ta nên thường
xuyên quan hệ với nhau. Sau ngoại giao, thương
mại sẽ có rất nhiều việc để làm”.
Ở thời điểm Bộ trưởng Ron Brown gặp Bộ trưởng Lê Văn Triết, ông
đang chuẩn bị để ra trước một bồi thẩm đoàn. Giữa năm
1993, một cộng sự của Tiến sỹ Nguyễn Văn Hảo, ông Lý Thanh Bình -Việt kiều ở
Miami - tố cáo: Chính phủ Việt Nam đã hối lộ ông Brown 700 nghìn USD nhằm đổi
lại việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận và thiết lập
bình thường hoá. Theo Tiến sỹ Nguyễn Văn Hảo, Bình đã cùng ông về Việt Nam và trong cuộc gặp các nhà lãnh đạo
Việt Nam ông đã đưa Bình theo và ông ta biết
được phần nào câu chuyện. Sau khi máy kiểm tra không phát hiện ra Bình nói dối,
cảnh sát Miami đã khởi tố vụ án. Bình được
trang bị các thiết bị ghi âm, mang mật danh “radar” và được hướng dẫn cách đưa ông Nguyễn Văn Hảo vào bẫy điều tra của
cảnh sát. Nhưng những băng ghi âm của Bình sau
đó đã không cung cấp được thêm bằng chứng nào cho thấy ông Hảo đang thực hiện
một âm mưu hối lộ.
FBI thu được hai bản fax ông Hảo gửi cho các quan chức Việt Nam
hồi tháng 12-1992 nói rằng phản ứng của Ron Brown là tích
cực. Theo tờ New York Times thì FBI cũng tìm thấy dấu hiệu chính quyền Việt Nam dự định mở một tài khoản ở Singapore. Tuy
nhiên, không có bằng chứng cho thấy việc mở
các tài khoản này có liên quan tới những hoạt động vận động hành lang của ông
Hảo. Các tổ chức phản đối tiến trình bình
thường hoá Việt - Mỹ đã khai thác những lời tố cáo của Bình. Nhưng cả ông Hảo và Brown đều chỉ nhận là có gặp nhau ba lần và
không làm gì sai trái. Sau bảy tháng điều tra
công phu, ngày 1-2-1994, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Ron Brown phải ra hầu toà.
Trong ngày, bồi thẩm đoàn cho rằng Ron Brown
vô tội. Hai hôm sau, 3-2-1994, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại Việt Nam.
Tuyên bố của Tổng thống Clinton được đưa ra vào 5 giờ sáng ngày
4-2-1994 theo giờ Việt Nam. Chưa đầy hai giờ sau, Công
ty Pepsi Cola tung một quả bóng bay khổng lồ (hình cái lon Pepsi) lên vùng trời Thành phố Hồ Chí Minh, và phát không những lon
Pepsi đầu tiên sản xuất tại Việt Nam. Ngày
5-2-1994, Coca Cola bảo trợ một cuộc biểu diễn nhạc rock tại Việt Nam. Pepsi và
Coca Cola là hai trong số hơn 100 công ty Mỹ
có mặt ở Việt Nam lúc đó.
Ngay trong tháng 4-1994, một hội chợ triển lãm hàng Mỹ lần đầu
được khai mạc. Ở thời điểm ấy, các doanh nghiệp Đài Loan,
Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật, Pháp và Úc đã ký kết các dự án đầu tư lên tới 8 tỷ đôla. Giới doanh nghiệp Mỹ đã tạo sức ép khá lớn
để bỏ cấm vận.
“Đa phương hoá”
Cả ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh đều thừa nhận vai trò của Thủ tướng
Võ Văn Kiệt trong các hoạt
động đối ngoại. Tướng Lê Đức Anh nói: “Chủ trương làm
bạn với tất cả, bình thường hoá quan hệ với
Mỹ, trước hết do các anh: anh Linh, anh Mười, anh Kiệt trong Bộ Chính trị và
anh Tô, cố vấn, đề ra. Nhưng nói cho đúng,
hoạt động nhiều là ông Kiệt”.
Tuy nhiên, mọi đường đi nước bước của Chính phủ, của Bộ ngoại giao
đều phải được các ông Lê
Đức Anh, Đỗ Mười chấp thuận dưới dạng các nghị quyết
của Bộ Chính trị. Ông Lê Đức Anh được phân
công phụ trách an ninh, quốc phòng, ngoại giao. Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm:
“Các vấn đề về ngoại giao tôi đều phải xin ý
kiến ông Lê Đức Anh và thường được anh ủng hộ”. Ông Đỗ Mười cũng rất ít khi phát ngôn, nhưng theo ông Võ Văn Kiệt:
“Tôi hiểu ý anh ấy thông qua ý kiến của Đào
Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan, Nguyễn Đức Bình”. Ông Kiệt đôi khi còn nhận được
thông điệp bất lợi từ Tổng bí thư một cách
trực tiếp.
Giữa năm 1993, trong một cuộc họp của Ban Bí thư do ông Đỗ Mười
chủ trì để quán triệt với cán bộ đối ngoại các ngành. Ông
Đoàn Mạnh Giao kể: “Tôi tới muộn một chút nên chỉ còn chiếc ghế trống trước mặt ông Đỗ Mười. Vào họp, ông Mười than phiền: ‘Sao
lại cho Tây ba lô mắc võng nằm cả ở Hồ Tây’.
Tôi bảo: ‘Họ cũng là dân Tây nghèo đi du lịch thôi ạ’. Ông Mười nói: ‘Chúng nó
làm gián điệp đấy! Tớ vừa ký cho cậu lên thứ
trưởng mà nói gì cũng cãi’. Ông Đỗ Mười vừa dứt lời thì Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà lấy ra một đống sách do sứ
quán các nước châu Âu in bằng tiếng Việt, rồi
nói: ‘Các sứ quán in tài liệu tuyên truyền công khai anh ơi’. Ông Đỗ Mười hỏi:
‘Chủ nghĩa xã hội dân chủ à?’, rồi quay sang
tôi: ‘Tại sao Chính phủ lại cho in như vậy?’. Tôi nói: ‘Thưa bác, luật lệ ngoại giao không cấm điều này. Hồi xưa, sứ quán ta
ở Trung Quốc cũng in những tài liệu tuyên
truyền. Những tài liệu này để trong sứ quán, vấn đề là cán bộ ta vào đó rồi
mang ra thôi ạ”.
Cho dù về đối nội, Tổng bí thư là người giữ vị trí cao nhất trong
hệ thống chính trị Việt Nam, nhiều quốc gia vẫn
không thể tiếp đón ông Đỗ Mười với các nghi thức dành cho nguyên thủ. Trong
thời gian đầu, gần như ông Đỗ Mười chỉ có thể
thăm viếng những nước như Trung Quốc, Lào, Cuba… về sau có thêm Hàn Quốc, Nhật… đồng ý tiếp ông. Trong khi đó,
“nguyên thủ quốc gia” trên danh nghĩa là tướng
Lê Đức Anh lại bị ấn tượng là quá cứng rắn.
Mãi tới tháng 11-1993, Chủ tịch nước Lê Đức Anh mới bắt đầu chuyến
thăm chính thức tới Lào và
chặng kế tiếp theo thông lệ là tới Bắc Kinh. Năm
1994, ông đến Indonesia và Iran. Năm 1995, thăm Kuwait,
Syria, Cambodia, Brazil, Cuba, Philippines. Cũng trong năm 1995, Lê Đức Anh đến
Pháp dự lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít
và sau đó tới New York dự lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Liên Hiệp Quốc. Ông là người duy nhất trong thế hệ các
nhà lãnh đạo vào Đảng trước năm 1945 và là vị
nguyên thủ cộng sản Việt Nam đầu tiên tới Mỹ.
Trong khi đó, ngay từ tháng 10-1991, ông Võ Văn Kiệt đã bắt đầu
các chuyến công du “phá băng” xuống các nước ASEAN. Không
chỉ đi nhiều hơn những người đồng nhiệm, thật khó giải thích vì sao ông Võ Văn Kiệt, một người xuất thân từ nông dân, lại
chính là nhà lãnh đạo đầu tiên nhận ra việc
phải chấn chỉnh từ bên trong để chuẩn bị một tư thế mới, không chỉ cho cá nhân
ông mà cho cả Việt Nam, trước khi thiết lập
quan hệ rộng rãi hơn với các quốc gia trên thế giới.
Ngày 5-11-1991, trên chuyến chuyên cơ từ sân bay Nội Bài đi Bắc
Kinh, ông Võ Văn Kiệt nói với ông Đỗ Mười ý định mở ngay
một tuyến cao tốc từ Hà Nội lên Nội Bài và đã được ông Đỗ Mười ủng hộ. Ngày ấy, để đi từ Hà Nội đến sân bay, xe phải qua Cầu
Đuống, sang Đông Anh, vừa phải lòng vòng xa,
vừa đi qua những khu phố nhếch nhác, chật hẹp. Không chỉ rút ngắn khoảng cách
từ sân bay quốc tế về Thủ đô, đoạn đường cao
tốc đầu tiên được làm với nguyên tắc BOT này đã gieo những ấn tượng đầu tiên về một Việt Nam đang thoát ra khỏi
nghèo nàn, lạc hậu.
Ông Kiệt cũng cho chuyển nơi đón các vị nguyên thủ quốc gia từ Nhà
khách Chính phủ số 12 Ngô
Quyền về Phủ Chủ tịch. Ông Kiệt nói: “Một lần tôi
được cử tháp tùng Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ
Chí Công đi đón Tổng bí thư Rumania Ceausescu. Lễ đón được tổ chức trước Nhà
khách Ngô Quyền, hình Hồ Chủ tịch đặt trên nóc
toà nhà Ngân hàng Nhà nước, một phông vải lớn căng che nhà Ngân hàng, cờ quạt trông như một sân khấu hát bội. Cả chúng
tôi và dân chúng được huy động đến phải đứng
đợi giữa nắng. Tôi thấy không ổn, nghĩ, phải thay đổi từ những việc tưởng là
nhỏ như thế này. Nhưng khi đó tôi mới chỉ là
phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng”.
Chuyển nơi đón khách thì buộc phải phá một “vườn hoa con cóc” ở
trước sân Phủ Chủ tịch, Quyết định của ông Kiệt bị phản
ứng. Ông Kiệt kể: “Có người tố cáo với anh Phạm Văn Đồng: Ông Kiệt san bằng di tích. Anh Đồng gọi tôi đến, tôi thưa: anh biết
rõ cái gọi là di tích ở đó, chỉ là một cái mỏ neo
cắt trên một thảm cỏ cây. Rồi tôi nói, để tổ chức một lễ đón các nguyên thủ cho
có tư thế quốc gia, không có chỗ nào trang
trọng như trước Phủ Chủ tịch. Mặt khác, chúng ta cũng không thể phơi nắng, phơi mưa cả chủ lẫn khách như lâu nay vẫn làm. Anh
Đồng nói: anh nói cũng phải. Thế là tôi về,
cho sửa. Lúc đầu ta vẫn đón khách theo kiểu duyệt binh, có đủ hải-lục-không
quân. Tôi bỏ duyệt binh, chỉ để đại diện các
binh chủng đứng thành hàng và không còn bắt dân phơi nắng nữa”.
Ông Kiệt nói: “Các anh làm đối ngoại lâu năm như anh Nguyễn Duy
Trinh, anh Nguyễn Cơ Thạch, đặc biệt, anh Thạch là một
Bộ trưởng ngoại giao rất có tầm, sau anh không có ai bằng. Nhưng, lạ là các anh ấy vẫn để cho việc lễ tân trong những cuộc họp
hành, đón khách quốc tế rất luộn thuộm. Gần như
không có đối chiếu, gần như không để ý đến cái không phù hợp của mình, để sửa”.
Ngay như quyết định của ông Kiệt cấm đi dép lê
và yêu cầu mặc comple, thắt cà vạt tại các nghi lễ trọng thể, theo ông Vũ Khoan: “Anh em làm ngoại giao lúc đầu cũng cho
rằng đó là một quyết định không thực tế. Cho
tới một lần, lên một tỉnh miền núi họp, tôi bị hố vì chỉ có tôi ăn mặc tuềnh
toàng trong khi các vị lãnh đạo địa phương đều
mặc comple, đeo cravat”.
Ông Võ Văn Kiệt cũng là nhà lãnh đạo đầu tiên nhận ra nhu cầu chấn
chỉnh cung cách thiếu chuyên nghiệp của các cơ quan ngoại
giao Việt Nam ở nước ngoài. Năm 1990, khi tới Davos dự Diễn đàn Kinh tế thế giới, ông Kiệt nhận ra sự thiếu chuyên nghiệp
của các quan chức ngoại giao. Nữ phiên dịch
của ông trong chuyến đi, bà Tôn Nữ Thị Ninh kể: “Khi tiễn ông ra sân bay, sứ
quán nói, đại sứ ra trước để chuẩn bị, tôi với
ông đi sau. Nhưng cậu lái xe lại không biết phòng VIP ở đâu, ba thầy trò
loay hoay mãi. Cuối cùng, tôi đành phải tìm một góc
yên tĩnh, để ông ngồi đấy. Tôi đi được ít phút thì
người của sứ quán chờ không thấy ông, đi tìm. Ông không la mắng gì nhưng rất
bực mình, trên đường về ông nói, cơ quan ngoại
giao của mình ở nước ngoài chưa đủ tầm và thiếu chuyên nghiệp”.
Chuyến đi Davos tháng 2-1990 là chuyến đi đến phương Tây đầu tiên
của ông Võ Văn Kiệt. Trước
ngày lên đường, bà Phan Lương Cầm, phu nhân của ông,
cho mời bà Tôn Nữ Thị Ninh đến, nói: “Chị sống
ở bên đó lâu, xin chị mạnh dạn góp ý, kể cả chuyện ăn mặc, anh Sáu nên thế
nào?”. Bà Ninh nói: “Ông Kiệt có phong thái
của một chính khách rất gần với phương Tây”.
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm cho rằng: “Quan hệ cá nhân
đóng một vai trò quan trọng trong công tác đối ngoại. Trong
đàm phán, ông Kiệt thường tạo được cảm tình và độ tin cậy rất cao, không chỉ với những nhà lãnh đạo châu Á như Mahathir, Than
Shwe, Chatichai, Aquino… Các nhà lãnh đạo
ASEAN như Chatichai, Mahathir, đặc biệt là Lý Quang Diệu đều giữ quan hệ khá
thân mật với ông Võ Văn Kiệt.
Ông Võ Văn Kiệt gặp ông Lý Quang Diệu năm 1990, ở Davos, khi cả
hai cùng tham dự Diễn đàn
Kinh tế thế giới. Lần đó khi phát biểu trên diễn đàn,
ông Lý Quang Diệu nói: “Tôi qua đây, có tiếp xúc
với mười đoàn, và hiện đoàn Việt Nam đang muốn gặp”. Ngồi ở dưới nghe, ông Kiệt
nghĩ: “Ông này chơi mình đây. Cuộc gặp là thoả
thuận của đôi bên, nhưng ổng nói như mình xin gặp ổng”. Sau đó khi gặp nhau, Lý Quang Diệu lại chỉ trích: “Việc chọn đi
theo mô hình Liên Xô đã làm cho nền kinh tế
Việt Nam lạc hậu mất hai mươi năm”. Nhưng, thay vì tạo thêm xung đột, ông Kiệt
đã tìm cách kết bạn với người đã phê phán
mình.
Năm 1991, khi ông Võ Văn Kiệt tới Singapore, Lý Quang Diệu đã thôi
làm thủ tướng được đúng
một năm, nhưng vẫn là một nhân vật đầy quyền uy.
Trong một dạ tiệc đón tiếp, ông Kiệt ngồi gần, nói
với ông Lý Quang Diệu: “Chúng tôi hân hạnh mời ngài qua thăm Việt Nam và ngài
nên bố trí thời gian đi thăm nhiều nơi, qua đó
ngài có thể có những ý kiến đề xuất, gợi ý vì chúng tôi từ chiến tranh ra, chưa có nhiều kinh nghiệm xây dựng kinh tế”. Ông
Kiệt kể: Ông Lý cảm ơn lia lịa và nhận lời.
Sáng hôm sau, khi báo chí phỏng vấn, Lý Quang Diệu nói: “Thủ tướng Việt Nam mời
tôi làm cố vấn và tôi đã nhận lời”. Ở nhà, ông
Đỗ Mười, rất lo. Ông Kiệt về, ông Mười hỏi: “Anh mời Lý Quang Diệu làm cố vấn à?”. Ông Kiệt kể: “Tôi thuật lại sự
tình nhưng có vẻ như ông Mười không tin lắm.
Ông nói, như thế là bất lợi. Tôi động viên, không sao, biết đâu về chính trị,
không phải bất lợi mà hay, vì mình được tiếng
chịu chơi. Thực tế là hay. Sau đó, báo chí nước ngoài viết: Việt Nam mời
một ông chống cộng làm cố vấn chắc đã đổi mới lắm”.
Năm 1992, Việt Nam được mời làm quan sát viên của ASEAN với điều
kiện năm năm sau mới có
thể trở thành quốc gia thành viên. Nhưng, theo ông
Nguyễn Mạnh Cầm: “Chỉ hai năm, họ đặt vấn đề, nếu
Việt Nam đã chuẩn bị và sẵn sàng gia nhập ASEAN thì phải trả lời trong hội nghị
ngoại trưởng các nước ASEAN năm 1994 để năm
1995 gia nhập chính thức”. Đúng lúc đó, theo Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm: “Trong Bộ Chính trị có anh phân vân,
quan hệ với ASEAN thì được nhưng gia nhập
ASEAN thì không được. Đào Duy Tùng nói: ASEAN là sự tiếp nối của khối
SEATO(429)”. Ông Cầm cho rằng: “Nhận thức của
một số đồng chí trong Bộ Chính trị lúc bấy giờ không theo kịp những thay đổi của tình hình thế giới”.
Đầu năm 1994, ASEAN thông báo nếu Việt Nam đủ điều kiện tham gia
thì đến Hội nghị các Bộ
trưởng ngoại giao ASEAN tại Bangkok phải trả lời.
Tháng 7-1994, trước giờ ông Nguyễn Mạnh Cầm đi
Bangkok, Hà Nội vẫn chưa đưa ra quyết định. Ông Cầm kể: “Sáng sớm, gặp Thường
vụ Bộ Chính trị, tôi nói: Khi còn vấn đề
Campuchia, ASEAN có những đối kháng với mình. Nay, họ cũng có nhu cầu quan hệ với mình, ta phải tranh thủ. Bán anh em
xa mua láng giềng gần. Mình có quan hệ được với
ASEAN thì mới quan hệ được với các nước”. Đỗ Mười, Lê Đức Anh đồng ý nhưng, Đào
Duy Tùng kiên quyết phản đối. Ông Tùng cho rằng vào
ASEAN không mang lại lợi ích gì trong khi lại
làm tăng nguy cơ “diễn biến hoà bình”. Đến giờ ông Cầm phải ra máy bay, Đào Duy
Tùng vẫn bảo lưu ý kiến, ông Đỗ Mười dặn: “Anh
cứ đi nhưng chưa trả lời, chờ điện của Bộ Chính trị”.
Rồi, ông Đỗ Mười cử ông Vũ Khoan vào Sài Gòn gặp ông Võ Văn Kiệt,
lúc bấy giờ đang làm việc
với Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Kiệt từ
cuộc họp trong 86 Lê Thánh Tôn ra bảo: “Tôi đã
nói từ lâu, chuyện này còn có gì mà phải cân nhắc nữa. Anh báo ngay với anh Cầm
là ta đồng ý”. Ông Kiệt nói: “Các chính khách
thân tình của ASEAN nói với tôi, nếu ASEAN đặt vấn đề mà Việt Nam do dự thì sẽ mất thời cơ vì họ sẽ nghĩ, Việt
Nam chỉ thăm dò chứ không thành thật. ASEAN
làm việc theo nguyên tắc đồng thuận, chỉ cần vài nước rút lại ý kiến là sẽ rất
bất lợi”.
Ông Nguyễn Mạnh Cầm kể: “Ông Đỗ Mười dặn phải chờ điện trả lời của
Bộ Chính trị. Theo kế
hoạch, các Bộ trưởng sẽ gặp nhau trong bữa ăn tối
ngày hôm đó, tôi hy vọng nhận được điện vào buổi
chiều nhưng chờ tới sáng hôm sau vẫn không thấy đâu. Tôi quyết định vẫn trả lời
‘có’ với ASEAN. Anh Kiệt đã nỗ lực để đưa Việt
Nam gia nhập ASEAN và tôi tin nếu có gì thì anh sẽ đấu tranh trong nội bộ. Mãi tới chiều hôm sau mới có điện của
Bộ Chính trị đánh sang trả lời đồng ý”. Điện
do Uỷ viên Thường trực Thường vụ Bộ Chính trị Đào Duy Tùng ký.
Khi nhận được câu trả lời từ ông Cầm, Bộ trưởng Ngoại giao
Malaysia, ông Badawi, vui vẻ: “Cầm ơi, năm tới Việt
Nam sẽ là thành viên của ASEAN nhưng với anh thì còn hai điều kiện”. Ông Cầm
hỏi: “Điều kiện gì?”. Badawi: “Đến đây, anh không nói
tiếng Pháp hoặc tiếng Nga nữa mà phải nói giỏi
tiếng Anh và, điều kiện thứ hai là phải biết đánh golf”. Ông Cầm: “Tiếng Anh
thì tôi cố gắng được còn golf thì tôi sợ lắm.
Thời gian để tôi chuẩn bị đánh golf còn khó hơn Việt Nam chuẩn bị điều kiện gia nhập ASEAN”. Badawi: “Việt Nam điều gì cũng
làm được. Tôi sẽ giúp anh chuẩn bị. Golf là
làm việc chứ không phải chơi”.
Thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc, quốc gia mà cho tới khi
đó vẫn được Việt Nam gọi là Nam Triều Tiên, cũng là một
mốc đáng nhớ trong tiến trình hội nhập, cho dù bên thúc đẩy không phải Việt Nam. Việt Nam và Hàn Quốc bắt đầu có quan hệ buôn
bán, đầu tư từ năm 1983, nhưng chỉ ở mức phi
chính phủ. Ông Vũ Khoan kể: “Năm 1991, Uỷ ban Kinh tế Xã hội của Liên Hợp Quốc
về châu Á và Thái Bình Dương, ESCAP, họp ở
Seoul. Nam Triều Tiên muốn có đại diện của Việt Nam, họ mua vé và chi phí cho cả đoàn. Tôi trở thành quan chức
đầu tiên của Việt Nam đến Nam Triều Tiên. Tại
Seoul, chúng tôi bắt đầu đàm phán về thiết lập ngoại giao. Họ muốn đặt sứ quán
tại Hà Nội ngay, nhưng mình chủ trương mở
trước ở cấp tổng lãnh sự. Hai bên thoả thuận là bàn kín nhưng đang bàn thì họ lộ tin cho báo chí, tôi bỏ ra về”.
Sau đó, Nam Triều Tiên đề nghị đàm phán ở cấp vụ. Họ cử đại sứ tại
Thái Lan sang Hà Nội. Theo
ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Trong quá trình đàm phán có mấy
điểm phải xin ý kiến Bộ Chính trị: Mình đòi
bồi thường chiến tranh, họ nói nếu chúng tôi nhận bồi thường, người Mỹ sẽ gây
khó khăn; mình đòi họ phải có trách nhiệm với
Việt Nam, họ nói, vậy cũng không được vì Mỹ có trách nhiệm lớn hơn. Thay vì bồi thường, họ hứa sẽ ưu tiên vốn ODA cho
Việt Nam và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ giữa hai
nước”.
Việc thiết lập ngoại giao với Nam Triều Tiên cũng không suôn sẻ.
Trước 1975, Nam Triều Tiên là nước đồng minh của Mỹ, cùng
với Australia, Chính quyền Park Chung Hee có gửi quân đến tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Họp Bộ Chính trị, ông Nguyễn Hà
Phan phát biểu: “Tôi không bao giờ quên tội ác
của lính Park Chung Hee, các anh muốn quan hệ thì phải giải trình, phải làm tư
tưởng với người dân miền Đông nơi lính Park
Chung Hee đã gây nhiều tội ác. Tôi tin là người dân sẽ phản ứng”. Ông Phan nói: “Anh Đào Duy Tùng cũng có ý kiến là tụi
này nó xấu lắm”. Cả ông Nguyễn Hà Phan và Đào
Duy Tùng thật ra chỉ là người phát ngôn. Theo ông Võ Văn Kiệt, nói Nam Triều Tiên
đã từng đưa quân tới Việt Nam chỉ là cái cớ. Việc
thiết lập ngoại giao với Nam Triều Tiên bị Bắc Triều
Tiên phản ứng và Trung Quốc thì tỏ ý không hài lòng(430). Tháng 4-1992, hai
nước đồng ý thiết lập văn phòng liên lạc.
Ngày 24-5-1992, sau một chuyến thăm Đại Hàn, Xuân Lương, thành
viên Hội Nhà báo Việt Nam
viết bài “Seoul, Mùa Xuân Thoáng Qua” đăng trên tờ Hà
Nội Mới Chủ Nhật. Bài viết mô tả: Nam Triều
Tiên sau giải phóng rất nghèo bởi tài nguyên hầu như không có gì đáng kể, lại
sau ba năm “chiến tranh huynh đệ tương tàn”.
Cũng Xuân Lương, ngày 30-5-1992, có bài đăng trên báo Nhân Dân, tựa đề: “Nam Triều Tiên Chặng Đường Đi Tới Phồn Vinh,
mô tả “sự xuất hiện của bốn con rồng Châu Á”
theo đó, ca ngợi “con rồng” Nam Triều Tiên đi lên nhờ “tinh thần dân tộc, tính
nhẫn nại cộng với chủ trương đúng đắn của nhà
nước”.
Ngay sau đó, Đại sứ Bắc Triều Tiên tại Hà Nội đã gặp Vụ phó Vụ Báo
chí Bộ ngoại giao Đỗ Công
Minh để phản ứng về hai bài báo của Xuân Lương. Ông
Đại sứ cho rằng, cuộc chiến tranh năm 1953 ở
bán đảo Triều Tiên là “chiến tranh giải phóng”; sở dĩ Nam Triều Tiên phát triển
là vì “họ sống bám vào viện trợ của Mỹ, Nhật”.
Ông Đại sứ còn đặt vấn đề: “Có thể dẫn tới sự chia tay giữa ngành báo chí hai nước”(431).
Từ trước đó, các phản ứng của Bình Nhưỡng đã được đưa ra cân nhắc
trong các cuộc họp của Bộ
Chính trị. Yếu tố xã hội chủ nghĩa được đặt lên bàn
cân. Ông Võ Văn Kiệt phát biểu: “Bắc Triều Tiên
là xã hội chủ nghĩa nhưng khi ta đánh sang Campuchia, họ là nước tiên phong chống
ta nhất chứ không phải Nam Triều Tiên. Nếu nói
về xấu tốt thì chưa chắc ai đã hơn ai”. Bộ Chính trị không có lý do để từ chối quan hệ với một nước quan trọng như thế
trong khu vực. Ngày 22-2-1992, Bộ trưởng Ngoại
giao hai nước ký tuyên bố chung thiết lập ngoại giao ở cấp đại sứ.
Tháng 2-1993, khi Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đến Seoul, ông được
đón tiếp rất trọng thị. Ông Cầm nói: “Cả tổng thống
đương nhiệm và tổng thống đắc cử đều bảo tôi, họ muốn mời Thủ tướng Võ Văn Kiệt sang thăm. Tôi trả lời: Tôi nghĩ là Thủ tướng
sẽ đồng ý”.
Trước chuyến đi của Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào tháng 5-1993, đại sứ
Nam Triều Tiên tại Hà Nội
trình lên Bộ ngoại giao một lá thư, đề nghị Việt Nam,
từ nay gọi họ là Hàn Quốc thay vì gọi Nam Triều
Tiên. Ông Đoàn Mạnh Giao kể: “Ông Kiệt tham vấn, tôi nói: Thưa chú, cháu tên là
Giao, cháu yêu cầu mọi người gọi cháu đúng tên
không lẽ hàng xóm có quyền không chịu. Ông Kiệt cười. Trước khi ông lên đường, Văn phòng Chính phủ có một công văn yêu
cầu các cơ quan trong nước từ nay chính thức
gọi Nam Triều Tiên là Hàn Quốc”. Khi tiếp ông Võ Văn Kiệt, theo Bộ trưởng
Nguyễn Mạnh Cầm: “Tổng thống Kim Young Sam
nói: Ngày trước, Hàn Quốc có một món nợ với Việt Nam. Đó là điều đáng tiếc xảy ra trong một thời điểm mà chúng
tôi không thể tránh vì là đồng minh với Mỹ.
Giờ đây tôi xin sửa bằng cách hợp tác với nhau tốt hơn”.
Khi đàm phán để ký kết hiệp định hợp tác với EU, trong Bộ Chính
trị, cũng có nhiều ý kiến phản đối cho dù lúc đó
Việt Nam rất cần các bạn hàng châu Âu nhất là bạn hàng dệt may. Ông Võ Văn Kiệt
nói: “Bàn đi, bàn lại rất nhiều. EU đưa ra các điều
kiện đòi Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền. Có ý
kiến cho rằng, đó là điều kiện chính trị, không thể chấp nhận. Tranh luận không
ngã ngũ. Năm 1995, khi tôi chuẩn bị đi châu
Âu, tôi nói với ông Đỗ Mười: Đề nghị anh đồng ý với tôi về mặt nguyên tắc, nếu như trong các hiệp định mà EU ký với các
nước khác không có điều kiện nhân quyền mà chỉ
đặt ra khi ký với mình thì tôi sẽ thuyết phục họ rút lại. Nếu đó là nguyên tắc
mà EU áp dụng chung thì đề nghị anh cho tôi
quyết định vì mình không phải là một ngoại lệ. Việt Nam cũng không thể đặt mình trong một sự khác biệt và không thể từ
chối các đòi hỏi hợp lý về nhân quyền. Ông
Mười đồng ý về mặt nguyên tắc”.
Trong lịch sử ngoại giao, theo ông Nguyễn Mạnh Cầm, hiếm khi trong
một tháng có tới ba sự kiện lớn như tháng 7-1995: Gia
nhập ASEAN, bình thường hoá quan hệ với Mỹ, ký hiệp định khung với EU. Kể từ khi Việt Nam đổi mới cho tới năm 1996, ngoài việc
phục hồi quan hệ với một số quốc gia, Việt Nam
thiết lập quan hệ mới với năm mươi bốn nước. Năm 1950, chỉ có các nước xã hội
chủ nghĩa công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Từ 1950-1987, Việt Nam thiết lập quan hệ với 112 nước. Năm 1996, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 166 nước.
Tổng cục II
Khi nhận chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tướng Lê Đức Anh chọn người
đã kế vị mình ở
Campuchia, tướng Đoàn Khuê, làm Tổng tham mưu trưởng.
Năm 1992, Đoàn Khuê trở thành Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng và, năm 1991, một nhân vật khác cũng từng ở Quân khu IX và Bộ tư
lệnh 719 với Lê Đức Anh, tướng Lê Khả Phiêu,
được đưa lên làm chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Ngoài những chức năng hiến định, ông Lê Đức Anh còn được Bộ Chính
trị phân công phụ trách
công tác quốc phòng, an ninh và ngoại giao. Nhưng,
khi nói đến thực quyền của ông không thể không
nhắc đến lực lượng tình báo quân đội mà cho dù trong thời bình, đã được ông
nâng từ cấp cục lên tổng cục.
Cuối năm 1986, khi tướng Lê Trọng Tấn mất đột ngột, Lê Đức Anh
thay vị trí Tổng tham mưu
trưởng. Chỉ huy tình báo quân đội, tướng Phan Bình,
được cho về hưu. Trung tướng Phan Bình là người
kế nhiệm Đại tá Lê Trọng Nghĩa làm cục trưởng Cục II kể từ năm 1968, thời kỳ mà
tình báo quân đội thực sự phục vụ cho quốc
phòng. Sau khi bàn giao, tướng Phan Bình vào Sài Gòn. Ông nghỉ tại nhà khách Cục II, số 30 Lê Quý Đôn. Đêm 13 tháng
Chạp năm Bính Dần (đầu năm 1987), ông chết ở
tư thế “ngã sấp trên thềm nhà trước phòng khách, ở đầu bị bắn toác một lỗ
rộng”.
Những thông tin không chính thức sau đó nói rằng “đồng chí Phan
Bình bị bệnh tâm thần, tự
sát”(432). Tướng Lê Đức Anh đưa Nguyễn Như Văn, vốn
là trưởng Đoàn 12, cơ quan tình báo quân đội
bên cạnh Bộ tư lệnh 719 ở Campuchia lên làm cục trưởng Cục II. Đại tá Vũ Chính,
người kế vị ông Tư Văn ở Đoàn 12 được đưa lên
làm cục phó. Năm 1995, Cục II được nâng cấp thành Tổng cục II, tướng Vũ Chính thay Nguyễn Như Văn nắm quyền tổng cục
trưởng. Một triều đại mới của tình báo quân
đội bắt đầu.
Không dừng lại ở quy mô tổng cục. Dưới sự chỉ đạo của tướng Lê Đức
Anh, chủ tịch nước kiêm phó bí thư thứ nhất Đảng uỷ Quân
sự Trung ương, tướng Vũ Chính bắt đầu soạn thảo Pháp lệnh tình báo theo đó thay đổi gần như căn bản chức năng nhiệm vụ của cơ
quan tình báo. Pháp lệnh được Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội thông qua và được Chủ tịch Nông Đức Mạnh ký vào ngày 14-12-1996. Sau
khi có Pháp lệnh, Tổng cục II soạn thảo một
nghị định trình lên Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Ông Kiệt thừa nhận là khi nhận thấy sự bất ổn của nghị định tình
báo, lẽ ra ông phải đủ can đảm để từ chối ký (Nghị
định 96/CP). Nhưng, ông Kiệt giải thích: “Phần do ông Lê Đức Anh không ngừng
thúc ép, phần do, theo nguyên tắc, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội đã thông qua pháp lệnh thì Chính phủ
có chức năng phải hướng dẫn thi hành nên chín tháng sau, ngày 11-9-1997, tôi đã
phải ký”. Ông Phan Văn Khải giải thích thêm:
“Nghị định tình báo mở rộng quá, ông Kiệt cảm thấy bất ổn nhưng không vượt qua được”(433).
Từ một cơ quan trực thuộc Bộ Tổng tham mưu, Pháp lệnh Tình báo đã
đặt những cơ quan như Tổng
cục II “dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi
mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của
Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ”. Pháp lệnh cũng biến Tổng
cục II, từ một cơ quan thay vì chỉ làm chức
năng chuyên trách tình báo về quân sự và thực thi các nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng, trở thành một cơ quan có chức năng “tình báo”
trong nội bộ, có quyền: cài người vào các địa
phương, các cơ quan của Đảng, Nhà Nước, các tổ chức chính trị, xã hội, văn hoá
và kinh tế, được phép thiết lập kênh thông tin
đặc biệt với lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước.
Trong quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, theo ông
Nguyễn Đình Lương(434),
nhiều uỷ viên Bộ Chính trị nhận được những “báo cáo
tình báo” của Tổng cục II do tướng Vũ Chính trực
tiếp đưa tận tay. Những báo cáo này đã từng có tác động không nhỏ đến tiến
trình đàm phán. Theo ông Võ Viết Thanh: “Xem
lại các báo cáo của Tổng cục II thấy, phần lớn đó là những báo cáo mang tính chất tác động vào nội bộ của lãnh đạo Việt Nam, tạo
bất lợi về mặt tâm lý trong các hoạt động đối
ngoại, có khuynh hướng đẩy tới sự đối đầu với Mỹ. Tôi không hiểu tại sao khi
đọc những báo cáo như vậy mà Bộ Chính trị
không yêu cầu chấn chỉnh”.
Ông Phan Văn Khải thừa nhận: “Ông Lê Đức Anh dùng quân đội, lực
lượng tình báo quân đội để tạo thế và dùng tin tình báo để
gây ảnh hưởng lên cả các vấn đề nhân sự. Năm 2002, khi Nguyễn Chí Vịnh được bổ nhiệm làm tổng cục trưởng Tổng cục II thay bố
vợ là Vũ Chính, tôi có dặn: anh đừng có dùng
Tổng cục II vào những việc như bố vợ anh đã từng làm, Vịnh nói, cháu sẽ nghe
lời chú”(435). Thời Vũ Chính còn làm tổng cục
trưởng, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu cũng đã không thoát khỏi “lưới Tổng cục II” của tướng Lê Đức Anh.
Đất quân đội
Hai ông Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt chính thức nhận vị trí “nguyên thủ”
ngay sau Đại hội Đảng lần
thứ VII, trong khi ông Lê Đức Anh phải đợi Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công chủ trì việc thông
qua Hiến pháp mới. Tướng Lê Đức Anh nhận chức Chủ tịch nước vào tháng 9-1992,
khi Quốc hội khoá IX bắt đầu nhóm họp. Ông có
lẽ là vị nguyên thủ đầu tiên kết hợp khá nhuần nhuyễn quyền lực trên thực tế với vai trò mang tính biểu tượng của chức
danh chủ tịch nước. Không phải ngẫu nhiên khi
đã trở thành nguyên thủ quốc gia, ông Lê Đức Anh vẫn ở trong Thành. Quân đội
vẫn là một lãnh địa mà ông tiếp tục nắm vững
rồi từ đó toả ra sức mạnh.
Tướng Lê Đức Anh là người đưa ra sáng kiến phong tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam anh hùng(436).
Ngày 10-9-1994, Lê Đức Anh ký Lệnh ban hành Pháp lệnh
29-8-1994 và ngày 29-12-1994, trong một đại lễ
được Đài truyền hình Việt Nam trực tiếp truyền đi, Lê Đức Anh đã cùng với hàng
trăm bà mẹ, khi ấy ở tuổi ngoài 70, cùng duyệt
hàng quân danh dự trong khuôn viên Phủ Chủ tịch.
Chiến tranh đã cướp đi hàng triệu sinh linh của cả hai bên, chỉ
riêng phía Cộng sản đã có tới 44.253 bà mẹ Việt Nam
đủ mất mát để được gọi là anh hùng: miền Bắc có 15.033 bà; miền Nam có 29.220
bà. Họ là những người phụ nữ bị mất đứa con duy nhất,
bị mất cả chồng lẫn con, bị mất ba con, thậm chí,
có những người như bà Nguyễn Thị Thứ, ở xã Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam, có
tới 9 người con được Chính quyền công nhận là
liệt sỹ.
Từ năm 1987, khi Việt Nam bắt đầu rút quân ở Campuchia, căng thẳng
biên giới với Trung Quốc
giảm dần, hơn 600 nghìn sỹ quan, binh lính được cho
giải ngũ: 37.338 người đã được Bộ Quốc phòng
“xuất khẩu lao động” sang các nước Đông Âu, trong đó có 9.333 sỹ quan; 25.454
hạ sỹ quan và quân nhân chuyên nghiệp; 2.551
người thuộc diện con em cán bộ quân đội. Phần lớn phải tự mình xoay xở: một số trở lại quê hương lam lũ; một số đưa vợ con
vào Nam, lên Tây Nguyên… Các chàng trai chỉ
mong có ngày cởi bỏ những bộ quân phục, chia tay với súng đạn, ít ai nghĩ tới
những ưu đãi mà quân đội sắp dành cho những
người ở lại.
Đầu thập niên 1990, sỹ quan quân đội bắt đầu được hưởng mức lương
ưu đãi theo hệ số 1,8. Theo đó, một sỹ quan sẽ nhận được
số lương trên thực tế cao gấp 1,8 lần so với một viên chức dân sự có cùng ngạch bậc. Theo ông Vũ Quốc Tuấn: “Ông Võ Văn Kiệt
không đồng ý. Ông Kiệt cho rằng, nếu anh ở
chiến trường hoặc ở biên cương, hải đảo thì mức lương đó tôi tán thành. Nhưng
nếu anh ở Hà Nội hay Sài Gòn, hằng ngày về với
vợ con mà hưởng lương thế là vô lý”(437). Tranh cãi kéo dài suốt từ năm 1991 đến 1994 nhưng không có kết quả. Vấn đề
không phải là công bằng mà là vai trò quân đội
trong tương quan chính trị.
Tướng Lê Đức Anh có một quyết định khác làm đổi đời nhiều sỹ quan,
đó là quyết định lấy đất
doanh trại và đất mà các đơn vị quân đội đang nắm giữ
ở các thành phố như Sài Gòn, Hà Nội, Cần Thơ,
Đã Nẵng… chia cho cán bộ xây nhà. Ở Hà Nội là các phần đất quân sự xung quanh
sân bay Bạch Mai, sân bay Gia Lâm, khu Lý Nam
Đế… Ở Sài Gòn là các vùng đất bao quanh Trung tâm như: trại Hoàng Hoa Thám; trại Đào Duy Từ; căn cứ 26; Bộ
Tổng Tham mưu; căn cứ Hải quân, từ khu vực Ba
Son ăn thông sang khu Lê Thánh Tôn, kéo xuống Tân Cảng; các nhà máy thuộc Tổng
cục Kỹ thuật kéo từ đường 3-2 đến Chí Hoà…
Con trai tướng Lê Đức Anh, ông Lê Mạnh Hà nói: “Trong thời gian
ông (Lê Đức Anh) làm Bộ
trưởng Quốc phòng, ngoài những việc về vấn đề chiến
lược quốc phòng, hay bình thường hoá quan hệ
với Trung Quốc, mà tôi không dám lạm bàn, có một việc ông làm mà tôi nghĩ được
nhiều quân nhân đánh giá cao, nếu không nói là
biết ơn. Đó là việc chia đất cho sĩ quan quân đội, những người hầu như không có gì cả sau khi các cuộc chiến kết thúc.
Cuộc sống của họ rõ ràng có sự thay đổi, bởi như
các cụ vẫn nói an cư lạc nghiệp” (theo Vietnamnet).
Những người được cấp đất có thể sẽ dễ dàng đồng ý với ông Lê Mạnh
Hà. Nhưng, trong số hơn 1,6 triệu quân lúc đó, chỉ có
hơn 50.000 sỹ quan và quân nhân chuyên nghiệp được cấp đất, họ là những người may mắn công tác trong những đơn vị đóng quân tại các
thành phố lớn. Nhiều tướng lĩnh đã có biệt thự
ở cư xá Bắc Hải, cư xá Lam Sơn… vẫn được cấp đất trên đường Sư Vạn Hạnh, trên
đường 3-2 hay đường Cộng Hoà. Trong khi, nhiều sỹ
quan khác, có người là tướng, là sỹ quan cao cấp,
trở về quê chỉ nhận được một ít lương, trợ cấp.
Đặc biệt, hàng trăm nghìn người lính, nhất là những người đang bám
trụ ở biên giới, hải đảo, đã không may mắn được hưởng đặc
ân đất đai, nhà cửa. Không chỉ tạo ra sự không công bằng trong quân đội, việc cấp đất ồ ạt cho sỹ quan xây nhà trên những
khu đất không được đầu tư cơ sở hạ tầng đã tạo
ra nhiều vấn nạn về đô thị và xã hội. Phần lớn các khu nhà này đều được xây lên
mà không có đường sá, cầu cống, đặc biệt là
không có điện nước. Các gia đình tự khoan giếng và câu điện. Nhiều nơi, mỗi khi mưa xuống là cả khu ngập ngụa, lầy lội.
Ông Lê Văn Năm, khi ấy là Viện trưởng Viện Quy hoạch Thành phố Hồ
Chí Minh, nói: “Thành phố
biết trước những khu đất này sẽ được chuyển giao cho
mục tiêu dân sự nên muốn chủ động quy hoạch để
phát triển đồng bộ. Nhưng, những năm 1987, 1988, mỗi lần vào khu vực Tân Sơn
Nhất hay Hoàng Hoa Thám, chúng tôi đều phải
xin phép trước. Chủ tịch Thành phố Phan Văn Khải dặn: Giữ thân, Lê Văn Năm ơi. Tôi đến Quân khu 7 xin cho làm quy
hoạch, làm không công, tôi nói: Làm xong sẽ
trình các anh trước. Nhưng chỉ khi chia đất, xây nhà xong, quân đội mới giao
cho Thành phố. Chúng tôi lại phải điều chỉnh
quy hoạch, khép mối các tuyến đường vừa mở”.
Năm 1989, Chính phủ lập Đoàn Thanh tra 186. Mặc dù chỉ ra nhiều
điều bất cập về quy hoạch phát triển và không ít tiêu cực
trong quá trình phân phối đất, Đoàn Thanh tra chỉ đóng vai trò hợp thức hoá quyền cấp đất cho Bộ Quốc phòng. Ngày 24-5-1990, Bộ
Quốc phòng và Tổng cục Địa chính ban hành một
thông tư liên bộ, thừa nhận quyền cấp đất của các quân chủng, quân khu với yêu
cầu quân nhân được cấp đất trước khi xây nhà
phải liên hệ với chính quyền sở tại.
Nhưng, các khu nhà ở vẫn mọc lên theo cách tự phát vì bản thân
chính quyền các địa phương cũng không hài lòng khi quyền
chia đất không nằm trong tay mình. Không phải sỹ quan nào được cấp đất cũng có tiền mua nhà, một số xẻ đất ra bán một phần, hoặc
bán hết rồi về quê.
Không chỉ tạo ra sự bất bình đẳng giữa những người được cấp đất và
những người không được cấp, hệ luỵ do sự cát cứ đất đai
của các cơ quan không chỉ quân đội khiến cho tài nguyên quốc gia quan trọng này đã không được huy động theo cách đúng đắn nhất
cho quá trình xây dựng đô thị. Sau năm 1975,
đất đai, nhà cửa ở miền Nam cũng được coi như một loại chiến lợi phẩm. Từng
ngành tiếp quản các cơ sở mà Việt Nam Cộng hoà
đã sử dụng cho các chức năng tương ứng. Ví dụ: Bộ Công nghiệp vào tiếp quản các nhà máy; Bộ Giáo dục tiếp quản
trường học; Bộ Y tế vào nắm các bệnh viện… Vì
Sài Gòn là thủ đô của một bộ máy chiến tranh, Bộ Quốc phòng tiếp quản nhiều đất
đai, nhà cửa nhất, với tổng diện tích lên tới
1.600 hecta.
Đất đai do các đơn vị quân đội tiếp quản trở thành các lãnh địa mà
địa phương bất khả sử dụng. Theo ông Vũ Quốc Tuấn, trợ lý của
ông Kiệt, đây cũng là một trong những vấn đề khiến cho Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt thường có những bất đồng. Đất đai, nhà xưởng
mà quân đội nắm giữ rộng mênh mông. Ở Đà Nẵng,
có lần địa phương dẫn ông Kiệt đi xem cả một dọc dài những vùng đất có thể
phát triển hạ tầng cho các khu kinh tế nhưng Đà Nẵng
không thể làm gì vì nó đang nằm trong tay quân
đội. Ở Sài Gòn, quân đội nắm phần lớn những vị trí có vai trò yết hầu.
Theo ông Lê Văn Năm, khi Thành phố trình phương án Quy hoạch Tổng
mặt bằng, dự kiến bắc bốn
cây cầu qua sông Sài Gòn ở hướng Thủ Thiêm, ông Lê
Đức Anh nói: “Tại sao các cậu đòi nhiều cầu thế,
trước nay Sài Gòn chỉ có một cầu cũng đủ kia mà”. Theo quy định, Bộ Chính trị
trực tiếp xem xét và quyết định quy hoạch của
những thành phố như Hà Nội, Sài Gòn. Thay vì dự báo mức tăng trưởng để phát triển hạ tầng tương ứng, các nhà quy hoạch
phải “vẽ” một thành phố chỉ với quy mô dân số
mà Bộ Chính trị phê duyệt. Theo ông Lê Văn Năm: “Năm 1993, Bộ Chính trị yêu cầu
khống chế quy hoạch Thành phố ở quy mô 5 triệu
dân. Khi đó, chúng tôi đã thấy là không thể nào đáp ứng yêu cầu. Năm 1998, Bộ Chính trị phải đồng ý điều chỉnh quy
mô dân số Thành phố lên 10 triệu” (438).
Khi trở lại Sài Gòn làm Chủ tịch, ông Võ Viết Thanh có ý định di
chuyển xưởng Ba Son và Tân
Cảng về Thủ Thiêm, ông nói: “Tôi và anh Mai Xuân
Vĩnh, Tư lệnh Hải quân nhất trí với nhau, trước sau
cũng phải dời, thấy trước, chủ động thì đỡ tốn kém”. Một trong những cây cầu mà
Thành phố định làm, được bắc từ đường Tôn Đức
Thắng, thẳng theo con đường này tính từ hướng Đinh Tiên Hoàng chạy xuống bờ sông, trước khi nó uốn cong về phía cột
cờ Thủ Ngữ. Chủ tịch Võ Viết Thanh nói: “Tôi
trình bày riêng với Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông nhất trí. Nhưng, theo lời khuyên
của ông Kiệt, tôi mời Bộ trưởng Quốc phòng
Đoàn Khuê vào, dẹp hết các ấn tượng cá nhân về con người này, tôi đích thân cùng ông đi ca - nô dọc sông Sài Gòn để
xem kế hoạch di dời Tân Cảng, Ba Son trong
điều kiện xây cầu Thủ Thiêm. Ông Đoàn Khuê không kết luận gì, nhưng sau chuyến
đi ấy, thấy anh Mai Xuân Vĩnh cho Thành phố
mượn trước 30 tỷ để giải phóng mặt bằng”.
Nhưng khi phương án được trình lên, theo ông Võ Viết Thanh: “Tại
cuộc họp Bộ Chính trị, khi ông Đỗ Mười chưa kịp nói gì, ông
Đoàn Khuê đã phản ứng gay gắt. Đoàn Khuê nói rằng, xây cầu, nếu có chiến tranh thì làm sao bảo vệ. Tôi nói thẳng, vấn đề là
làm sao đừng để chiến tranh xảy ra, chứ khi đã
có chiến tranh thì không chỉ cầu mà đường hầm cũng không bảo vệ được. Tôi không
nghĩ là tất cả Bộ Chính trị đều không nhận ra
tư duy quân sự ấu trĩ ấy của Đoàn Khuê”. Theo ông Trần Xuân Giá: “Ông Lê Đức Anh cũng cho rằng, dứt khoát không được làm cầu
nổi vì Ba Son cần giữ bí mật”.
Khi làm đại lộ Đông - Tây, lẽ ra nếu làm cầu thì chỉ hết chưa tới
100 triệu đôla, nhưng Thành phố cũng đã bị buộc phải làm
đường hầm qua Thủ Thiêm với kinh phí cao hơn gần gấp ba lần. Ông Võ Văn Kiệt nói: “Thôi, Bảy Thanh, hãy để cho 4 triệu dân
Thành phố đánh giá”. Nhưng, sẽ không có một
thiết chế chính trị nào để bốn triệu dân Thành phố đánh giá những quyết định
của các nhà chính trị. Bản chất vấn đề, theo
ông Lê Văn Nam: “Ông Kiệt nói ngắn gọn: Tụi mình thua nhà binh”.
Theo Bộ trưởng Trần Xuân Giá, nhiều lần, ông Võ Văn Kiệt “tức như
bò đá” vì có những dự án đầu tư đã xong đâu vào đấy nhưng
không thể nào thực hiện vì Bộ Tổng Tham mưu trả lời không. Theo nguyên tắc, tất cả các dự án đầu tư nước ngoài đều phải có
văn bản hỏi ý kiến Bộ Tổng Tham mưu về vị trí.
Bộ Tổng Tham mưu sẽ căn cứ vào bản đồ “Bố phòng Quốc gia” để trả lời được hay
không mà không cần giải thích.
Theo ông Giá, quốc gia nào cũng có một bản đồ bố phòng, nhưng vấn
đề là những người lãnh đạo
Bộ Quốc phòng đã sử dụng tư duy quân sự của thập niên
1960 để điều chỉnh những bước đi của thập niên
1990, 2000. Có lần ông Kiệt phải kêu lên: “Tôi là Thủ tướng, là Uỷ viên Bộ
Chính trị mà cũng không được xem bản đồ bố
phòng”. Theo ông Giá, đấu tranh mãi cuối cùng ông Kiệt mới yêu cầu Bộ Chính trị tổ chức một cuộc họp, đưa bản đồ bố phòng quốc
gia ra, thống nhất chỗ nào dứt khoát người
nước ngoài không được đầu tư, chỗ nào có thể xem xét.
Tuy nhiên, ông Kiệt cũng không dễ dàng thắng “tư duy nhà binh”.
Theo ông Giá: “Khi xem xét
những vấn đề cụ thể như khu đô thị Nomura, ông Lê Đức
Anh cũng phản đối. Lê Đức Anh nói: Chúng ta để
cho người nước ngoài đứng ở những đầu cầu vững chắc để tấn công Hà Nội. Có lẽ
ông ấy nghĩ, Nomura được đầu tư bởi người nước
ngoài thì cũng có thể thành một căn cứ quân sự của nước ngoài”.
Hoá giá nhà
Ở Sài Gòn và các tỉnh phía Nam, sau ngày 30-4-1975, Chính quyền
tiếp quản hàng trăm nghìn căn nhà, phần từ quỹ nhà công
của Việt Nam Cộng hoà, phần nhà tư của những người di tản trước ngày 30-4-1975 hoặc tịch thu của những người ở lại(439).
Hơn 70.000 căn nhà ở Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có hàng ngàn
căn biệt thự, được phân phối cho cán bộ, công nhân viên,
dưới danh nghĩa là “thuê”. Nói là thuê, nhưng những cán bộ ở trong đó đã coi việc thuê nhà như một động thái chiếm hữu. Theo
chính sách bao cấp, tiền thuê những căn nhà,
kể cả những căn biệt thự đó, được tính không quá 5% tiền lương của người thuê.
Nhà nước chỉ thu được một khoản tiền rất tượng
trưng: một ngôi biệt thự chỉ từ 10 đến 20 nghìn đồng/tháng; một căn hộ cấp II, 5000 đồng/tháng; một căn hộ trong chung cư
có từ 2 -3 phòng, giá chỉ từ 2000 đến 4000
đồng/tháng. Chính sách bao cấp đưa cả căn biệt thự rộng 400 - 500m 2 cho một hộ 3-4 nhân khẩu,
trong khi hàng triệu người vẫn không có nhà.
Vì là chủ sở hữu nên Nhà nước vẫn có trách nhiệm phải sửa chữa
những căn nhà này khi có yêu cầu. Chính quyền
Thành phố tính rằng, phải thu 100 năm tiền thuê nhà mới bằng khoản tiền mà Nhà
nước phải bỏ ra để sửa chữa trong hơn 10 năm
đó. Trong thời gian bao cấp, ít ai để ý, nhưng khi nền kinh tế chuyển dần sang thị trường, các nhà đầu tư nước ngoài
bắt đầu vào, nhu cầu thuê nhà xuất hiện thì sự
bất hợp lý này càng bộc lộ. Giá biệt thự cho người nước ngoài thuê ở thời điểm
đầu thập niên 1990, trung bình từ 1000-3000
USD/tháng/căn, có khi lên tới 6.000 USD, chủ nhà lại thường được trả trước một năm tiền nhà với một khoản tiền đủ để đi mua
nhà mới. Thành phố điều chỉnh bằng quy định,
“điều tiết” một phần tiền từ những người này với mức tối đa 25.000 đồng/m
2 , trong khi họ
có thể cho thuê lại với giá 10- 15 USD/m 2 .
Chính sách bao cấp đã làm cho diện tích bình quân về nhà ở ở Sài
Gòn giảm từ 8m
2 /người năm 1945
xuống còn 5,1m 2
/người năm 1989. Với tốc độ tăng dân số bình quân mỗi
năm là 100.000 người, để giữ được diện tích
tối thiểu của năm 1990: 5m 2 /người, mỗi năm Thành phố phải xây mới 500.000m 2 nhà ở. Trong khi, theo
thống kê của Sở Nhà đất, 15 năm “sau ngày giải phóng”, Thành phố chỉ xây
được từ 150.000 đến 175.000 m 2 nhà ở/năm.
Ở thời điểm năm 1990, Thành phố có 43.000 căn nhà lụp xụp, rách
nát, trong đó có 17.000 căn hộ sống trên kênh rạch ô nhiễm
nặng cần phải cải thiện hoặc giải toả. 15 năm sau ngày “giải phóng”, trong số 185 hộ ở Cầu Ván, một vùng nghèo ở vùng ven, chỉ
có một hộ thay được mái lá bằng mái tôn, loại
tôn cũ gỡ lại. Ở phường 12, quận Bình Thạnh, năm 1990, có 1.200 người sống
trong 300 căn hộ dựng tạm trên nghĩa địa,
không nước, không điện. Toàn Thành phố còn hơn 10.000 người sống lang thang dọc các vỉa hè hoặc gầm cầu.
Từ cuối năm 1989, Thành phố chủ trương tìm nguồn vốn bằng cách bán
những căn nhà đang cho
thuê này cho những người đang thuê những căn nhà đó,
chủ yếu họ là cán bộ, công nhân, với giá nhà nước,
thấp hơn nhiều so với giá thị trường, gọi là hoá giá nhà.
Theo ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp, khi ấy là Chủ tịch Thành phố: “Đoàn
của Hội đồng Bộ trưởng đã
đồng ý cho phép Thành phố làm và khuyến khích khẩn
trương làm. Ngày 9-2-1990, Uỷ ban Nhân dân
Thành phố ra thông báo về chỉ đạo này của Hội đồng Bộ trưởng để các nơi tích
cực chuẩn bị tổ chức thực hiện”. Từ đó cho tới
tháng 7-1991, theo Báo cáo của giám đốc Sở Nhà đất: đã có 12.000 đơn xin hoá giá nhà cấp III, IV; các ban chỉ đạo hoá giá
nhà đã hoàn tất 3.349 hồ sơ, trong đó đã thu tiền
bán 1.761 căn nhà; trong số này, có 87 căn nhà theo diện chính sách được cấp
không.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng 6-1991, ông Đỗ Mười trở thành
Tổng bí thư, ông Võ Văn Kiệt, tuy chưa chính thức được
Quốc hội bỏ phiếu bầu, nhưng theo sự phân công của Đảng đã trở thành người thay thế ông Đỗ Mười đứng đầu Chính phủ. Theo ông
Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Thành phố cử ba cán bộ phụ
trách lĩnh vực - ông Nguyễn Văn Huấn, uỷ viên Ban Thường vụ Thành uỷ, phó chủ
tịch Uỷ ban Phụ trách nhà đất; Ông Lê Văn Năm,
uỷ viên Uỷ ban; Ông Lê Thanh Hải, giám đốc Sở Nhà đất - ra Hà Nội xin ý kiến Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng và
Bộ Xây dựng cho hoá giá nhà cấp I, II và biệt
thự”. Đây là những cán bộ đã từng có mối quan hệ gần gũi với ông Võ Văn Kiệt và
sau khi tiếp xúc, cả chính thức và tại nhà
riêng, Đoàn về báo cáo với Thường vụ Thành uỷ, Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Xây dựng đồng ý cho thành phố làm.
Sáng 12-7-1991, trong một cuộc họp có báo chí tham dự, Chủ tịch
Nguyễn Vĩnh Nghiệp chỉ thị phải tăng nhanh tiến độ hoá giá
nhà để đến cuối tháng 9-1991 phải hoá giá xong nhà cấp III, IV. Ngày 30-7-1991, Thành phố ra Quyết định “hoá giá nhà cấp I, II và
biệt thự”.
Hàng trăm căn biệt thự đã được bán ra với giá vô cùng rẻ mạt. Thế
nhưng, để có tiền mua hoá giá, nhiều người đã phải “bán lúa
non” cho người khác với giá cao hơn hàng chục lần so với giá thực trả cho Nhà nước. Thanh tra phát hiện ra bốn trường hợp bán
lại, trong đó có những trường hợp đã kịp bán
lại hai lần trong những tuần đầu. Một trong những người bán lại sớm nhất nhà
hoá giá là Đại tá Lê Hãn, con trai trưởng Tổng
bí thư Lê Duẩn. Khi được điều vào Quân khu VII, ông Hãn được cấp một căn biệt thự có khuôn viên rộng trên đường Nguyễn
Thông, giữa trung tâm quận Ba. Ngay sau khi
“hoá giá”, ông Lê Hãn đã bán lại căn nhà này với khoản chênh lệch giá lên tới
1,6 tỷ, một khoản tiền khổng lồ lúc đó. Ông Lê
Thanh Hải nói: “Tôi biết là có chuyện liền gửi thư cho Lê Hãn nói đừng làm thế, nhưng Lê Hãn không nghe”.
Khi cho cán bộ công nhân viên thuê nhà, thực chất là Nhà nước đã
trả lương cho những cán bộ, công nhân đó một khoản tiền lương
bằng hiện vật. Nhưng, có tới 70% cán bộ, công nhân viên và lực lượng vũ trang trên cả nước không được cấp nhà, nghĩa là
không được hưởng phần lương bằng hiện vật này.
Trong số 30% được cấp nhà ấy, phần lớn sống tại các thành phố phía Nam, đặc
biệt là Sài Gòn.
Trừ một số vị công thần của Đảng, đa số cán bộ ở Hà Nội, đầu thập
niên 1990 chỉ được sống trong những căn hộ chật hẹp, hoặc
có khi, hàng chục hộ chia nhau một căn biệt thự. Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc và Chủ tịch thành phố Hà Nội Hoàng Văn
Nghiên khi nhận chức đều đang sống trong những
căn hộ chỉ có 24m 2 . Trong khi, chỉ cần cán bộ cấp sở ở Sài Gòn cũng đã có thể
được cấp những căn biệt thự có khuôn viên rộng
hàng trăm mét. Con số chênh lệch giá lên tới hàng trăm lượng vàng sau khi được hoá giá nhà trở thành những thông tin làm
rúng động cả nước. Ông Nguyễn Văn Huấn nói:
“Bà Ngô Bá Thành cho rằng Thành phố tham nhũng tập thể. Nhiều ý kiến nói Thành
phố chia chiến lợi phẩm, cướp công trạng của
cả dân tộc, chia chác xương máu của cả nước”.
Ngày 13-9-1991, Hội đồng Bộ trưởng có công điện yêu cầu Thành phố
đình hoãn việc hoá giá nhà. Nhưng, như đã đâm lao, Thành
phố không thể dừng lại ngay vì sức ép của chính các cán bộ đang ở trong những căn nhà mà nếu được hoá giá ngay lập tức họ trở
thành triệu phú. Nếu như, trong khoảng từ 30-7
đến 13-9-1991, Thành phố chỉ hoá giá được 465 căn nhà cấp I, II và biệt thự,
thì chỉ bảy ngày sau khi có lệnh ngưng của Hội
đồng Bộ trưởng, từ ngày 13 đến 19-9-1991, số nhà được hoá giá lên tới 991 căn.
Bộ Chính trị triệu tập lãnh đạo Thành phố, Bí thư Võ Trần Chí, Phó
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Giám đốc Sở Nhà đất Lê Thanh
Hải, ra Hà Nội. Những người ở hậu trường biết rõ, mũi tên hoá giá nhà chủ yếu nhắm thẳng vào ông Võ Văn Kiệt. Ông Võ Văn Kiệt
lúc đó buộc phải nói rằng những người gặp ông
hồi đầu tháng 7-1991 đã hiểu sai câu nói của ông, Hội đồng Bộ trưởng chưa có
chủ trương cho hoá giá nhà cấp I, II và biệt
thự.
Trước áp lực chất vấn của Quốc hội (ngày 20-12-1991), Bộ trưởng
Xây dựng Ngô Xuân Lộc nói:
“Việc hoá giá nhà cấp III, IV là hợp lệ vì Hội đồng
Bộ trưởng đã cho phép. Tuy nhiên, hoá giá nhà cấp
I, II và biệt thự thì Hội đồng Bộ trưởng chưa có chủ trương. Việc Uỷ ban Nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh ký quyết định cho
hoá giá là vượt thẩm quyền”. Ông Lộc còn cho rằng: “Chúng ta đang điều hành Nhà nước theo pháp luật nhưng đấy là một
việc làm sai pháp luật, gây thất thoát lớn tài
sản của Nhà nước. Hội đồng Bộ trưởng tiếp tục yêu cầu hoãn hoá giá nhà cấp I,
II; những người đã mua, đã có chủ quyền, tạm
thời không được bán; khẩn trương xác định danh sách khu vực nhà không được bán để thu lại những nhà đã hoá giá”.
Bộ trưởng Ngô Xuân Lộc vừa trả lời xong thì đại biểu Dương Xuân An
công bố trước Quốc hội văn
bản số 96, ký ngày 2- 12-1991 của Thành phố nói rằng
“việc hoá giá nhà, Thành phố chỉ làm sau khi có
thỉnh thị ý kiến của Hội đồng Bộ trưởng và Bộ trưởng Bộ Xây dựng”. Gần hai mươi
đại biểu có ý kiến ngay sau đó, nhiều người
đòi “đặt vấn đề hoá giá nhà của Thành phố trong bối cảnh chống tham nhũng” để xử lý, nhất là với những cán bộ đương chức được
hoá giá nhà với giá rẻ có thể bán lại thu lợi
hàng trăm lượng vàng. Chánh án Phạm Hưng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Nguyễn
Tài, Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Ngô Bá Thành,
đòi “vụ việc phải được xử lý trước pháp luật”(440).
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt phải xuất hiện, ông nói:
“Tôi tán thành với ý kiến của các đại biểu và đề
nghị Quốc hội lập một đoàn thanh tra, nếu phát hiện sai phạm pháp luật thì xử
lý theo pháp luật”. Các đại biểu Quốc hội cho
rằng lập đoàn thanh tra là cần thiết để xử lý các sai phạm, để thu hồi tài sản thất thoát và đòi Quốc hội phải ra một nghị
quyết bày tỏ thái độ(441).
Lúc ấy, nhiệm kỳ của “tam nhân” chỉ mới bắt đầu, sức ép đã đủ để
ông Võ Văn Kiệt có những bước lùi. Về mặt công khai, Chủ
tịch Quốc hội Lê Quang Đạo cho trì hoãn việc Quốc hội ra nghị quyết bằng cách hứa là Hội đồng Nhà nước sẽ ra quyết định. Ông Võ
Văn Kiệt vượt qua được sóng gió nhưng đã phải
chịu những tổn thất lớn trong tình cảm với những người bạn ở Sài Gòn(442).
Đường dây 500
Không còn như thời kỳ “nhà nước đảng”. Bắt đầu từ thập niên 1990,
Chính phủ trực tiếp ban hành và trở thành trung tâm điều
hành các chủ trương, chính sách lớn. Một trong những chủ trương lớn của thời kỳ đó là cho xây dựng đường dây tải điện siêu cao áp
từ Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình vào miền Nam, về
sau gọi là Đường dây 500 kV(443).
Cuối năm 1991, miền Nam thiếu điện nghiêm trọng, trong khi, Nhà
máy thuỷ điện Hoà Bình, dự kiến vào năm 1995, sẽ sản xuất ra
một lượng điện mà miền Bắc không có khả năng khai thác hết. Bộ Năng lượng tuy đưa ra hai phương án: bán sang Trung Quốc
hoặc làm đường dây siêu cao áp để tải vô Nam.
Nhưng Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải vẫn nói trong Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng: “Chúng
tôi khảo sát, nếu bán sang Trung Quốc thì giá
không đến nỗi nào nhưng do phải xây dựng một đường dây 220 kV để tải điện sang nên tính ra không còn dư bao
nhiêu. Nếu chuyển điện vào miền Nam thì phải
xây một đường dây siêu cao áp”.
Việt Nam khi ấy vừa bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, phương
án bán điện cho họ cũng
được một số người tán thành. Nhưng, theo ông Kiệt:
“Nam Bộ thiếu điện trầm trọng, các nhà đầu tư vào,
câu đầu tiên là hỏi về điện. Vấn đề không chỉ là Trung Quốc, trong đầu tôi
không có chuyện bán điện. Cũng may là khi bàn
chuyện bán điện, có người phản ứng, miền Bắc thiếu gạo thì miền Nam đưa ra, bây giờ miền Nam thiếu điện, không lẽ miền Bắc đưa
bán sang Trung Quốc”. Theo ông Vũ Ngọc Hải:
“Ông Kiệt nói: Tôi còn làm Thủ tướng thì không bán điện đi đâu cả”. Ông Kiệt
quyết định sớm làm đường dây siêu cao áp để
đưa điện vào Nam. Chủ trương này được Tổng bí thư Đỗ Mười đồng tình.
Về mặt thủ tục, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, quá trình hình thành
chủ trương xây dựng đường dây 500 kV cũng có những thiếu
sót. Ông Kiệt nói: “Tôi và ông Đỗ Mười trao đổi, hai bên thống nhất lắm. Hai, ba lần họp Bộ Chính trị, ông Mười nhắc: Anh Kiệt
nên làm gấp đường dây 500. Nhưng, ông Mười
không bao giờ cho bàn chính thức để đi đến một quyết nghị của Bộ Chính trị. Thế
rồi, khi anh Nguyễn Văn Linh hỏi anh Đỗ Mười:
Chủ trương đâu, thì té ra, trong Bộ Chính trị cũng có nhiều người không đồng tình, tỏ ra bực bội, nói ông Kiệt tự ý
làm. Anh Mười im lặng. Ông Linh dựa vào đó nạt
mình”.
Trước Tết năm 1992, nghĩa là ở thời điểm mà chủ trương đã hình
thành, Giáo sư Nguyễn Khắc
Nhẫn, một Việt kiều ở Pháp, nêu ra ba nghi vấn về
đường dây 500 kV: Đường dây dài gần 1.500 km, tạo
ra chênh lệch 1/4 bước sóng cho nên không thể tải điện đi miền Nam; Chưa có
luận chứng mà đặt mục tiêu thi công trong hai
năm là không tưởng; Giá thành sẽ rất cao, về mặt hiệu quả kinh tế là không có. Nhà báo Minh Thu kể: “Tôi đến gặp ông không lâu
sau khi có thư của ông Nhẫn. Ông đưa lá thư
cho tôi coi rồi nói: Chú đã cho thư ký photo gửi hết cho anh em. Tôi kêu lên:
Trời ơi, sao chú làm thế? Ông cười: Không có
ai chỉ ra những điểm yếu của mình đầy đủ như những người phản đối mình. Ở đây có những cảnh báo mà anh em chưa đặt ra hết”.
Ông Vũ Ngọc Hải thừa nhận: “Dù tin anh em, ông Kiệt vẫn bị ám ảnh
bởi ý kiến của Giáo sư Nhẫn”. Ông Kiệt triệu tập khẩn cấp
ông Vũ Ngọc Hải. Ông Hải nói: “Tôi thức trắng một đêm, xem tài liệu và tự mình tính toán. Việc xử lý chênh lệch 1/4 bước sóng
bằng năm trạm bù đã được các chuyên gia nước
ngoài thẩm định. Tôi quyết định ký và đảm bảo với Thủ tướng: Anh an tâm, tôi lo
nhất là vấn đề an ninh chứ không phải là an
toàn. Anh đảm bảo vấn đề an ninh, vấn đề kỹ thuật, tôi đảm bảo. Ông Kiệt quyết định và nói: Cứ làm, nếu thất bại thì không
đợi cách chức, tôi sẽ chủ động từ chức”.
Nhưng lá thư của ông Nhẫn đã được những người phản đối công trình
khai thác. Theo ông Vũ Ngọc Hải, ông Nguyễn Văn Linh vốn
ủng hộ phương án bán điện, lấy tiền xây nhà máy nhiệt điện ở miền Nam, nhưng trước đó, chưa có đủ lập luận để phản bác. Sau
khi có được lá thư của ông Nhẫn, từ miền Nam,
bà Ngô Bá Thành, người được ông Nguyễn Văn Linh đưa lên chức Chủ nhiệm Uỷ ban
Pháp luật Quốc hội, nói gần nói xa: Làm đường dây 500
là tự sát. Ông Đỗ Mười lúng túng.
Trụ điện đầu tiên của công trình đường dây 500 kV được khởi công
vào ngày 1-3-1992. Ông Võ Văn Kiệt đã “đổ thêm dầu vào
lửa” khi, ngày 24-3-1992, ngày Quốc hội khoá VIII khai mạc kỳ họp cuối cùng, ông bay lên Hoà Bình dự lễ khởi công công trình xây
dựng cột điện ở nơi khởi nguồn của đường dây.
Ông Nguyễn Hà Phan nói: “Bữa ông đi khởi công, tôi khuyên: Anh đợi tới chiều
hẵng đi, dự khai mạc Quốc hội đã. Nhưng ông
vẫn đi. Bà Nguyễn Thị Bình, Phó Chủ tịch nước nói: Ông này bất kể thiên địa. Một ông rất to trong Quốc hội lo: Gió bão
nó đổ một cây cột thì ai chịu? Chủ tịch Quốc
hội Lê Quang Đạo nói với tôi: Sáu Phan à, làm cái này coi bộ vướng”.
Trong khi đó, Hà Nội nhận được những tín hiệu mà Cố vấn Nguyễn Văn
Linh phát ra từ Sài Gòn.
Khi không chính thức đưa công trình đường dây 500 ra
bàn ở Bộ Chính trị, ông Đỗ Mười cũng có những
tính toán. Năm 1989, hai lần ông Đỗ Mười cho thảo một nghị quyết để Bộ Chính
trị hoặc Ban Chấp hành Trung ương thông qua,
hợp thức hoá chủ trương chống lạm phát bằng “lãi suất cưỡi sóng” của ông, nhưng cho dù ủng hộ, ông Nguyễn Văn Linh lờ
đi. Chỉ khi làm thí điểm ở Hải Phòng có kết
quả, Hội nghị Trung ương 6 khoá VI mới đưa vấn đề chống lạm phát vào Nghị
quyết.
Không phải ông Võ Văn Kiệt không biết tình huống chính trị này,
nhưng khi không hối thúc ông Đỗ Mười chính thức có chủ
trương, ông Kiệt cũng có những cân nhắc. Ông Kiệt không muốn tạo tiền lệ
Chính phủ làm gì cũng phải được bàn trước trong Bộ
Chính trị và phải xin ý kiến Quốc hội(444). Việc
ông Kiệt phát lệnh khởi công một công trình lớn ba tuần trước khi Quốc hội khoá
VIII họp kỳ cuối cùng đã làm mếch lòng rất
nhiều đại biểu.
Ngày 13-4-1992, trong phiên họp toàn thể của Quốc hội, Phó Chủ
nhiệm Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Giáo sư
Vũ Đình Cự nói: “Uỷ ban chúng tôi đã phải làm một việc rất khó khăn vì phải phát biểu ý kiến về một công trình quan trọng, nhân
dân cả nước quan tâm, đã có quyết định của Hội
đồng Bộ trưởng và lại vừa được cử hành lễ khởi công rất trọng thể ở nhiều nơi
trong nước”(445).
Ông Vũ Đình Cự nói tiếp: “Ngày 3-2-1992, Bộ Năng lượng mới trình
hồ sơ luận chứng kinh tế kỹ thuật, ngày 17-2-1992, Hội
đồng Thẩm tra Nhà nước chỉ làm việc trong một ngày, vậy mà đến ngày 19-2-1992 đã trình lên Hội đồng Bộ trưởng để phê duyệt. Từ
đó dẫn đến một số khiếm khuyết. Nhiều vấn đề
khoa học kỹ thuật và công nghệ chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo… Chúng
tôi xin nói thêm là khi đề nghị các chuyên gia
đầu ngành về kỹ thuật điện cho biết là đã có những nước nào làm đường dây 500 kV dài trên 1000 cây số, thì các đồng chí
không nắm vững; có một đồng chí cho biết đường
dây của chúng ta là đường dây thứ ba. Trên thế giới mới có hai đường dây trên
dài trên 1000 cây số và điện áp là siêu cao
áp. Sau khi xây dựng chỉ có đường dây của Pakistan, dài 1200 cây số là dùng được, còn đường dây kia, dài 1700 cây số thì không
dùng được”. Đặc biệt, theo ông Vũ Đình Cự:
“Chưa có cơ sở về khả năng thi công hoàn thành đúng thời gian trong hai năm khi
mà nguồn vốn chưa được xác định vững chắc, vật
tư chủ yếu đều phải nhập ngoại”.
Một thành viên của Hội đồng Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học
Nhà nước Đặng Hữu, cũng
dấy lên không ít hoài nghi khi ông nói trước Quốc
hội: “Chủ trương đặt ra là cần thiết nhưng, có nhiều
vấn đề khoa học chúng ta chưa kịp nghiên cứu. Anh em cũng hơi băn khoăn lo
lắng… Cái phần 1/4 bước sóng, tôi đồng ý như
anh Nguyễn Đình Tứ đã nói. Thực ra, về lý thuyết anh em hiểu hết và trên thực tế các nước đã làm rất nhiều ở Liên Xô và
Mỹ. Nhưng vấn đề lại là chúng ta chưa có đội
ngũ chuyên gia để làm những công việc đó. Lo là lo chỗ đấy!… Nếu như làm một
cái trụ thôi thì có lớn hơn chúng ta cũng có
thể làm được. Nhưng mà đây là làm một dãy dài hơn 3.000 cái trụ trong một thời gian ngắn. Mặt thứ hai, nếu dựa vào nước ngoài một
nửa thì hôm trước anh Hiệu có đề xuất với anh
Sáu (Võ Văn Kiệt), anh Sáu cũng đồng ý có thể mời chuyên gia Liên Xô cùng tham
gia vào đây”.
Nhưng hai tiếng “chuyên gia Liên Xô” được nói lên ở thời điểm này
lại dấy lên những quan ngại khác. Bí thư Trung ương
Đảng, Viện trưởng Viện kiểm sát Tối cao Trần Quyết nói: “Liên Xô trước đây thì chúng ta rất an tâm bởi vì là nước xã hội chủ
nghĩa, Đảng Cộng sản cầm quyền, bây giờ Đảng Cộng
sản mất rồi, chính quyền Xô viết mất rồi. Những chuyên gia mà lại là đảng viên
cộng sản thì còn được dùng không? Có được gửi
sang Việt Nam không? Hay người ta gửi những thứ ba vạ sang đây, mang tiếng chuyên gia Liên Xô. Cái ông Yeltsin ấy,
Quốc hội chẳng lạ lùng với những gì họ làm ở
nước Nga. Họ phá tan Đảng Cộng sản, phá tan Liên bang Xô viết. Vậy thì đối với
Việt Nam thì như thế nào”.
Tháng 8-1992, tại Hội nghị Cán bộ tổ chức toàn quốc, họp tại Thành
phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Linh, bấy giờ đang là Cố
vấn Ban Chấp hành Trung ương đến dự đã nói: “Làm đường dây 500 kV là một chủ trương phiêu lưu, mạo hiểm. Là lợi dụng tiền
Nhà nước để gây thanh danh cá nhân”. Đặc biệt
tại đây, ông Linh đã dấy lên những lo ngại về vấn đề tham nhũng.
Nữ nhà báo Minh Thu nhớ lại: Đầu thập niên 1980, khi lên Trị An
làm phóng sự, bà chứng kiến một nhóm cán bộ đứng trong rừng
trước một tấm bản đồ. Chính giữa họ là một người đàn ông trạc 60 tuổi, phong trần, mặc áo may ô, đang nói rất say sưa: “Tôi
nói với mấy anh rằng, xây dựng một công trình
như thế này mà tham ô, ăn cắp, thì cũng như ăn đồ dơ”. Ông chấm dứt câu nói
bằng một cú chém tay rất mạnh ngang trong
không khí. Minh Thu, một phóng viên mới vào nghề, sau đó mới biết đó là Bí thư Thành uỷ Võ Văn Kiệt.
Hơn mười năm sau khi bắt đầu đường dây 500 kV, ông Kiệt cũng căn
dặn “các tướng” của mình là “không được tắt mắt”. Ngày
24-3-1992, khi ông Kiệt lên xã Mạc Đức, Hoà Bình làm lễ khởi công trụ điện số Một, một công nhân đã bỏ vào túi ông Vũ Quốc Tuấn,
thư ký ông Kiệt, một lá thư tố cáo vụ mất cắp
năm tấn xi măng ở công trường. Ông Vũ Ngọc Hải nói: “Ông Tuấn báo với ông Kiệt,
ông Kiệt đọc và nói với tôi: Phải xử lý ngay
để làm gương”. Vừa bắt đầu ra quân đã phải trảm tướng: Giám đốc Công ty xây lắp Điện I bị cách chức.
Về sau, chính tác giả của đường dây 500, Bộ trưởng Bộ Năng lượng
Vũ Ngọc Hải cũng phạm phải
một sai lầm chết người. Ban Quản lý công trình do ông
Hải đứng đầu có thẩm quyền nhập thẳng thiết bị,
vật tư từ nước ngoài. Nhưng, ông Hải đã đồng ý cho một “công ty đời sống” của
Hội hữu nghị Việt Nam - Ba Lan mà ông làm Chủ
tịch, đấu thầu đứng ra nhập 4.000 tấn thép, giúp công ty này hưởng một khoản lời khá lớn. Công trình đường dây 500 lúc
ấy có hàng chục nghìn công nhân nhưng đồng
thời cũng có hàng triệu con mắt để ý đến từng chi tiết. Áp lực chính trị đè
nặng lên ông Võ Văn Kiệt khi có nhiều ý kiến
yêu cầu bỏ tù ông Hải.
Ông Vũ Ngọc Hải lúc bấy giờ đang là một uỷ viên Ban Chấp hành
Trung ương, theo nguyên tắc Đảng, việc khởi tố ông chỉ
có thể tiến hành sau khi Trung ương họp quyết định hình thức kỷ luật. Ông Hải kể: “Hôm Trung ương họp để kỷ luật tôi, họ có mời
tôi đến nhưng tôi không được vào phòng họp
ngay. Một chuyên viên của Văn phòng Trung ương đợi tôi ở cổng số 4 Nguyễn Cảnh
Chân, kèm tôi đi vào một phòng riêng, đợi đến khi Hội
nghị Trung ương khai mac mới cho tôi vào dự.
Trước Hội nghị Trung ương, tôi thừa nhận đã ‘bút phê’ để công ty của Hội có thể
tham gia đấu thầu và cho rằng việc đó không có
gì sai pháp luật. Nếu là một công ty khác, tôi vẫn giới thiệu”. Trình bày xong, người của Văn phong Trung ương lại đến bên
ông Hải nói: “Theo yêu cầu của Ban Bí thư, mời
anh về”.
Ông Hải không được có mặt trong phần “luận tội” sau đó. Thủ tướng
Võ Văn Kiệt thấy “cách làm
không dân chủ” cũng bỏ về. Theo Bộ trưởng Chủ nhiệm
Văn phòng Chính phủ Lê Xuân Trinh: Cuộc họp do
ông Đỗ Mười chủ trì. Thứ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Tâm Long chi nói một câu: “Nếu
không khởi tố anh Hải với anh Lê Liêm thi vụ
án coi như bỏ đi”. Ông Đỗ Mười kết luận: “Cứ khởi tố, nếu điêu tra xong mà không thấy vấn đề gì thì thôi”. Sau Hội
nghị Trung ương, ông Đỗ Mười cho gọi Bộ trưởng
Nội vụ Bùi Thiện Ngộ và Chánh án Tối cao Phạm Hưng lên, quán triệt: “Đây là
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, các
anh chấp hành”.
Sau đó, theo ông Vũ Ngọc Hải, ông Nguyễn Văn Linh có ra Hà Nội găp
ông Lê Thanh Đạo, Viện
trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Cáo trạng,
được điều chỉnh từ khung 1, cảnh cáo, lên khung 2,
có mức án từ ba năm tủ trở lên. Ông Hải sau đó lãnh án 3 năm tù giam. Thứ
trưởng Lê Liêm lãnh án tù treo.
Mất tướng giữa đường, ông Võ Văn Kiệt càng quyết tâm cao hơn để
hoàn thành công trình. Ông có mặt ở những nơi cam go nhất.
Ông chứng kiến những công nhân gùi vật tư leo lên đèo Lò Xo, đầu người đi sau chạm vào gót chân người đi trước. Thay vì dùng
trực thăng kéo cáp như Thái Lan, ông chứng
kiến cảnh công nhân cầm bó mía đi trước dụ con voi đang cong lưng kéo những
đoạn cáp mồi. Đường dây hoàn thành đúng tiến
độ. Nhưng chính đây lại là thời điểm ông Kiệt lo lắng nhất: Đóng điện.
Chiều ngày 27-5-1994, báo chí túc trực trước cổng Tổng công ty
Điện lực Việt Nam, ông Kiệt đến từ cổng sau. Gần 6
giờ mà báo chí vẫn chưa được vào. Nhà báo Minh Thu kể: “Tôi viết vào một mảnh
giấy nhỏ: Xin chú cho quay làm tư liệu thôi. Sát giờ
đóng điện, ông nói với Điện lực: Cho truyền hình
vào. Tôi là người duy nhất có mặt. Khi ấy ông vẫn rất căng thẳng, môi ông khô
khốc, miệng há hốc, ngước nhìn lên bảng điện.
19 giờ 07, đèn bật sáng, báo: Phú Lâm đã nhận được dòng điện đúng như tính toán. Ông thở phào bước lên phòng tiếp tân. Người
đầu tiên mà ông đi tới, ôm lấy, là Thứ trưởng
Lê Liêm, đang thụ án treo. Ông Liêm, khi ấy đã ngoài 60 tuổi, mếu máo trong
vòng tay Thủ tướng”.
Sáng hôm sau, vào lúc 5 giờ sáng ở trại giam Thanh Xuân, phạm nhân
Vũ Ngọc Hải đang tập thể duc ở sân thi một Trại phó chạy
tới báo: “Anh Hải về mặc quần áo nhanh lên, Thủ tướng vào thăm đấy”. Ông Hải nhớ lại: Tôi thay đồ, lên phòng khách, Thủ tướng đã
ngồi đó. Ông mang theo hai chai sâm banh, ba
chiếc ly, vì sợ trong tù không có ly. Ông đứng dậy nắm chặt tay tôi, hỏi tôi có
khoẻ không, sinh hoạt ra sao. Trầm ngâm một
chút, ông hỏi: “Có biết vì sao mình vào không?”. Tôi bảo: “Tôi biết hôm nay đóng điện, chỉ không biết đóng vào giờ nào thôi!
Nhưng tôi tin là đóng điện đã thành công”. Ông
bảo: “Mấy hôm nay mình mất ngủ vì lo”. Tôi hỏi: “Thế còn tối hôm qua anh có ngủ
được không?”. Ông nói: “Cũng mất ngủ vì vui sướng
quá!”. Rồi ông gắn huy hiệu đường dây 500KV
cho tôi. Ông bảo: “Anh là người đầu tiên được gắn huy hiệu này đấy”. Ông tự tay
rót ba cốc sâm banh, một cốc đưa cho tôi, một
cốc đưa cho Giám thị trại giam. Chúng tôi cùng chạm cốc. Còn một chai nữa, ông đưa cho tôi: “Hải cầm lấy”.
Phạm nhân được giữ lại trong trại cho đến khi Thủ tướng về. Khi
vừa ra khỏi phòng, họ giơ tay chào ông Hải, có
người hỏi: “Bộ trưởng vừa mới tiếp Thủ tướng a?”. Ông Hải: “Bộ trưởng cái cóc
khô”. Nhưng rõ ràng là ông Hải đã ở tù như Bộ
trưởng. Ông Hải kể: “Khi tôi nhập trại, ông Lê Minh Hương, khi đó là thứ trưởng Bộ Nội vụ vào kiểm tra trại
giam và cho giải phóng một cai trạm xá cũ để
tôi vừa ở vừa tiếp khách. Cái trạm xá này một nửa nằm trong trại, một nửa nằm
nhô ra khu tập thể của cán bộ trại. Hằng ngày,
khách đến thăm tôi nhiều nên anh em bố trí một phồng gần phòng làm việc của cán bộ trại giam. Đồng thời bố trí một phạm nhân
phục vụ, cứ có khách đến đăng ký thì họ lại
gọi tôi lên phòng đó tiếp khách, tiếp không có công an ngôi kèm đâu. Trong thời
gian tôi ở tù, ngoài Thủ tướng, Phó Thủ tướng,
có hai mươi tám Bộ trưởng, thứ trưởng và hai phu nhân Bộ trưởng cũng vào thăm”.
Sau Têt năm 1995, Phó Thủ tướng Phan Văn Khả vào thăm. Ông Hải kể:
“Anh Khải đem hai chai
rượu, nói: Đây là cơ quan tặng cậu. Rồi anh lấy ra
một chiếc áo rét: Cái này của tớ. Rồi rút ra một bao lì xì đỏ: Còn đây là của vợ tớ lì xì cậu! Anh Khải bảo: “Đường dây
500KV đóng điện thành công thế mà có vị vẫn
phản đối đấy”. Tôi nói: “Cái này thì tôi biết. Khi mới bị khởi tố, tôi vào
Thành phố Hồ Chí Minh, đến chơi nhà vợ chồng
ông Mười Hai, một người cũng vừa bị khởi tố trong vụ án khác, ông Mười Hai nói: “Vị ấy đã đồng ý sẽ tha tớ, nhưng
cậu sẽ chết”.
Sau khi vào trại gắn huy hiệu cho ông Hải, ông Kiệt tác động để
ông được tha. Ông Nguyễn Văn Linh nghe tin, điện cho ông
Đỗ Mười ngăn chặn. Ông Mười nói với ông Kiệt: “Tình hình chưa thể cho anh Hải ra trước Tết được”. Ông Kiệt nói: “Ta có bản
lĩnh của ta, vì sao lại phải sợ?”. Ông Mười:
“Thôi cứ để sau Têt”. Sau Tết ông Hải được đặc xá cùng với hàng ngàn phạm nhân
khác. Lần đầu tiên, lệnh đặc xá được Hà Nội áp
dụng, ở Sài Gòn, ông Nguyễn Văn Linh nói: “Đây là con bài để tha thằng Hải!”.
Đường dây 500 kV thành công nhưng Ban Bí thư không đồng ý cho làm
lễ khánh thành. Một người
thư ký cũ của ông Kiệt lúc bấy giờ là Phó Chủ tịch
trực Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, ông
Nguyễn Văn Huấn, nói: “Chẳng lẽ không làm gì? Tôi nói với anh Sáu Dân: Để tôi
làm cho. Anh Sáu dặn, không được lấy một cắc
từ ngân sách. Tôi huy động Hàng không, Sài Gòn Tourist tài trợ, tổ chức một bữa tiệc mời 600 quan khách. Trước Dinh Độc Lập
treo băng-rôn: Thành phố Hồ Chí Minh mừng dòng
điện 500 kV”.
Nhà báo Minh Thu kể: “Tôi vào Dinh, không có một quan chức nào của
Ban Bí thư hay Bộ Chính trị vào dự. Thấy ông ngồi một
mình, tôi đến, hỏi: Chú, cái nhà trẻ xây xong còn có lễ khánh thành, sao
một công trình thế này mà không có ngày khánh thành
hả chú. Ông kéo tôi ngồi xuống: Thôi, đóng điện
an toàn là tao mãn nguyện lắm rồi”.
Suốt buổi lễ, ông Kiệt im lặng. Một diễn từ cực ngắn được ông
Nguyễn Văn Huấn đọc: “Cái tên Phú Lâm giờ đây đã
trở nên quen thuộc, thân thương. Bởi, Phú Lâm là điểm cuối cùng của đường dây
huyết mạch nối liền với Hoà Bình. Sức mạnh sông Đà
qua Phú Lâm toả khắp phương Nam, làm đẹp, làm
giàu thêm, miền đất Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh có thêm điều kiện mới để
tiến lên trong vận hội mới. Cho phép tôi được
thay mặt đồng bào Thành phố gửi tới hai vạn người anh hùng, vẫn đang đứng trên công trường, bất chấp tất cả”. Nhiều năm
sau, khi kể lại câu chuyện này, ông Nguyễn Văn
Huấn vẫn tỏ ra vô cùng tâm đắc với câu: Bất chấp tất cả!
Chú thích
(413) Phó Ban Tổ chức Trung ương khoá V, VI; Trưởng Ban Bảo vệ
Trung ương Đảng khoá VII.
(414) Sau đó, khi họp Bộ chính trị, ông Nông Đức Mạnh đã bảo vệ
quyết định này của Quốc hội.
(415) Ông tham gia Mặt trận Bình dân năm 1936, vào Đảng Cộng sản
Đông Dương năm 1939. Từng
bị kết án mười năm tù giam, và đã phải nằm ở Hoả Lò
bốn năm. Năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp ông
cùng với các đồng chí của mình vượt ngục, bắt liên lạc ngay với Đảng rồi tham
gia lãnh đạo khởi nghĩa ở Hà Đông. Sau đó, ông
đã từng làm bí thư Tỉnh uỷ Hà Đông, bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam, bí thư Thành uỷ kiêm chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ tỉnh Nam Định.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã từng là
khu uỷ viên Khu III, bí thư Tỉnh uỷ Ninh Bình, phó bí thư Liên khu uỷ III,
chính uỷ Bộ Tư lệnh Liên khu III, bí thư Khu
uỷ Tả Ngạn sông Hồng kiêm chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chính và chính uỷ Bộ Tư lệnh khu Tả Ngạn; Năm 1955, ông được phân
công chỉ đạo tiếp quản khu 300 ngày rồi làm bí
thư Thành uỷ kiêm chủ tịch Uỷ ban Quân chính thành phố Hải Phòng.
(416) Huy Đức, Một Giờ với Tân Chủ tịch HĐBT Võ Văn Kiệt, Tuổi
Trẻ 13-8-1991.
(417) Huy Đức, Phỏng vấn Tân Thủ tướng Phan Văn Khải, Thanh Niên
27-9-1997.
(418) Ông Võ Văn Kiệt cũng có những quyết định gây tranh cãi rộng
rãi trong công chúng. Một
trong những quyết định đó là Chỉ thị 406- TTg ngày
8-8-1994 về việc “cấm sản xuất, buôn bán và đốt
pháo”. Đốt pháo trong các dịp cưới xin, hội hè đặc biệt là trong ngày Tết là
một truyền thống lâu đời. Tuy nhiên, những năm
đầu thập niên 1990, khi kinh tế khởi sắc, đốt pháo càng trở nên phổ biến
hơn. Theo chỉ thị 406: “Các đêm giao thừa, việc đốt
pháo trong các thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Quảng Nam - Đà Nẵng v.v… kéo dài liên tục từ 30 đến 40 phút,
tạo tiếng nổ ồn ào, làm cho người già, trẻ em,
người yếu tim, thần kinh yếu không chịu nổi, khói pháo dày đặc kéo dài, xe ô tô, xe gắn máy có lúc không đi lại được, gây
tắc nghẽn giao thông. Theo báo cáo của 44/53
địa phương, trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Tuất (1994) đã có 728 vụ tai nạn do
pháo gây ra, làm chết 71 người, làm bị thương
765 người và tiêu tốn hàng 20-30 tỷ đồng”. Kể từ ngày 1-1-1995, việc “sản xuất, buôn bán và đốt các loại pháo nổ, thuốc
pháo nổ trong phạm vi cả nước (trừ các loại pháo
hoa và thuốc làm pháo hoa)” đều bị nghiêm cấm. Quyết định này được thi hành
nghiêm tới mức, trước Tết, báo Người Hà Nội
sau khi đăng một bài viết bày tỏ chút trắc ẩn với pháo đã lập tức bị Bộ Văn hoá - Thông tin đình bản.
(419) Các ông: Phạm Văn Xô, nguyên Uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ Nam Bộ
thời kháng chiến chống
Pháp sau là Uỷ viên Thường vụ Trung ương Cục miền
Nam; tướng Đồng Văn Cống, Trung đoàn trưởng
Trung đoàn 99 Nam Bộ; Tư lệnh quân khu 9, Phó Tư lệnh quân giải phóng miền Nam;
Đại tá Nguyễn Văn Thi, nguyên Uỷ viên Thường
vụ Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một, cho tới lúc chết vẫn ký đơn tố cáo Lê Đức Anh. Những nhà cách mạng đàn anh của Lê Đức Anh
cho rằng: Ông Lê Đức Anh không phải là công
nhân cao su như tự khai trong lý lịch mà là người phụ trách việc chế biến thực
phẩm (chef des cooperatives) cho chủ đồn điền
và các quan chức Pháp ở Lộc Ninh, bị công nhân cao su đặt cho biệt danh là “cai lé” do chột mắt vì bệnh đậu mùa. Lê
Đức Anh cũng là người giúp việc thân cận của
chủ đồn điền De Lalant, một sĩ quan phòng nhì của Pháp. Ông đã từng bị nghi ngờ
là “surveillant”, là “2è bureau (phòng nhì)”,
không phải là đảng viên từ năm 1938 ở quê mà được kết nạp tháng 4-1945, trong một cuộc họp của Ban cán sự Đảng
Thủ Dầu Một có ông Nguyễn Văn Thi cùng dự…Vào
thời điểm những là thư tố cáo của ba vị lão thành này được phát tán rộng rãi,
ông Anh cho xuất bản cuốn Đại tướng Lê Đức
Anh, thanh minh: Khi ở Đà Lạt, ông làm cu ly, quét nhà, quét sân cật lực cũng chỉ được trả lương tháng 15 đồng. Nhưng:
“Làm được hai tháng, ông thấy mình phải cố
gắng học lấy một nghề, có nghề vững mới kiếm được tiền đủ sống và hoạt động
cách mạng” và một “thằng Tây” đã hướng dẫn ông
làm pa-tê, xúc xích, dăm bông. Về “chủ đồn điền De Lelant”, mà các vị lão thành tố cáo là “phòng nhì”, ông Lê Đức Anh giải
thích: “Thằng chủ Tây đích thực của sở cao su
này khi thì ở thành phố khi thì ở Paris… Cả hai thằng Đờ La-lan và Man-đông
cũng đều là những thằng làm thuê. Man-đông
thoả thuận trả lương tháng cho ông 30 đồng. Thấy Pa-tê, xúc xích ông làm ra ngon nên nó yêu cầu ông làm thêm giờ… và trả
thêm cho ông mỗi tháng 15 đồng. Như vậy, mỗi
tháng ông có thu nhập đều đặn 45 đồng. Có tiền dư dật, công việc lại không bị
quản thúc như phu cạo mủ nên ông bắt đầu hoạt
động cách mạng” (Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 20-21).
(420) Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005,
trang 30.
(421) Tên ông được đặt cho một con đường ở Gò Vấp.
(422) Phòng nhì Pháp đã đánh vào một điệp viên để cho những người
kháng chiến “bắt được”.
Người này khai ra hàng chục cán bộ chủ chốt “nhận làm
điệp viên” cho Phòng Nhì. Ngay lập tức, hàng
chục cán bộ bị các đồng chí của mình đưa đi thủ tiêu, trong đó có 3 người anh
và em trai của bà Bảy Anh.
(423) Theo Đại tá Khuất Biên Hoà.
(424) Bà Phạm Thị Anh biết tin này từ cuối thập niên 1950 nhưng bà
không đi bước nữa, sau 1975 bà về sống với con gái tại
Cư xá Bắc Hải. Bà mất ngày 8-1-2011. Trong thời suốt thời gian ấy hai người chưa bao giờ gặp lại nhau.
(425) John McCain đã từng trải qua sáu năm bị giam giữ trong nhà
tù Hoả Lò sau khi máy bay của ông bị bắn hạ và dù của ông
rơi xuống hồ Trúc Bạch.
(426) John Kerry nhớ lại: “Chúng tôi đã trở về nhà trên hai con
đường khác nhau nhưng cùng có những trải nghiệm giống nhau
trong thời gian tại ngũ. Chúng tôi cùng chia sẻ một tầm nhìn về con đường phía trước, không phải như những cộng sự mà như hai
người bạn… Chúng tôi cam kết truy tìm sự thật
cho dù điều đó dẫn chúng tôi tới đâu”. Thượng nghị sỹ John Kerry mô tả công
việc sau đó của Uỷ ban là “hàng nghìn giờ chậm
rãi, đau xót và tỉ mẩn”, giải mật hàng triệu trang tài liệu của Chính quyền Mỹ. John Kerry nói tiếp: “Tôi đã bay tới Việt
Nam và các nước trong khu vực mười bốn chuyến,
nghiên cứu từng chi tiết các câu chuyện kể về hàng trăm trường hợp mất tích và
hồi tưởng từng ký ức chiến tranh của cá nhân
mình gần như hàng ngày”.
(427) Tài liệu trên đây, còn được gọi là “Russian Doccument” hay
“smoking gun”, được nói là một báo cáo 30 trang của tướng
Trần Văn Quang gửi Bộ Chính trị Việt Nam được KGB dịch ra tiếng Nga ngày 15-9-1972, được tìm thấy trong kho lưu trữ Liên xô bởi
một nhà nghiên cứu có uy tín người Úc, Stephen
J. Morris, đang làm việc tại đại học Harvard. “Russian Doccument” đề cập đến số
lượng tù binh bị giữ ở Việt Nam cho tới trước
15-9-1972 là 1.205 người Mỹ thay vì chỉ 368 người như thừa nhận lúc đó của Lê Đức Thọ. Nếu báo cáo này là đúng thì Hà
Nội còn giữ tới 614 tù binh Mỹ vì 591 tù binh
đã được trao trả vào tháng 3-1973.
(428) Nguyên “thứ trưởng” trong Chính phủ Lâm thời Cộng hoà miền
Nam Việt Nam, người đồng
thời làm “hộp thư” giữa ông Kiệt và Đại tướng Dương
Văn Minh, sau khi ông Minh sang định cư ở Pháp
vào năm 1978.
(429) The Southest Asia Treaty Oganization, Hiệp ước phòng thủ
chung, của các nước Đông Nam Á, ra đời tháng 2-1955.
(430) Cho đến giữa thập niên 1980, Việt Nam vẫn còn giữ bảy viên
tướng của Hàn Quốc bị bắt giữ sau năm 1975. Theo ông Trần
Tam Giáp, thời gian đó là thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng (Lê Đức Thọ, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2011): “Chủ trương của
ta là tạo điều kiện cho Cộng hoà Dân chủ nhân
dân Triều Tiên trong cuộc đàm phán với Cộng hoà Triều Tiên để Chính phủ ta thả
bảy viên tướng của Hàn Quốc về nước. Lúc đó
hai bên đàm phán ở New Dehli, Ấn Độ, tại Đại sứ quán Việt nam. Sau nhiều năm, hai bên không đi đến thoả thuận nào do
Hàn Quốc không đáp ứng đòi hỏi của Cộng hoà
Dân chủ nhân dân Triều Tiên mà họ cho là quá cao. Qua cuộc trao đổi với Thủ
tướng Phạm Văn Đồng, đồng chí Lê Đức Thọ cho
biết số tướng lĩnh này tuổi đã cao, điều kiện giam giữ của ta không đảm bảo, sức khỏe của họ giảm sút, nếu tính
mạng họ có vấn đề gì nảy sinh thì sẽ rất khó
cho ta. Sau đó, ta đã giao cho Bộ ngoại giao gợi ý bạn (Cộng Hoà Dân chủ nhân
dân Triều Tiên) nên có phương án hợp lý hợp
tình. Bạn đòi giao số này cho họ nhưng ta không nhất trí. Lúc đó có sự vận động của Chính phủ Thuỵ Điển, qua Đại sứ Oberg chuyển
thư cho Tổng thống Pak Chung Hy thỉnh cầu
Chính phủ ta (trong số này có người là bạn thân hoặc gia đình của Tổng thống).
Thủ tướng Phạm Văn Đồng và đồng chí Lê Đức Thọ
đã thảo luận với nhau nhiều lần, bàn nhiều khía cạnh và cuối cùng đã đi đến kết luận là thả tự do số tướng lĩnh này
vì lý do nhân đạo. Đây là một quyết định không
dễ dàng khi đưa ra Bộ Chính trị quyết định. Cuối cùng, qua trung gian của Chính
phủ Thuỵ Điển, một chuyên cơ đã được phép đến
Hà Nội nhận số tướng lĩnh nói trên. Phía Hàn Quốc rất cảm kích và đánh giá cao quyết định của ta, họ tỏ ý muốn viện
trợ kinh tế xứng đáng cho ta”.
(431) Báo cáo số 8/BC, ngày 10-6-1992 của Vụ phó Vụ Báo chí Bộ Văn
hoá - Thông tin và Văn hoá
Nguyễn Thắng.
(432) Theo ông Trần Quốc Hương, bí thư Trung ương Đảng Khoá VI:
“Tin ông Phan Bình bị bệnh
tâm thần, tự sát là do Cục II báo cáo”.
(433) Khi ba ông cố vấn bị kiểm điểm bởi vụ “Lê Khả Phiêu”, ông Võ
Văn Kiệt nói ông đề nghị
kiểm điểm luôn trách nhiệm của những người liên quan
đến Pháp lệnh Tình báo và ông sẵn sàng nhận
phần trách nhiệm của mình khi ký Nghị định 96/CP. Ông Võ Văn Kiệt còn phải chịu
trách nhiệm về một nghị định gây tranh cãi
khác đó là Nghị định số 31/CP theo đó “những người có hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến an ninh quốc gia được quy
định tại Chương I phần các tội phạm của Bộ
luật hình sự nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”(Điều 2) có thể bị
quản chế tại địa phương từ 6 tháng đến 2 năm
(như trường hợp của tiến sỹ Hà Sỹ Phu) hoặc có thể bị đưa đi quản chế ở nơi khác (như trường hợp của các linh mục Nguyễn
Ngọc Lan, Chân Tín…). Nghị định 31/CP của
Chính phủ do ông Võ Văn Kiệt ký ngày 14-4-1997 về mặt pháp lý là một văn bản
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chánh do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 6-7-1995. Cũng như Nghị định Tình báo, phải gần hai năm sau
khi có Pháp lệnh xử phạt hành chánh, ông Võ
Văn Kiệt mới ký Nghị định 31/CP. Tuy nhiên việc chấp nhận áp dụng một biện pháp
hành chánh để tước một số quyền tự do của công
dân thay vì phải bằng quyết định của toà án cho thấy ông Võ Văn Kiệt đã không vượt qua được khung chính trị đương
thời và thiếu dứt khoát với tinh thần pháp
quyền mà ông cổ vũ. Biện pháp này càng bị chỉ trích nhiều hơn khi nó chủ yếu
được áp dụng với những người bất đồng chính
kiến.
(434) Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
(435) Tướng Nguyễn Chí Vịnh sinh năm 1957 là con trai út của Đại
tướng Nguyễn Chí Thanh. Sự
nghiệp của ông trầy trật sau khi bị kỷ luật ở Học
viện kỹ thuật Quân sự vào cuối thập niên 1970, phải chuyển sang học tiếp ở trường sỹ quan thông tin. Năm 1981,
sau khi ra trường, Vịnh được tướng Lê Đức Anh
đưa sang Phnom Penh, công tác trong Đoàn 12, một đơn vị của Cục Tình báo Quân
đội đặc trách chiến trường Campuchia. Tại đây,
ông kết hôn với con gái một lãnh đạo Đoàn 12, đại tá Vũ Chính. Tháng 5-1995, tức là chỉ mấy tháng sau khi Vũ Chính
thay tướng Tư Văn làm tổng cục trưởng Tổng cục
II, Nguyễn Chí Vịnh được bổ nhiệm giữ chức cục phó Cục 12, với quân hàm trung
tá. Chỉ bốn năm sau ông được phong hàm thiếu tướng,
sau hơn một năm giữ chức tổng cục phó.
(436) Những bà mẹ: Có ba con là liệt sỹ; Có hai con và có chồng
hoặc mình là liệt sỹ; Có một con duy nhất mà người đó là liệt
sỹ; Có hai con mà cả hai đều là liệt sỹ thì được phong tặng hoặc truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”.
(437) Chính sách ưu đãi này đã khiến cho chi tiêu quốc phòng chiếm
phần 40% chi tiêu của Chính phủ cho khu vực phi xã hội,
tương đương với 4,2% GDP trong năm 1990, tương đương với mức chi cho quốc phòng trong giai đoạn chiến tranh 1986: 4,4% GDP,
tuy có giảm hơn năm 1988: 5,3% GDP.
(438) Quy mô phát triển đến năm 2020.
(439) Phần bị tịch thu theo Quyết định 111/CP ngày 14-4-1977; phần
từ những nhà mà “giai cấp tư sản” bị buộc phải “hiến” lại
cho nhà nước. Chính quyền cũng ra lệnh “quản lý” nhà của những người vượt biên trong thập niên 1970, 80. Từ thập niên 1990,
Chính quyền quản lý thêm một lượng nhà không
nhỏ của những người được đi xuất cảnh mà không được quyền bán nhà vì họ thuộc
đối tượng bị “quản lý nhà” theo Quyết định
111/CP và 305/CP mà, trước đó, chưa bị tịch thu. Họ gồm: sỹ quan từ cấp thiếu tá trở lên; cảnh sát từ cấp trung uý trở lên;
chủ sự phòng của các cơ quan trung ương; phó
ty và mật vụ, chiêu hồi… Theo ông Mười Hải, Giám đốc sở Nhà đất Thành phố Hồ
Chí Minh: “Ông Võ Văn Kiệt cho rằng, Quyết
định 111/CP, cải tạo nhà sỹ quan cũ, có những điểm không hợp lý. Sỹ quan từ cấp trung uý trở lên, Nhà nước lấy nhà cửa
hết. Trong khi, theo ông, có nhiều loại trung
uý, có anh trung uý quân y, có anh trung uý thổi kèn. Quan chức trong bộ máy
hành chánh của Sài Gòn, từ quận phó trở lên cũng
bị tịch thu. Anh đề nghị nên phân loại ra và sau đó, Thành uỷ đã đề nghị Trung ương sửa đổi Quyết định 111/CP theo đó, thêm
hai chữ “ác ôn” vào sau thành phần sỹ quan,
nghĩa là chỉ những “sỹ quan ác ôn” mới bị thu nhà. Quyết định sửa đổi này là
Quyết định 305/CP ngày 17-11-1977 của Hội đồng
Chính phủ.
(440) Năm tháng sau, trong cuộc bầu cử Quốc hội khoá IX, bà Ngô Bá
Thành đã không đắc cử khi
ứng cử tại quận 5 và quận 10 của Thành phố Hồ Chí
Minh. Ngay lập tức bà nói với đài BBC Việt Ngữ
rằng, cuộc bầu cử bị gian lận và đây là hành động đáp trả của Thành phố cho
việc chỉ trích chính sách hoá giá nhà của bà.
(441) Về sau, cả Hà Nội, Sài Gòn và nhiều địa phương đều áp dụng
chính sách hoá giá nhà. Hầu hết các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, hoặc con cái họ, đều có nhà ở Sài Gòn, và đều được hoá giá với giá gần như cho những căn biệt thự trị giá hàng nghìn lượng
vàng. Các bậc công thần như Trần Văn Giàu,
Trần Bạch Đằng, Dương Quang Đông… đều nhận nhà hoá giá rồi vội vàng bán lại với
giá hơn hai nghìn lượng vàng. Ông Kiệt cũng có
được sở hữu tư nhân căn biệt thự 16 Tú Xương theo chính sách hoá giá của Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng, về sau, ông
viết thư gửi Thành uỷ xin trả lại căn nhà này
sau khi ông và bà Phan Lương Cầm qua đời.
(442) Theo ông Nguyễn Văn Huấn: Sau đó, Thành uỷ nhận mức kỷ luật
“khiển trách”, mức thấp nhất trong thang kỷ luật của
Đảng. Nhưng, ông Lê Đức Anh nói: “Phải kỷ luật đồng chí nào trực tiếp cầm
chịch”. Sức ép buộc ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp phải viết
thư gửi cho 15 vị chủ chốt trong Bộ Chính trị
và Hội đồng Bộ trưởng khẳng định là ông đã có sự đồng ý của Hội đồng Bộ trưởng
trước khi cho hoá giá nhà. Thư của ông Nguyễn
Vĩnh Nghiệp viết: “Tôi nghĩ trong dân gian đối xử với nhau họ còn tin và tôn trọng lời hứa miệng với nhau, huống chi chúng
tôi 30 năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
cũng đã quen chỉ thị miệng, đối với cấp trên dù chỉ thị miệng chúng tôi đều răm
rắp chấp hành và chấp hành nghiêm chỉnh… Tôi
đề nghị Bộ Chính trị cho mời các đồng chí liên quan gặp lại nhau để làm sáng tỏ vấn đề này”.
(443) Ông Võ Văn Kiệt là một người quyết đoán, có rất nhiều công
trình lớn mang đậm dấu ấn của ông, đồng thời cũng gây ra
nhiều tranh cãi. Việt xây dựng nhà máy lọc dầu ở Dung Quất là một ví dụ. Những người chỉ trích cho rằng chính trị đã xen vào
quyết định kinh tế. Năm 1995, tập đoàn Total
SA của Pháp bỏ đi vì rằng vị trí đặt nhà máy nằm cách quá xa những cơ sở hạ
tầng dầu mỏ trong nước. Các định chế quốc tế
như WB, IMF cũng nghi ngờ hiệu quả kinh tế của Dung Quất. Ngày 8 và 9-6-2005, các đại biểu Quốc hội (kỳ họp thứ
7,khoá XI) đã chất vấn về quyết định và tiến độ
xây dựng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Chủ tịch Quốc
hội đã phải “nhận lỗi trước cử tri”. Ngày
10-6-2005 ông Võ Văn Kiệt có thư gửi Quốc hội (đăng trên báo Tuổi
Trẻ số ra
cùng ngày) giải thích: Total muốn địa điểm đặt tại Long Sơn (Vũng Tàu)… nhưng
Chính phủ không muốn “tập trung quá lớn những
công trình trọng điểm quốc gia vào một khu vực”; ở Long Sơn không có cảng nước sâu, để xây nhà máy lọc dầu phải làm
3 km cầu cạn nhưng lý do chính, Chính phủ e
“quá trình vận chuyển dầu, nếu có sự cố rò rỉ sẽ đe doạ trực tiếp hoạt động của
khu du lịch Vũng Tàu”. Petronas (Malaysia) sẵn
sàng xây dựng nhà máy lọc dầu ở Dung Quất với điều kiện được phân phối sản phẩm ngay tại thị trường VN để tránh
khỏi phải chi phí vận chuyển về lại Malaysia
để rồi mới xuất đi. Theo ông Kiệt đề nghị này đã không được ông Đỗ Mười chấp
thuận do đó Chính phủ đã xin ý kiến Bộ Chính
trị đi đến quyết định tự mình làm lấy. Thư của ông Võ Văn Kiệt viết: “Cho đến nay, nếu được xem xét lại, tôi vẫn chọn
Dung Quất làm địa điểm xây dựng nhà máy lọc
dầu như nhận định ban đầu, góp phần rất có ý nghĩa cho khu vực kinh tế miền
Trung và cho cả nước trong quá trình đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu bây giờ, trước những diễn biến của
tình hình, Quốc hội phân tích và kết luận việc
lựa chọn đó là sai thì người nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm đó phải chính là
tôi, Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Chính phủ”.
(444) Khi ấy Quốc hội chưa ban hành quy chế Công trình quốc gia,
công trình buộc Chính phủ phải xin chủ trương của Quốc hội.
(445) Theo ông Cự, ngày 23-3-1992 trong phiên họp Uỷ ban Khoa học
và Công nghệ của Quốc hội
nhiều thành viên của Uỷ ban đã nêu nhiều vấn đề về
đường dây Bắc Nam 500 kv nhưng do không có thông
tin nên Uỷ ban đã phải gửi công văn số 426 KH-KT ngày 24-3-1992, yêu cầu uỷ ban
khoa học Nhà nước cung cấp những thông tin cần
thiết về đường dây nói trên. Ngày 24-3-1992 cũng là ngày Quốc hội khoá VIII khai mạc kỳ họp thứ 11.
Nguồn:
Vnthuquan thư viện Oline
Người
đăng: mọt sách
Thời
gian: 21/01/2013 5:07:35 SA
No comments:
Post a Comment