BÊN THẮNG CUỘC - HUY
ĐỨC
QUYỂN II : QUYỀN
BÍNH
PHẦN
IV : TAM NHÂN
Chương
17 : Tam quyền không phân lập
Các thời kỳ xây dựng
nhà nước chuyên chính vô sản. Thực chất của “tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh”.
Tranh cãi và tranh chấp chính trị trong quá trình hình thành Hiếp pháp 1992 và
những thay đổi của hệ thống chính trị trong thập niên 1990 (Nửa thế kỷ, bốn hiến pháp/ Quốc hội
có vai trò hơn/ Thủ tướng và “người đứng đầu”/ Chia tỉnh/ “Công nông hoá” tư
pháp/ “Bỏ Điều 4 là tự sát”)
*
*
Ngày 29-11-1991, khi phát biểu trước Hội nghị Trung ương 2 bàn về sửa đổi hiến pháp, Tổng bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh: “Quyền
lực nhà nước là thống nhất, không phân chia, nhưng
có phân công rành mạch”(329). Đây là
một thời điểm hiếm hoi mà Đảng Cộng sản
Việt Nam rơi vào tình thế hoàn toàn độc lập vì chưa biết lấy ai làm chỗ
dựa(330). Nhưng cho dù đơn độc, ý thức hệ chứ
không phải là tương lai dân tộc đã được
lựa chọn. Hiến pháp 1992, vì thế, đã không tiếp cận được những mô hình
nhà nước tiến bộ để trở thành nền tảng cho Việt
Nam xây dựng nhà nước pháp quyền.
Nửa thế kỷ, bốn hiến pháp
Không phải tự nhiên mà Tổng bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh “quyền lực
nhà nước là
thống nhất”. Trên các diễn đàn góp ý dự thảo hiến
pháp lúc bấy giờ bắt đầu xuất hiện khái niệm
“tam quyền phân lập”, đồng thời có nhiều ý kiến đề nghị khôi phục tinh thần Hiến pháp 1946.
Cho dù Hiến pháp 1946 được mô tả như là “hiến pháp của Hồ Chí
Minh”, việc
khôi phục nó chưa bao giờ được công khai đưa ra(331).
Tuy không thiết kế một nhà nước hoàn toàn theo
mô hình “tam quyền phân lập”, Hiến pháp 1946 đã không
hề có bóng dáng của nhà nước Xô viết. Quyết tâm chính trị lớn nhất lúc đó
của Đảng Cộng sản Việt Nam là kiên định lập trường xã
hội chủ nghĩa.
Trên thực tế, chiến tranh nổ ra chỉ một tháng mười ngày sau khi
Hiến pháp 1946
được Quốc hội thông qua. Bản Hiến pháp vì thế chưa
được công bố(332) và cuộc tổng tuyển cử bầu
Nghị viện Nhân dân chưa được tiến hành. Quốc hội lập hiến đứng ra đóng vai trò của Nghị viện, xưng là Quốc hội khoá
I. Chính phủ Liên hiệp Lâm thời tiếp tục vai
trò, nhưng tất nhiên không còn các thành viên của Việt Cách và Việt Quốc(333).
Sau Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, năm 1951, Chính
phủ Hồ Chí Minh bắt đầu thể hiện bản chất chính quyền của một
nhà nước giai cấp thay vì chính quyền của các
thành phần nhân dân như giai đoạn tập hợp lực lượng ban đầu. Tinh thần của Hiến pháp 1946 đã hoàn toàn biến mất
khi ngày 4-12-1953 Quốc hội “khoá I” ban hành
Luật Cải cách ruộng đất, tước đoạt ruộng đất
của những người bị quy là địa chủ, trái với Điều thứ 12: “Quyền tư hữu của
công dân Việt Nam được bảo đảm”.
Quyền tự do ngôn luận mà Hiến pháp 1946 minh định, và trên thực tế
khi ấy đang
được thi hành dựa trên chế độ báo chí của chính quyền
thực dân Pháp, cũng bắt đầu bị hạn chế sau
ngày 14-12-1956, ngày Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh về Chế độ báo chí. Những người còn lại trong Quốc hội được bầu tháng
1-1946 cũng đã đưa tay “khai tử” đứa con đáng
tự hào nhất của mình. Năm 1959, Hiến pháp 1946 bị thay thế, bất chấp nguyên tắc sửa đổi Hiến pháp phải theo
cách thức: “Do hai phần ba tổng số nghị viên
yêu cầu; Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi; Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn
thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”(334).
Mặc dù Hồ Chí Minh đặt vấn đề xây dựng hiến pháp rất sớm(335),
Hiến pháp
1959 mới thực sự là hiến pháp của ông. Việc thay thế
Hiến pháp 1946 chỉ thực sự được triển khai sau
khi Hồ Chí Minh đi dự Hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế tổ chức vào tháng 11-1957 tại
Moscow, cùng ký “Tuyên bố chung” thừa nhận:
“Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản có ý nghĩa
nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng sản
quốc tế”(336).
Nhà nước “dân chủ cộng hoà, tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai,
giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”(337) theo Hiến
pháp 1946 đã được thay thế bằng một nhà nước “dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo”(338) theo Hiến pháp 1959.
Trong Lời nói đầu, Hiến pháp 1959 viết: “Nhân dân ta quyết tăng
cường hơn nữa
sự đoàn kết nhất trí với các nước anh em trong phe xã
hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô vĩ đại… Dưới
sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chủ tịch Hồ Chí
Minh”(339). Nếu như Hiến pháp 1946 nhấn mạnh
đến bình đẳng và tự do của người dân thì Hiến
pháp 1959 nhấn mạnh “trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ
dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ
quốc”(340). Công dân Việt Nam bắt đầu được
khuyến cáo: “Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước”(341).
Hiến pháp 1959 tồn tại hai mươi năm trong giai đoạn miền Bắc dồn
sức cho chiến
tranh, ít ai có điều kiện để quan tâm tới việc thực
thi pháp luật. Sau chiến thắng năm 1975, sau
khi “hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã
hội”(342), tháng 7-1976, Quốc hội đổi tên nước
từ “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” thành “Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” và xác định: “Nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam cần có một bản hiến pháp thể
chế hoá đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
giai đoạn mới. Đó là hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước”(343).
Ngôn từ trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng Cộng sản
Việt Nam đã được đưa thẳng vào Lời nói đầu của Hiến
pháp 1980. Trong khi súng đạn đang nổ hàng
ngày ở hai đầu biên cương, ở hậu phương, dân chúng lại bị hô hào “tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng”(344).
Hiến pháp 1980 thực chất là một bản Hiến pháp 1959 nâng cao theo
hướng “nhà
nước chuyên chính vô sản”. Cách tiếp thu kinh nghiệm
của các nước xã hội chủ nghĩa cũng khá vội
vàng. Ông Nguyễn Đình Lộc kể: “Khi Chủ tịch Trường Chinh đi nghiên cứu tại các nước Đông Âu, họ trình bày mô hình
hội đồng nhà nước mà họ đang áp dụng như là
một mô hình đầy tính ưu việt. Mình về, bê gần như nguyên xi vào hiến pháp mới. Không ngờ, họ nói với mình vậy
nhưng chỉ sau đó không lâu họ sửa vì mô hình
ấy nhập nhằng vai trò giữa Quốc hội và nhà nước”(345).
Hiến pháp 1980 trở thành một bản hiến pháp “đoản mệnh”. Từ tháng
3-1989,
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khoá VI, bắt đầu
đặt vấn đề: “Cần rà soát lại các văn bản pháp
quy hiện hành (kể cả Hiến pháp), bổ sung và sửa đổi những điểm cần thiết theo tinh thần đổi mới”(346). Ngày
30-6-1989, Nghị quyết Trung ương 6 đã được
Quốc hội Khoá VIII triển khai với tinh thần cải cách cao hơn: Sửa đổi Hiến pháp 1980 “một cách toàn diện”. Cũng trong kỳ
họp ấy, Quốc hội quyết định thành lập Uỷ ban
Sửa đổi Hiến pháp, cử ông Võ Chí Công(347) làm chủ
tịch.
Quốc
hội có vai trò hơn
Cho dù vẫn bị “lãnh đạo” liên tục từ hậu trường, ở thời điểm hình
thành Hiến
pháp 1992, Quốc hội Việt Nam bắt đầu có tiếng nói.
Đây cũng là một thành quả quan trọng của “đổi
mới”. Trong nhiều thập niên trước đó, Quốc hội Việt Nam chỉ tồn tại trên hình thức.
Quốc hội đầu tiên của người Việt Nam đã ra đời trong một hoàn cảnh
khá là đặc
biệt. Trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, 333 đại
biểu Quốc hội đã được bầu từ hàng ngàn ứng cử
viên. Tuy Việt Minh kiểm soát chặt chẽ tiến trình bầu cử nhưng việc cho ứng cử tự do đã giúp cho cuộc bầu cử mang
một hình ảnh dân chủ(348). Tại các đơn vị bầu
cử, số lượng ứng cử viên đông hơn gấp nhiều lần số đại biểu được bầu. Tỉnh Quảng Nam được bầu mười lăm đại
biểu nhưng có tới bảy mươi tám ứng cử viên. Ở
Hà Nội, nơi Hồ Chí Minh ứng cử, được bầu sáu đại biểu nhưng có tới bảy mươi bốn người ra ứng cử.
Về danh nghĩa, đây là một cuộc bầu cử đa đảng. Tuy nhiên, những
người trúng cử
đều thuộc thành phần Việt Minh, hoặc các cảm tình
viên của Việt Minh và những người được Hồ Chí
Minh đưa vào các đảng được lập ra theo chủ trương của ông(349).
Trước đó, vào tháng 9-1945, cùng với hai mươi vạn quân Trung Hoa
Dân quốc do
tướng Lư Hán và Tiêu Văn chỉ huy sang Việt Nam với
danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, tổ chức
Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội (Việt Cách) do nhà cách mạng Nguyễn Hải Thần lãnh đạo cũng theo về(350). Trước sức
ép của Tiêu Văn và Lư Hán, con người “dĩ bất
biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh đã lấn át nguyên
tắc “thần linh pháp quyền” mà ông cùng tuyên bố trong “Việt Nam yêu cầu ca”. Ngày 24-12-1945, trong Hội nghị liên tịch đảng
phái, Hồ Chí Minh đã đồng ý dành năm mươi ghế
đại biểu Quốc hội cho Việt Quốc, hai mươi ghế cho Việt Cách.
Ông Vũ Đình Hòe nhận xét: “Bổ sung bảy mươi ghế Quốc hội mà không
thông qua tuyển cử bổ sung thì thật là trái ngược với các văn bản
Nhà nước về bầu cử Quốc hội. Pháp chế dân chủ
không cho phép làm như vậy”(351). Theo ông Vũ Đình
Hòe: “Bác Hồ có hỏi ý kiến tôi và Phan Anh về khía cạnh kỹ thuật, pháp lý,
chúng tôi trả lời, để đảm bảo tôn trọng nguyên tắc
dân chủ: Quốc hội quyết định tất cả”(352). Thế
là trước phiên họp đầu tiên của Quốc hội, bảy mươi đại biểu không qua bầu cử này đứng bên ngoài chờ Chủ tịch Hồ Chí
Minh báo cáo và xin Quốc hội chuẩn y. Các đại
biểu Việt Minh đương nhiên tán thành lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bảy mươi đại biểu Việt Quốc, Việt cách được mời vào
Hội trường, Quốc hội vỗ tay hoan nghênh. Về
sau họ được gọi là đại biểu “truy nhận”.
Tuy nhiên, khối đoàn kết dân tộc không thiết lập trên nền tảng
“pháp chế dân
chủ” thì cũng không tồn tại lâu bền. Tháng 7-1946,
tranh chấp gay gắt giữa Việt Minh và các phe
phái đối lập diễn ra. Các cơ sở của các đảng phái đối lập, đặc biệt là của Việt Cách, bị Việt Minh tấn công, nhiều đại
biểu của Việt Cách bị bắt. Nguyễn Hải Thần
cùng nhiều đồng chí khác của ông trong Việt Cách, cùng Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam và nhiều “đại biểu” Việt Quốc
khác đã phải bỏ trốn, nhiều người phải quay
trở lại Trung Quốc. Trong số năm mươi đại biểu “truy
nhận” của Việt Quốc về sau chỉ có Trần Văn Cầu được công nhận là “đủ tư cách đại biểu Quốc hội”. Trong số hai mươi đại biểu của
Việt Cách chỉ có sáu đại biểu: Lê Viết Cương,
Đinh Chương Dương, Lý Đào, Ngô Văn Hợp, Nguyễn Văn Lưu, Trần Tấn Thọ, được công nhận “đủ tư cách”. Số còn lại
đã bị Quốc hội truất quyền đại biểu(353).
Trong số 403 đại biểu được công nhận trong kỳ họp đầu tiên vào
ngày 2-3-1946,
đến giữa năm 1946 chỉ còn 291 người, và tháng 11-1946
khi bỏ phiếu thông qua Hiến pháp 1946, Quốc
hội chỉ còn lại 242 người. Quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, theo tinh thần của Hiến pháp 1946, chỉ là một
Quốc hội lập hiến. Tuy nhiên, lấy lý do chiến
tranh, Hiến pháp 1946 đã không được công bố, “Nghị viện Nhân dân” đã không được bầu để thay thế. Quốc hội lập hiến,
kể từ sau Hiến pháp 1959, được gọi là Quốc hội
Khoá I.
Tập hợp được một đội ngũ trí thức tiêu biểu, từng thông qua bản
Hiến pháp 1946
danh tiếng, nhưng trong suốt sáu năm đầu, Quốc hội
gần như không hoạt động. Để rồi sau đó bắt đầu
đi ngược lại những gì thiêng liêng mà các đại biểu đã từng gửi gắm trong Hiến pháp 1946: Từ ngày 1-12 đến ngày
4-12-1953, các đại biểu có mặt ở Việt Bắc được
nhóm họp để hợp thức hoá cuộc “đấu tranh giai cấp” của Đảng bằng việc thông qua Luật Cải cách ruộng đất(354). Từ
năm 1954, sau khi phê chuẩn Hiệp định Geneva,
chia hai Việt Nam ở Vĩ tuyến 17, Quốc hội Khoá I trở thành Quốc hội của Nhà nước nắm quyền trên miền Bắc(355).
Cũng như Xô viết Tối cao của Liên Xô hay Đại hội Đại biểu Nhân dân
Toàn quốc
của Trung Quốc, cho dù Hiến pháp vẫn ghi những quyền
hành long trọng, Quốc hội Việt Nam, từ khoá
II, chủ yếu thực hiện ba chức năng: Thể chế hoá hay nói chính xác hơn là hợp thức hoá đường lối chủ trương của Đảng
- chức năng mà Hiến pháp gọi là “lập pháp”;
trình diễn sự ủng hộ nhân danh “của dân” đối với Đảng và Chính phủ(356); trình diễn khối đại đoàn kết toàn dân. Ngoài
những đạo luật cơ cấu lại mô hình nhà nước
theo Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 mà Quốc
hội Khoá II và Khoá VII phải làm, từ đầu thập niên 1960 cho đến cuối thập
niên 1980 quyền lực công được vận hành chủ yếu theo
mô hình nhà nước Đảng. Quốc hội có rất ít việc
phải “hợp thức hoá”. Các chỉ thị, nghị quyết gần như có hiệu lực thi hành ngay sau khi được Đảng ban hành(357).
Chức năng quan trọng nhất của Quốc hội là nhất trí. Từ khoá VII
trở về trước,
Quốc hội thường chỉ họp mỗi năm một lần, mỗi lần chỉ
kéo dài từ ba đến bốn ngày. Do tính long trọng
của Quốc hội thống nhất, kỳ họp thứ nhất của khoá VI mới kéo dài chín ngày; kỳ họp thứ nhất của khoá VII kéo dài
mười ngày. Quốc hội Việt Nam cũng có hình thức
họp tổ - bao gồm một số đoàn đại biểu - như Xô viết
Liên Xô. Ở Quốc hội Việt Nam, thảo luận tổ lúc đầu chủ yếu giúp phát hiện
những ý kiến khác với “tinh thần lãnh đạo” để mà
“chấn chỉnh”. Ở Xô viết Liên Xô thời Stalin,
những người phát biểu như thế có thể bị thanh trừng. Những ai được chọn phát biểu trong các phiên họp toàn thể đều phải
gửi tham luận trước cho Văn phòng, Tổng Thư ký
Quốc hội sẽ đọc duyệt, nhằm đảm bảo không để xuất
hiện trên Hội trường những ý kiến “lệch lạc”.
Chức năng trình diễn khối đoàn kết toàn dân được thể hiện cả bằng
xương, bằng
thịt: công, nông, binh, dân tộc(358). Công nhân, nông
dân cơ cấu trong Quốc hội từ khoá VIII trở về
trước là theo nghĩa đen. Có đại biểu Quốc hội là thợ rèn, thợ tiện. Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh còn có đại biểu là một nữ
công nhân quét rác. Ông Hồ Giáo, một người
chăn bò nổi tiếng, được đưa vào ngồi trong Quốc hội tới ba khoá liền (IV, V, VI). Ông Giáo thừa nhận, vốn ít học và
những năm ấy vẫn độc thân, nên ông dồn tất cả
tình cảm, tâm trí và sức lực cho những con bò mà ông yêu quý. Những lần đi dự họp Quốc hội, theo ông Hồ Giáo, ông phải
rất gắng gượng, mỗi khi Quốc hội cần ông lên
diễn đàn phát biểu để chụp hình, có người sẽ
viết sẵn cho ông bài phát biểu. Sự chuyển động của Quốc hội - từ vai trò trang
trí cho chế độ đến chỗ trở thành một diễn đàn, nơi
các đại biểu có thể bày tỏ khát khao quyền lực
- không nằm ngoài ảnh hưởng của những chính sách đổi mới trong Đảng, nhưng bản lĩnh của từng cá nhân lãnh đạo Quốc
hội đã đóng một vai trò quyết định.
Từ khoá VII, tuy bầu không khí chính trị vẫn rất chuyên chính, và
chức vụ chủ
tịch Quốc hội cũng không có nhiều quyền lực cả trên
thực tế và lý thuyết, Luật sư Nguyễn Hữu
Thọ(359) đã làm được một cuộc “cách mạng hình thức” cho Quốc hội. Ngày 24-6-1981, khi nắm quyền điều khiển kỳ họp thứ
nhất Quốc hội khoá VII, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ
đã mời các uỷ viên Bộ Chính trị, những người trong
các nhiệm kỳ trước vẫn ngự trị trên các dãy ghế Chủ tịch Đoàn, rời khỏi lễ
đài. Quyền chủ trì các phiên họp Quốc hội, từ hôm đó,
được trả lại cho chủ tịch và các phó chủ tịch
Quốc hội.
“Cuộc cách mạng” này về sau đã không chỉ tạo ra sự thay đổi về mặt
hình thức.
Ngay trong nhiệm kỳ thứ VII, tại kỳ họp thứ 10 vào
cuối năm 1985, Đại biểu Đào Thị Biểu, tỉnh uỷ
viên tỉnh Cửu Long, thay vì đọc bản tham luận được “duyệt” trước, đã “rút từ lưng quần” ra một bài phát biểu khác, nêu
đích danh những cá nhân mà theo bà, phải “chịu
trách nhiệm trước nhân dân” trong vụ “giá - lương -tiền”. Sau tham luận về
những sai lầm trong cải cách ruộng đất của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, bản tham luận của bà Đào Thị Biểu đã đưa
“sóng gió” nghị trường trở lại.
Dù vậy, Quốc hội chỉ bắt đầu trở thành một diễn đàn kể từ khoá
VIII, được bầu
vào ngày 19-4-1987, gần bốn tháng sau Đại hội Đảng
lần thứ VI. Ở kỳ họp thứ nhất, Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh đã làm không ít đồng chí của ông ngạc nhiên khi đưa bà Ngô Bá Thành(360) lên làm chủ nghiệm Uỷ ban Pháp
luật của Quốc hội. Chức danh chủ nhiệm Uỷ ban
Pháp luật Quốc hội được xếp ngạch tương đương
hàm Bộ trưởng, và bà Thành trở thành người đầu tiên từng cộng tác với chế độ Sài Gòn đạt được vị trí này(361). Sự kiện ba mươi ba
đoàn đại biểu Quốc hội, đa số là các đoàn miền
Nam, giới thiệu ông Võ Văn Kiệt ra tranh cử chức chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với ông Đỗ Mười (tháng 6-1988) dù không trở
thành một tiền lệ vẫn cho thấy các đại biểu đã không
còn đến Hội trường Ba Đình để chỉ giơ tay như
trước.
Chủ tịch Lê Quang Đạo(362) đã đóng một vai trò quan trọng trong
những bước
dân chủ hoá đầu tiên của Quốc hội. Ông Lê Quang Đạo
vốn là trung tướng, phó chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị, nhưng khi trở thành chủ tịch, ông đã điều hành các phiên họp Quốc hội một cách mềm mỏng và uyển chuyển. Thay
vì đứng trên Quốc hội theo thứ bậc trong Đảng,
bằng sự trung thực và lịch lãm của một nhà cách
mạng, ông Đạo giúp các đại biểu có cảm giác an toàn khi đưa ra ý kiến của
mình. Cách điều khiển phiên họp của ông Lê Quang Đạo
đã tạo ra đột phá trong sinh hoạt nghị trường,
thu hút được sự chú ý của công chúng vào Quốc hội.
Lịch sử chất vấn chắc chắn phải được đánh dấu bởi sự kiện ngày
20-12-1991,
ngày làm việc trên hội trường của kỳ họp thứ 10, Quốc
hội khoá VIII. Hôm đó, sau khi đọc xong một
bản báo cáo, Bộ trưởng Tài chính Hoàng Quy đã định xách cặp đi xuống, nhưng Chủ tịch Lê Quang Đạo yêu cầu ông đứng
lại. Cả hội trường xôn xao. Hàng chục đại biểu
đưa tay xin đặt câu hỏi. Cuộc chất vấn trực tiếp đầu tiên của Quốc hội Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã diễn ra như
vậy suốt hai giờ liền.
Sự xuất hiện của ông Vũ Mão vào năm 1987 với vai trò chủ nhiệm Văn
phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước cũng đã tạo ra những thay đổi
không nhỏ trong cơ quan này(363). Những đóng
góp làm thay đổi Quốc hội của ông Vũ Mão thường
bắt đầu từ bản tính thích tìm tòi cái mới của ông. Trước đây, khi Quốc hội
biểu quyết “quyết định những vấn đề lớn của đất
nước”, chủ tịch đoàn kỳ họp chỉ cần hỏi “ai
đồng ý giơ tay?” là lập tức cả hội trường giơ tay; rồi chủ tịch đoàn lại
hỏi “ai không đồng ý giơ tay?” là có thể tuyên bố
“một trăm phần trăm” ngay. Nhưng vào cuối thập
niên 1980, khi Quốc hội phải biểu quyết việc chia lại địa giới hành chính của các tỉnh, có những phiên biểu quyết
hàng trăm người giơ tay “không đồng ý”. Trưởng
đoàn thư ký, luôn là ông Vũ Mão, không còn nhàn hạ hô “trăm phần trăm” nữa.
Năm 1989, ông Mão quyết định đặt hàng bên quân đội thiết kế cho
Quốc hội máy
đếm khi biểu quyết. Chiếc máy đếm đầu tiên mà Quốc
hội Việt Nam sử dụng chỉ có hai nút, “đồng ý”
và “không đồng ý”. Những con số tăng, giảm, ngập ngừng trên bảng điện đã tạo thêm kịch tính cho hoạt động Quốc
hội. Đầu thập niên 1990 tranh luận xuất hiện
thường xuyên hơn trên diễn đàn, nhất là thời gian Quốc hội thông qua hiến pháp(364).
Cũng thời gian đó, khi thăm Nghị viện Đài Loan, ông Vũ Mão “phát
hiện” máy
đếm của họ có ba nút: “đồng ý”, “không đồng ý” và
“không biểu quyết”. Theo ông Nguyễn Sỹ Dũng
người tháp tùng ông Mão trong chuyến đi này, ông Vũ Mão quyết định thiết kế máy biểu quyết mới “theo chuẩn quốc
tế”. Nhưng trên ông Vũ Mão lúc đó còn có một
chức danh trung gian: tổng thư ký Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Nắm chức vụ này lúc bấy giờ là ông Nguyễn Việt
Dũng, một con người cực kỳ nguyên tắc(365).
Trước một chuyến công tác, ông Vũ Mão giao cho Thư
ký Nguyễn Sỹ Dũng phải thuyết phục ông Nguyễn Việt Dũng.
Thay vì gặp tổng thư ký, ông Sỹ Dũng thảo một tờ trình để một phó
chủ nhiệm
Văn phòng ký đưa thẳng lên chủ tịch Quốc hội. Ông Lê
Quang Đạo nhất trí liền. Nhưng để lệnh của chủ
tịch có thể thi hành, vẫn phải qua tổng thư ký. Ông Sỹ Dũng lại phải đi gặp ông Việt Dũng. Vừa nghe tới cái nút
thứ ba, “không biểu quyết”, ông Việt Dũng nói:
“Không được, đã là đảng viên thì chính kiến phải rõ ràng”. Ông Sỹ Dũng thuyết phục: “Không nên đẩy những người
đang cân nhắc vào thế phải ủng hộ hay chống.
Cháu vẫn cho rằng những người không biểu quyết vẫn
tích cực hơn là chống ạ”. Ông Việt Dũng: “Mày mới về đây, biết gì”. Ông Sỹ
Dũng đành nói thẳng: “Thưa bác, Chủ tịch Lê Quang Đạo
đã đồng ý rồi”. Phàm là những người nguyên tắc
thì nguyên tắc quan trọng nhất mà họ tuân thủ là cấp trên, nghe tới đó, ông Việt Dũng nói: “Chủ tịch đã đồng ý
thì cứ thế mà làm”.
Khi mới về Văn phòng, ông Nguyễn Sỹ Dũng tìm thấy trong đống thư
từ có một
bức thư của Liên minh Quốc hội Thế giới gửi cho Quốc
hội các nước giới thiệu chương trình tài trợ
giúp “nâng cao năng lực các thiết chế dân chủ”(366). Nguyễn Sỹ Dũng xin phép ông Vũ Mão cho “mở rộng hợp tác quốc tế”,
ông Vũ Mão đồng ý. Ông Dũng soạn một lá thư
đứng tên bà Nguyễn Thị Bình, chủ nhiệm Uỷ ban
Đối ngoại Quốc hội. Bức thư được bà Bình ký gửi đi. Mấy tháng sau, Liên minh Quốc hội Thế giới cử ông Martin Chungong, một chuyên
gia người châu Phi tới Việt Nam.
Chương trình hợp tác đầu tiên ký với tổ chức này đã giúp Văn phòng
Quốc hội
lập mạng máy tính và lắp đặt phần mềm ghi tốc ký biên
bản. Quốc hội trở thành cơ quan nhà nước đầu
tiên sử dụng máy tính ở Việt Nam, và kể từ lúc đó, từng lời phát biểu trên hội trường của các đại biểu được ghi lại và
lưu trữ. Từ năm 1993, Văn phòng Quốc hội bắt
đầu tiếp nhận sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế thông qua các hoạt động hợp tác: dự án nâng cao năng lực các
thiết chế dân chủ của Liên minh Quốc hội Thế
giới, các dự án nâng cao năng lực thể chế của UNDP, dự án hỗ trợ các cơ quan dân cử của Đan Mạch, dự án phát triển
thông tin công chúng và năng lực giám sát của
Thuỵ Điển(367).
Tiến trình này đã ảnh hưởng sâu sắc tới Quốc hội Việt Nam. Toàn bộ
các khái
niệm truyền thống và hiện đại về nghị viện, về thông
tin công chúng, kiến thức chuyên sâu về công
cụ và hiệu năng giám sát của Quốc hội, kiến thức căn bản về lập pháp, về nhà nước pháp quyền, chức năng đại biểu… đã
đến với Quốc hội Việt Nam thông qua các dự án
hợp tác quốc tế(368).
Cuộc chất vấn trực tiếp (Bộ trưởng Tài chính Hoàng Quy) diễn ra
ngày 20-12-1991 sẽ không thu hút sự chú ý của công chúng như thế
nếu ngay sau đó không được tờ Tuổi Trẻ
tường thuật chi tiết. Phản ứng của bạn đọc với những bài tường thuật Quốc hội, bắt đầu trên Tuổi Trẻ, đã
khiến cho báo chí thay đổi cách tiếp cận các
sự kiện diễn ra ở Hà Nội. Thay vì dùng những bản tin công thức của Thông tấn xã hoặc của báo Nhân Dân, các báo - đặc biệt là
báo chí Sài Gòn - bắt đầu gửi phóng viên về
Thủ đô. Chính trị không còn là một đề tài tẻ nhạt, số lượng phát hành của những tờ báo như Tuổi Trẻ, Thanh Niên,
Người Lao Động… đã tăng rõ rệt mỗi kỳ Quốc hội
họp.
Nhưng báo chí chỉ thực sự khiến cho Quốc hội tạo được ảnh hưởng
trong đời
sống chính trị của Việt Nam khi các phiên chất vấn và
sau đó là các phiên thảo luận về tình hình
kinh tế xã hội bắt đầu được truyền hình trực tiếp. Ý tưởng truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn được ông Vũ Mão đề
xuất áp dụng vào năm 1998. Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội sau khi thảo luận đã đồng ý với đề nghị này.
Ở thời điểm ấy, đó là một sáng kiến chính trị táo bạo. Thường vụ
quyết định phải
báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị. Sau khi cân nhắc, Bộ
Chính trị chấp nhận. Tuy nhiên, khi đảng đoàn
Quốc hội họp với Ban Cán sự Đảng của Chính phủ để chính thức triển khai, Ban Cán sự Đảng của Chính phủ đã không
đồng ý. Cận ngày chất vấn, việc truyền hình
trực tiếp hay không vẫn còn ý kiến đôi co. Tuy nhiên, ông Vũ Mão vẫn triển khai kế hoạch với Đài Truyền hình Trung
ương.
Sự việc có nguy cơ bất thành khi ông trưởng Ban Văn hoá - Tư tưởng
Trung ương
gặp ông An Duyệt, phó Ban Thời sự VTV, nói: “Không
nên! Truyền hình trực tiếp chất vấn và trực
tiếp trả lời chất vấn dễ làm lộ bí mật và dễ làm mất uy tín cán bộ lãnh đạo”. An Duyệt, người phụ trách nhóm làm truyền
hình trực tiếp, vội vàng chạy đến gặp ông Mão,
trưởng đoàn thư ký kỳ họp. Vũ Mão kiên quyết: “Tôi
nói với các bạn là Bộ Chính trị đã cho phép, cứ làm”. Nhưng sau đó ông trưởng Ban Tư tưởng - Văn hoá vẫn giữ thái độ kiên quyết
với ông An Duyệt: “Đã nói rồi, các cậu làm mà
xảy ra chuyện gì thì các cậu phải chịu trách nhiệm”. Trưa hôm đó, ông Vũ Mão cùng An Duyệt phải đến xin ý kiến
Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh và Thủ tướng
Phan Văn Khải.
Cả Thủ tướng lẫn Chủ tịch Quốc hội đều e ngại. Chủ tịch Nông Đức
Mạnh nói:
“Hay là Đài Truyền hình vẫn cứ ghi hình toàn bộ phiên
chất vấn, sau đó rà lại, bỏ bớt những chỗ gay
cấn, phức tạp, đến tối mới đưa lên để nhân dân xem”. Ông Vũ Mão trấn an: “Mọi việc đã được chuẩn bị chu đáo, với lại,
việc truyền hình trực tiếp đã được thông báo
rộng rãi, nhân dân đang chờ, sẽ khó giải thích nếu không có lý do gì mà việc truyền hình trực tiếp lại không được
thực hiện”. Ông Mạnh im lặng, ông Vũ Mão yêu
cầu ông An Duyệt tiến hành. Từ ngày 14-5-1998, các phiên chất vấn của Quốc hội đều được Đài Truyền hình Việt
Nam truyền hình trực tiếp.
Người nhận được nhiều lợi ích chính trị nhất từ hoạt động này
không phải là ông
Vũ Mão mà chính là Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh.
Đóng góp lớn nhất của ông Nông Đức Mạnh nằm ở
chỗ ông không đủ sức để cản trở các sáng kiến cải cách. Khi điều khiển các phiên họp, ông Mạnh cũng không
tham gia vào nội dung và không ngắt lời các
đại biểu. Không khí tranh luận, vì thế, diễn ra có vẻ dân chủ hơn. Ông Mạnh đã điều hành nghị trường Việt Nam giống như
một người phát ngôn (speaker) trong Quốc hội
của quốc gia dân chủ. Hình ảnh ông Mạnh, tóc tai chải chuốt, ăn nói mềm mỏng và đôi khi đột nhiên lóe sáng(369) trước ống
kính truyền hình dần dần được công chúng thừa
nhận như là một nhà lãnh đạo.
Người kế nhiệm, ông Nguyễn Văn An, thì hoàn toàn ngược lại. Ông
Nguyễn Văn
An ý thức khá rõ vai trò của truyền hình. Ông là nhà
lãnh đạo cấp cao đầu tiên của Việt Nam sử dụng
email và thường xuyên truy cập thông tin trên internet. Các phiên chất vấn mà ông An chủ trì trở nên căng thẳng hơn vì
ông thường can thiệp vào nội dung, đôi khi tỏ
thái độ gay gắt với các Bộ trưởng.
Cuối các phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đều có
một văn bản
kết luận, đánh giá trả lời chất vấn của các thành
viên Chính phủ. Chủ tịch nghị viện của các
quốc gia dân chủ không điều hành Quốc hội theo cách của ông Nguyễn Văn An, nhưng ở Việt Nam thì có vẻ như ông đã thành
công. Cách điều hành của ông An làm cho chủ
tịch Quốc hội trở nên quyền lực hơn. Các thành viên
chính phủ ý thức được sinh mệnh chính trị của họ có thể bị lung lay nếu ông
An muốn.
Trong năm đầu nhiệm kỳ của ông Nguyễn Văn An, tháng 11-2001, Quốc
hội đã sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội, trong đó có đề cập đến quyền
bỏ phiếu tín nhiệm “những người giữ các chức
vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” như chủ tịch nước,
thủ tướng, viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao, chánh án Toà án Tối cao và
các Bộ trưởng. Nhưng quy trình được thiết kế trong
Luật đã khiến cho quyền này không thể thực
hiện(370).
Sau Hiến pháp 1992, mô hình “Nhà nước Đảng” đã không còn vận hành
một cách
công khai. Quyền lực thực tế lặng lẽ lùi vào phía
sau, Quốc hội trở thành nơi bộc lộ những xung
đột và đôi khi trở thành công cụ giải quyết xung đột quyền lực của các bên. Việc tiếp cận với các khái niệm phổ quát và nhận
thức được vai trò chung của nghị viện cũng làm
thay đổi nhận thức của một số cá nhân, nhất là khi trong Quốc hội bắt đầu có nhiều người chuyên trách.
Khái niệm “Quốc hội chuyên nghiệp” được Đoàn Đại biểu Quốc hội
Thành phố
Hồ Chí Minh đặt ra trước và trong thời gian thảo luận
Hiến pháp 1992 một cách công khai(371). Như
các đề nghị về “tam quyền phân lập” hay cho tư nhân sở hữu đất đai, ý tưởng chuyên nghiệp hoá Quốc hội đã không
được chấp nhận(372).
Tháng 4-1992, khi thông qua Luật Tổ chức Quốc hội, Quốc hội khoá
VIII đã đưa
vấn đề chuyên trách vào Luật một cách dè dặt: “Trong
số các đại biểu Quốc hội, có những đại biểu
làm việc theo chế độ chuyên trách và có những đại biểu làm việc theo chế độ không chuyên trách. Số lượng đại biểu Quốc
hội làm việc chuyên trách do Quốc hội quyết
định”. Số lượng đại biểu chuyên trách làm việc thường
xuyên ở 35 Ngô Quyền từ đó chỉ tăng lên nhỏ giọt(373).
Tháng 8-1999, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII họp lần thứ
7, đưa vào Nghị quyết một câu ngắn trong phần nói về tổ chức bộ
máy của Quốc hội: “Từng bước tăng tỷ lệ đại
biểu Quốc hội chuyên trách”. Năm 2001, tại kỳ họp thứ 10, Luật Tổ chức Quốc hội được sửa, theo đó: “Số lượng đại
biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách có ít
nhất là 25% tổng số đại biểu”(374).
Chủ trương cơ cấu 25% đại biểu chuyên trách, đã làm thay đổi không
ít số phận
cán bộ. Tiến sĩ Trịnh Huy Quách, khi đang làm thư ký
cho Chủ tịch Nông Đức Mạnh, thường vẫn đi từ
nhà riêng ở phía Hồ Tây đến 35 Ngô Quyền bằng xe đạp. Ngày 31-7-2002, ông được bầu làm phó chủ nhiệm Uỷ ban Kinh
tế và Ngân sách. Từ cán bộ có hàm cấp vụ lên
cấp thứ trưởng, từ sáng sớm ngày 1-8-2002, trước nhà ông Quách bắt đầu có một chiếc xe hơi mang biển xanh 80B đậu chờ đưa
rước. Tuy nhiên, với những cán bộ đang ở các vị trí
quyền lực thì việc bị đưa sang làm chuyên
trách Quốc hội cũng giống như bị đặt vào thế “dự bị hưu” trừ khi họ ý thức được tầm quan trọng của vai trò mới.
Đại biểu chuyên trách Nguyễn Minh Thuyết đã đi vào lịch sử giám
sát của Quốc
hội khi ngày 1-11-2010 công khai đưa ra đề nghị thành
lập uỷ ban độc lập điều tra để bỏ phiếu tín
nhiệm thủ tướng(375). Nếu như câu chuyện của bà Đào Thị Biểu chỉ được nhắc lại sau hàng chục năm, thì đề nghị của ông
Nguyễn Minh Thuyết ngay lập tức được truyền
hình trực tiếp. Cho dù đề nghị của ông bị bác(376), ảnh hưởng chính trị của nó có sức lan toả ngay. Nhưng những đại
biểu như Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết ngay sau
đó đã không được cơ cấu lại. Sau mỗi nhiệm kỳ, chỉ
có trên dưới 30% số đại biểu đương nhiệm được Đảng phân công ra ứng cử. Nguyên tắc một người không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ
lẽ ra chỉ áp dụng cho các chức danh hành pháp,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng cho cả những cán
bộ dân cử có thể dẫn sự đổi mới của Quốc hội đi “quá đà”.
Nhiều đại biểu, đầu nhiệm kỳ chưa biết nghị trường là gì, cuối
nhiệm kỳ bắt đầu
quen việc và có tiếng nói độc lập thì không còn được
ra ứng cử nữa. Thất thoát thể chế rất lớn. Cứ
mỗi đầu nhiệm kỳ, Quốc hội lại phải tổ chức các lớp dạy các ông nghị cách làm đại biểu trong khi những đại biểu rành rẽ
công việc lập pháp và giám sát thì bị loại dần
ra khỏi nghị trường.
Thủ
tướng và “người đứng đầu”
Tháng 8-1991, ông Võ Văn Kiệt được bầu giữ chức chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng.
Chính phủ của ông khi ấy vẫn hình thành dựa trên
nguyên tắc của Hiến pháp 1980. Nhưng, thay vì
giữ sáu phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng như kế thừa, ông Kiệt chỉ đề cử ba phó chủ tịch(377).
Ngay sau khi được Quốc hội bầu, chiều ngày 9-8-1991, ông Võ Văn
Kiệt giải
thích: “Đây là hướng đổi mới về tổ chức nhà nước nói
chung và tổ chức chính phủ nói riêng. Hội đồng
Bộ trưởng bớt các phó chủ tịch, bộ bớt các thứ trưởng, ban bớt các phó ban… để làm sao tập trung trách nhiệm của
người đứng đầu”(378). Đây là mô hình mà theo
ông Kiệt sẽ từng bước được áp dụng ở các địa phương(379).
Lúc ấy, ông Kiệt tỏ ra rất lạc quan: “Một khi đã phân định rõ quản lý nhà nước bằng pháp luật, phân định rõ trách nhiệm của
trung ương, địa phương thì số cấp phó không
chỉ là ba mà có khi chỉ cần một là đủ”(380).
Ông Võ Văn Kiệt đã hình thành bộ máy “Hội đồng Bộ trưởng” theo
phương án
chính phủ mà thủ tướng có vai trò như người đứng đầu,
trong khi ở thời điểm ấy Ban Soạn thảo Hiến
pháp vẫn thiết kế mô hình nhà nước với nhiều phương án.
Dự thảo I đã từng thiết kế định chế chủ tịch nước với những quyền
hạn gần như
chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946. Quốc hội theo Dự
thảo này không có cơ quan thường vụ - hội đồng
nhà nước, đoàn chủ tịch hay uỷ ban thường vụ. Dự thảo I cũng quy định rõ lượng đại biểu chuyên trách ở Hội đồng Dân
tộc là 1/3, ở các uỷ ban là 1/2; bỏ hội đồng
nhân dân ở các quận, huyện, phường và thị xã. Tháng 5-1991, Dự thảo I được đưa ra lấy ý kiến cán bộ trung, cao
cấp. Tuy phương án nguyên thủ một người không
bị bác hẳn, nhưng, trong Dự thảo II, được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công trình bày ngày 27-7-1991
trước kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khoá VIII, Ban
Soạn thảo đã phải đưa thêm phương án nguyên thủ tập
thể: đoàn chủ tịch Quốc hội.
Quốc hội đã dành trọn ngày 1-8-1991 để thảo luận về Dự thảo II.
Chỉ có bốn ý
kiến đồng ý với phương án II vì cho rằng không nên
tập trung quyền vào tay một người, trong khi
tám ý kiến khác phát biểu trong phiên họp toàn thể đều tán dương phương án I. Các đại biểu cho rằng cơ chế tập thể
được áp dụng quá nhiều, đã có Quốc hội giám
sát nên không lo cá nhân lạm quyền(381). Phương án lập chính phủ thay cho Hội đồng Bộ trưởng được ủng hộ cao,
nhiều đại biểu còn đề nghị tăng cường trung
ương tập quyền bằng cách để thủ tướng bổ nhiệm chủ tịch uỷ ban hành chính tỉnh thành, chủ tịch cấp trên bổ nhiệm
chủ tịch uỷ ban cấp dưới.
Ngày 29-11-1991, tại Hội nghị Trung ương 2, Uỷ ban Sửa đổi Hiến
pháp kiến
nghị lập thiết chế chính phủ và thủ tướng chính phủ
thay cho hội đồng Bộ trưởng. Hiến pháp trao
cho thủ tướng đủ quyền hạn để thực thi nhiệm vụ, trong đó có quyền lựa chọn Bộ trưởng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, bổ
nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính cấp
dưới trực tiếp theo đề nghị của hội đồng nhân dân cùng cấp, và thống nhất điều hành bộ máy hành chính nhà nước
thông suốt từ trung ương đến cơ sở.
Hội nghị Trung ương 2 đã đồng ý với đề nghị này của Uỷ ban Sửa đổi
Hiến pháp
nên trong bản Dự thảo III công bố lấy “ý kiến nhân
dân” ngày 30-12-1991, phương án chính phủ đã
được đưa ra để thay thế hội đồng Bộ trưởng, thủ tướng được dự kiến trao cho nhiều quyền hơn. Quốc hội chỉ bầu thủ
tướng còn các phó thủ tướng và Bộ trưởng thì
Quốc hội không bầu mà phê chuẩn theo đề nghị của thủ tướng. Thủ tướng còn có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm các thứ trưởng,
bổ nhiệm miễn nhiệm và điều động chủ tịch, các
phó chủ tịch uỷ ban hành chính cấp tỉnh,
thành. Hội đồng nhân dân các cấp chỉ còn là cơ quan đại biểu của dân thay
vì là cơ quan quyền lực cao nhất tại địa phương…
Trong Dự thảo IV được Uỷ ban Sửa đổi Hiến pháp gửi tới các đại
biểu Quốc hội
vào ngày 14-3-1992, định chế chủ tịch nước đã được
đưa vào phương án chính thức, trong khi, Quốc
hội có một cơ quan thường trực là uỷ ban thường vụ. Định chế hội đồng nhà nước vẫn được đưa vào như một phương án
phụ để Quốc hội thảo luận. Mô hình chính phủ
và quyền hạn của thủ tướng được giữ như Dự thảo III
nhưng thủ tướng chỉ phê chuẩn kết quả bầu chủ tịch uỷ ban tỉnh thành của hội
đồng nhân dân thay vì bổ nhiệm. Đây là phương án đã
được đưa vào hiến pháp. Mô hình chính phủ còn
tiếp tục được điều chỉnh chỉ một thời gian ngắn sau khi Hiến pháp 1992 có hiệu lực(382).
Các cơ quan chính phủ thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Phan
Văn Khải
đều được chuyển dần từ vai trò cơ quan chủ quản,
trông coi sản xuất kinh doanh của khối quốc
doanh, sang vai trò quản lý nhà nước với tất cả các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, cả hai ông đều chưa tách bạch được chức
năng hành pháp chính trị với hành chính công
vụ. Cải cách hành chính vì thế không thể đi tới tận cùng, bộ máy các bộ ngành tuy có sắp xếp lại, có giảm về
đầu mối vẫn cứ lần lượt phình ra(383).
Biên chế tăng một phần là do kinh tế phát triển, nhu cầu hành
chính trong xã hội
tăng, nhưng chủ yếu do các bộ ngành vẫn bám giữ các
đặc quyền nhà nước thông qua việc duy trì các
thủ tục. Cho dù xây dựng kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với người dân và doanh
nghiệp vẫn là mối quan hệ “xin - cho”.
Chia
tỉnh
Ngay trong giai đoạn “tiền hiến pháp”, địa giới hành chính hình
thành dưới thời
Tổng bí thư Lê Duẩn đã bắt đầu bị phá vỡ. Các địa
phương gây áp lực rất lớn để đòi chia tỉnh.
Gần năm tháng sau khi Sài Gòn sụp đổ, ngày 20-9-1975, Bộ Chính trị
ra Nghị
quyết 245, quyết định sáp nhập năm mươi hai tỉnh nhỏ với
nhau thành hai mươi mốt tỉnh lớn, “nhằm xây
dựng tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những
yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống
vật chất và văn hoá của nhân dân”.
Ở miền Nam(384), có nơi ba, bốn tỉnh bị yêu cầu nhập lại làm một
như: Cần Thơ,
Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh; Long Châu Tiền, Sa
Đéc, Kiến Tường, Mỹ Tho, Gò Công, Long An, Bến
Tre. Ở miền Trung, Quảng Bình - một tỉnh Bắc giới tuyến - bị nhập với Thừa Thiên và Quảng Trị. Ở miền Bắc,
Yên Bái, Lào Cai cũng bị yêu cầu nhập với
Nghĩa Lộ… Tuy nhiên, tiến trình thi hành Nghị quyết 245 diễn ra không đơn giản. Năm 1976, việc phân chia lại
địa giới hành chính mới chính thức bắt đầu,
theo đó, thay vì hợp thành ba mươi ba tỉnh, thành như Nghị quyết 245, số tỉnh, thành mới là ba mươi chín.
Không đợi đến khi công cuộc làm ăn lớn nhằm “đưa cả nước tiến
nhanh, tiến
mạnh lên chủ nghĩa xã hội” thất bại, ngày 29-12-1978,
trước khi cuộc chiến tranh biên giới với Trung
Quốc nổ ra, tỉnh Cao Lạng đã được tách về như cũ thành hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI,
không khí độc đoán trong Đảng giảm dần, các
địa phương bắt đầu bộc lộ mâu thuẫn. Ở Bình Trị Thiên dân Huế than: “Ơi Huế của ta, hai phần ba là Quảng Trị…”. Ở
Nghệ Tĩnh dân Hà Tĩnh nói: “Nhập tỉnh cũng
Vinh dự, tách tỉnh cũng Vinh dự”(385).
Trung ương buộc phải chấp nhận tách các tỉnh ra “cho phù hợp với
trình độ quản
lý”. Ngày 30-6-1989, Quốc hội biểu quyết: tách Bình
Trị Thiên về như cũ Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên-Huế; tách Nghĩa Bình thành Quảng Ngãi và Bình Định; tách Phú Khánh thành Phú Yên và Khánh Hoà. Từ ba mươi
chín tỉnh thành, năm 1989, cả nước có bốn mươi
bốn tỉnh thành. Nhưng địa phương nào cũng chất chứa
các vấn đề nội bộ, các tỉnh tách đợt đầu đã tạo ra phản ứng dây chuyền.
Trong năm 1991, có tới ba đợt tách tỉnh: Ngày 12-8-1991, Hà Sơn
Bình được tách
ra thành Hà Tây và Hoà Bình; Gia Lai-Kon Tum được
tách ra thành Gia Lai và Kon Tum. Tháng
10-1991, Hoàng Liên Sơn được tách thành Lào Cai và Yên Bái; Hà Tuyên được tách thành Tuyên Quang và Hà Giang. Ngày
26-12-1991, Hà Nam Ninh tách thành Nam Hà và
Ninh Bình; Thuận Hải được tách thành Bình Thuận
và Ninh Thuận; Cửu Long được tách thành Vĩnh Long và Trà Vinh; Hậu Giang được tách thành Cần Thơ và Sóc Trăng. Số địa phương
năm 1991 là năm mươi ba.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, ngày 6-11-1996, lại thêm một đợt
tách tỉnh khác:
Bắc Thái được tách thành Bắc Cạn và Thái Nguyên; Hà
Bắc được tách thành Bắc Giang và Bắc Ninh; Nam
Hà được tách thành Hà Nam và Nam Định; Quảng Đà được
tách thành Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng; Minh Hải được tách thành Bạc Liêu và Cà Mau. Cuối kỳ họp này, ngày 26-11-1996, Quốc
hội phải bỏ phiếu lại để tách Vĩnh Phú thành
Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
Đầu năm 1997, Sông Bé được tách thành Bình Dương và Bình Phước;
Hải Hưng
được tách thành Hải Dương và Hưng Yên. Số tỉnh thành
cả nước tăng lên sáu mươi mốt. Ngày 1-1-2004,
tách luôn hai tỉnh còn lại: Lai Châu thành Lai Châu và Điện Biên; Đăk Lăk thành Đăk Lăk và Đăk Nông. Nhưng cơ cấu
hành chính không dừng lại con số của năm 1997
với sáu mươi bốn tỉnh thành(386).
“Công
nông hoá” tư pháp
Chiều ngày 5-10-1992, Quốc hội đã quyết định để Bộ Tư pháp phối
hợp với Toà
tối cao quản lý toà địa phương về mặt tổ chức với 292
phiếu thuận, 71 phiếu chống, sau hai ngày
tranh luận gay gắt về hai phương án: Bộ Tư pháp phối hợp với Toà án Nhân dân Tối cao quản lý toà địa phương hay để
cho Toà án Tối cao quản lý toà theo ngành dọc.
Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao Phạm Hưng ủng hộ phương án hai và
có ý chỉ
trích ngành tư pháp, nơi soạn thảo Dự luật Tổ chức
Toà án, tự trao cho mình quyền quản lý các toà
cấp dưới. Nhưng, Bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc cho rằng, toà án không phải là một cơ quan hành chính để cấp trên
quản lý cấp dưới mà là một cơ quan xét xử.
Theo ông, việc toà án cấp dưới phụ thuộc toà án cấp trên về mặt tổ chức là nguyên nhân nảy sinh hiện tượng thỉnh thị
án, hiện tượng các thẩm phán khi xét xử đã có sẵn
bản án bỏ túi.
Một “sách trắng” mà Bộ Tư pháp gửi đến các đại biểu Quốc hội tại
kỳ họp đó cho
biết: Nhiều toà án cấp tỉnh đã xếp lịch cụ thể để lên
thỉnh thị án. Năm 1988, do toà hình sự Toà án
Nhân dân Tối cao có văn bản chỉ thị toà án Hà Nam Ninh xử một bị cáo năm năm tù mà bị cáo này đã bị ức chế, dùng súng
bắn hai cán bộ toà án rồi tự sát.
Những nỗ lực của Bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc có tác động đáng kể đến
cải cách
tư pháp thời thập niên 1990. Tuy nhiên, một mặt do tư
pháp Việt Nam không chỉ lệ thuộc vào mô hình
mà nó được thiết kế, mặt khác, ngay từ lúc ban sơ, “tam quyền phân lập” đã không được những người khai sinh chính
thể “dân chủ cộng hoà” tán thành, nên cũng như
những quyền tự do khác, quyền được thụ hưởng công
lý của người Việt Nam đã không được mở ra đúng mức.
Trong quá trình hình thành Hiến pháp 1946, trong nội bộ Ban Dự
thảo và trên báo
chí đã từng có nhiều cuộc tranh luận. Theo Bộ trưởng
Tư pháp Vũ Đình Hòe, Hồ Chí Minh không đánh
giá cao mô hình nhà nước theo kiểu tam quyền phân lập.
Ông muốn dùng kinh nghiệm xây dựng chính quyền nhân dân trong các
căn cứ địa, muốn tập trung cả ba quyền cho cơ quan đại diện của
toàn dân. Hồ Chí Minh cho rằng các nhánh quyền
không cần giám sát lẫn nhau vì mặt trận vừa là một cơ quan giám sát vừa là chỗ dựa cho nhà nước(387).
Toà án bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam với tư cách là một nhánh quyền
lực độc lập
kể từ khi người Pháp thiết lập quyền cai trị trên các
vùng nhượng địa: Nam Kỳ, Đà Nẵng, Hà Nội và
Hải Phòng. Việc xử án, thoạt đầu hoàn toàn do các nhà hành chính người Pháp đảm trách. Kể từ năm 1921, ở Nam Kỳ, nhiều
vị thẩm phán người Việt đã được bổ nhiệm để
xét xử các vụ hình sự đối với các nguyên và bị cáo
nói tiếng Việt. Ở các xứ ngoài Nam Kỳ, bên cạnh các “toà Nam án” do các quan tỉnh điều khiển theo tổ chức tư pháp của Triều Nguyễn,
có những toà án Pháp đăt dươi sư điêu khiên
của các viên công sư(387).
Trong thời kỳ tiền hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh
số 13, ngày
24-1-1946, quy định: “Toà án sẽ độc lập với các cơ
quan hành chính. Các vị thẩm phán sẽ chỉ xử
trong vòng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào việc tư pháp”. Tư pháp theo thiết kế của Hiến
pháp 1946 cũng “độc lập, chỉ tuân theo pháp
luật”. Tuy “các viên thẩm phán đều do chính phủ bổ nhiệm”(389) cơ quan tư pháp không thiết lập theo các cấp
hành chính như về sau mà thiết lập theo cấp
xét xử: toà án tối cao, các toà án phúc thẩm, các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Tiến trình xét xử phải theo nguyên tắc:
“các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật,
các cơ quan khác không được can thiệp”(390). Nhưng, chỉ mấy năm sau đó, chính Hồ Chí Minh sẽ từ bỏ dần những nguyên
tắc này.
Tại “An toàn khu”, theo Bộ trưởng Lê Văn Hiến: “Vấn đề tư pháp -
hành chính
lâu nay cứ lủng củng mãi, mỗi bên đều có sự than
phiền. Tư pháp trách hành chính lạm quyền và
lộng quyền, bất chấp luật lệ, nhân tình thế chiến tranh mà thi hành nhiều thủ đoạn tổn thương đến quyền tự do cá nhân.
Hành chính tố cáo tư pháp lợi dụng nguyên tắc
độc lập mà đi dần đến chỗ độc lập với chính quyền, có khi lấy luật pháp để bảo vệ những hành vi phản động”(391).
Tháng Giêng 1948, trong một cuộc họp mở rộng, Hồ Chí Minh và Tổng
bộ Việt
Minh đã yêu cầu các ngành: “Ra sức trừ bỏ những tệ
như: Việt Minh lấn quyền hành chính… Mặt trận
và bộ đội xung đột và tị nạnh nhau… Kháng chiến kiêm hành chính và chuyên môn (nhất là tư pháp) xung đột
nhau”(392). Nhưng, khi xung đột tư pháp - hành
chính không dừng lại ở cấp huyện, tỉnh thì chính Hồ Chí Minh cũng phản ứng(393).
Ngoài xung đột giữa giới tư pháp với giới hành chính, theo ông Vũ
Đình Hòe,
khía cạnh sâu sắc hơn còn là xung đột giữa Đảng và
các trí thức, giữa Đảng Cộng sản và những
người thuộc hai đảng Xã hội và Dân chủ. Từ năm 1950, tuy đảng viên Đảng Dân chủ Vũ Đình Hòe vẫn còn là Bộ trưởng Tư pháp,
nhưng quyền lực trên thực tế nằm trong tay Thứ
trưởng Trần Công Tường, một cán bộ cao cấp của
Đảng Cộng sản. Không cần trao đổi với Bộ trưởng, ông Tường đã “cùng với chi bộ” của ông chuẩn bị ba dự án sắc lệnh đề cập đến ba
vấn đề thay đổi căn bản nền tư pháp.
Hơn một tháng sau khi “cướp chính quyền”, ngay 10-10-1945, Chủ
tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lênh 90, tạm thời áp dụng các nguyên tắc
dân sự ghi trong Dân pháp điển Băc Kỳ và Trung
Kỳ, Pháp quy giam yếu 1883 thi hành ở Nam Kỳ. Theo ông Vũ Đình Hòe, trong quá trình soạn thảo Hiến pháp 1946,
Hồ Chí Minh cũng đã ra lệnh giữ lại các luật
lệ của chế độ cũ không trái với chế độ mới. Nhưng, đến năm 1950, Hồ Chí Minh đã trực tiếp nghe và đồng ý với đề
xuất của ông Trần Công Tường, thiết lập ba
nguyên tắc cơ bản của dân luật dựa trên ba nguyên tắc tương ứng của bộ Dân luật Nga Xô năm 1922, được soạn thảo
dưới sự chủ trì của Lenin.
Thay vì tuân thủ nguyên tắc “quyền tư hữu được nhà nước bảo hộ”
theo Hiến
pháp 1946, Sắc lệnh 97 của Hồ Chí Minh quy định rằng:
“Các quyền dân sự của công dân chỉ được thực
hiện và bảo vệ khi công dân sử dụng các quyền ấy của mình một cách phù hợp với quyền lợi của nhân dân… Công dân
chỉ hành xử quyền tư hữu trong phạm vi phù
hợp… Toà án nhân dân có thể huỷ bỏ bất kỳ hợp đồng
nào ký kết giữa hai công dân, nếu sự chênh lệch quá đáng về tài sản giữa họ
đối với nhau”(394).
Ông Trần Công Tường còn đề nghị xoá bỏ chế độ luật sư của Pháp để
lại, thay
bằng chế độ bào chữa viên nhân dân, để cải tiến triệt
để việc xử án. Trong cuộc họp Chính phủ để
trình ba dự án sắc lệnh này, Bộ trưởng Vũ Đình Hòe đã “bật lên phản đối” nhưng theo ông Hòe, “sự dàn hoà, điều giải
của Hồ Chủ tịch thật tài tình”. Hồ Chí Minh
vẫn ký Sắc lệnh 85- SL, ngày 22-5-1950, quy định “Chế độ hội thẩm nhân dân” do Thứ trưởng Tư pháp Trần Công Tường đệ
trình nhưng vẫn “tán thành ý kiến bổ sung của
Bộ trưởng Vũ Đình Hòe”, không đụng đến Đoàn Luật
sư(395).
Trong thời kỳ tiền Hiến pháp 1959, Quốc hội đã ra nghị quyết, ngày
29-4-1958,
tách hệ thống công tố ra khỏi toà án để trở thành bốn
cơ quan ngang bộ trực thuộc Hội đồng Chính
phủ. Trong giai đoạn 1945-1958, cơ quan công tố chưa được tổ chức thành một hệ thống riêng mà hợp cùng với cơ quan xét
xử thành toà án các cấp. Nhiệm vụ của Viện
Công tố là điều tra, truy tố những vụ phạm pháp về hình sự, giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều
tra của cơ quan điều tra, trong việc xét xử
của toà án, trong việc tạm giữ và cải tạo ở các trại giam.
Sau Hiến pháp 1959, hệ thống toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân
dân ra đời,
thay vì nằm trong hội đồng chính phủ, trở thành những
cơ quan trực thuộc Quốc hội, ở cấp tỉnh, thành
thì trực thuộc hội đồng nhân dân cùng cấp. Sau Hiến pháp 1959, Bộ Tư pháp bị giải thể. Theo ông Nguyễn Đình Lộc,
ngoài lý do sao chép từ mô hình nhà nước liên
bang của Liên Xô, sự sửa đổi này còn mục tiêu nhắm tới ông Bộ trưởng Vũ Đình Hòe(396).
Đặc biệt, ngày 17-11-1950, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 158-SL,
quyết định việc
bổ sung cán bộ công nông vào ngạch thẩm phán và thăng
bổ các thẩm phán toà án nhân dân huyện lên toà
án nhân dân tỉnh. Từ đây, trường luật Tam Đảo lập ra theo chủ trương của ông Vũ Đình Hòe nhằm đào tạo các thẩm phán
đệ nhị cấp đã bị đóng cửa vì theo ông Hòe:
“Chủ trương đào tạo thẩm phán chuyên môn đương nhiên
là bị Đảng đoàn Tư pháp gạt bỏ vì người cộng sản coi chính trị là thống soái, nên chỉ cần đề bạt cán bộ công nông là đủ giải quyết
vấn đề cán bộ tư pháp”(397).
Từ đây, theo ông Vũ Đình Hòe: “các thẩm phán huyện, đa số là đảng
viên cộng
sản, chỉ qua lớp chính trị và nghiệp vụ”. Quan điểm
lựa chọn thẩm phán chủ yếu “đứng trên lập
trường nhân dân” của Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng lâu dài đến nền tư pháp Việt Nam. Trong giai đoạn 1960-1970, khi vai trò
của Nhà nước bị lu mờ trước vai trò của Đảng,
sự sa sút về chất lượng của đội ngũ thẩm phán và tính thiếu độc lập của toà án ít được chú ý. Nhưng, từ cuối thập
niên 1980, điều này bắt đầu trở thành một vấn
đề lớn.
Theo một báo cáo của Bộ Tư pháp tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá
IX: Năm
1981, chỉ có 3% cán bộ toà án cấp tỉnh, huyện có
trình độ đại học. Năm 1991 số thẩm phán có
trình độ đại học được nâng lên ở mức 50% nhưng thẩm phán cấp quận huyện cũng chỉ 41% có trình độ đại học, trong đó nhiều
người tốt nghiệp hệ tại chức. Cũng trong kỳ
họp đó, Đại biểu Quốc hội Hoàng Ngọc Nhất, giám đốc Công an Thanh Hoá, nêu tình trạng thẩm phán, người nhân
danh Nhà nước, nhân danh pháp luật, lại không
có hiểu biết về luật bằng người bảo vệ các bị cáo: luật sư. Ông Nhất nói: “Có phiên toà, bị cáo còn thuộc luật hơn
cả thẩm phán”. Trình độ thẩm phán càng thấp
toà án càng lệ thuộc lớn vào cấp uỷ. Chính báo Nhân Dân cũng phải thừa nhận ở toà, các thẩm phán thường chỉ đưa
ra các bản án đã được cấp uỷ xử trước; những
người muốn độc lập với cấp uỷ thường phải gánh chịu
hậu quả, có khi là mất việc(398).
Đầu thập niên 1990, Đảng bắt đầu chấn chỉnh tình trạng cấp uỷ can
thiệp thô bạo
vào các bản án. Nhưng, đối với những bản án có ảnh
hưởng lớn, Đảng vẫn cho rằng, “cấp uỷ cần tham
gia ý kiến về quan điểm xét xử làm cơ sở cho việc quyết định của cơ quan kiểm sát và toà án”(399). Chất lượng toà
án cho đến lúc bấy giờ vẫn lệ thuộc vào “tính
chất công nông” nằm ở trong số đông của đội ngũ. Ngày 5-12-1997, Đại biểu Hoàng Ngọc Thành, Lào Cai, nói trước
Quốc hội: “Tỉnh tôi có bảy thẩm phán thì năm
thẩm phán có trình độ từ lớp 2-3”. Đại biểu Đặng Thanh Hương cho biết thêm: “Có chánh án chỉ tốt nghiệp cấp I”. Chất
lượng xét xử, buộc tội thấp đến nỗi, thời gian
ấy, toà án tỉnh phải huỷ khoảng 10% án do toà huyện
xử; Toà tối cao huỷ 6,9% án của toà tỉnh. Cũng trong phiên họp ngày 5-12-1997, ông Vũ Đức Khiển, chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật cho
Quốc hội biết: Chỉ có 1/3 tổng số người bị bắt
trong mười tháng đầu năm 1997 là bắt theo lệnh có
phê chuẩn của Viện Kiểm sát, số còn lại chủ yếu bắt khẩn cấp, bắt quả tang; có
tới 18.197 người bị bắt nhưng rồi phải xử lý hành
chính, chiếm 30,26%. Tình trạng này vẫn chưa
được cải thiện nhiều trong thập niên kế tiếp(400).
“Bỏ
Điều 4 là tự sát”
Trong chế độ cộng sản, cho dù bộ máy nhà nước tổ chức theo lý
thuyết nào thì
quyền lực cũng chỉ tập trung vào một nơi: Đảng.
Ngày 10-9-1980, khi phát biểu trước phiên họp “xem xét bản dự thảo
hiến pháp”
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV, Tổng bí
thư Lê Duẩn nói: “Đảng cầm quyền phải biết sử
dụng Nhà nước, coi đó là một công cụ hùng mạnh và sắc bén để thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân và sự
lãnh đạo của Đảng trên quy mô toàn xã
hội”(401). Trong hai mệnh đề mà ông Lê Duẩn đề cập, nếu như quyền làm chủ thực sự của nhân dân là rất mông lung thì
sự lãnh đạo của Đảng quả thực là đã ngự trị
trên “quy mô toàn xã hội”.
“Công lao” của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu được ghi trong hiến
pháp từ
năm 1959(402). Lời nói đầu của Hiến pháp 1980 nói
thêm: “Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
cần có một bản hiến pháp thể chế hoá đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là hiến pháp
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong
phạm vi cả nước”. Điều 4, Hiến pháp 1980, ghi: “Đảng
Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác -
Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước,
lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Tuy không dịch nguyên văn, nhưng theo
ông Nguyễn Đình Lộc, Điều 4 Hiến pháp 1980 được mô
phỏng từ Điều 6 Hiến pháp 1977 của Liên Xô.
Ngày 12-12-1980, khi báo cáo trước Quốc hội, Chủ tịch Uỷ ban Dự
thảo hiến
pháp Trường Chinh giải thích về vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, theo ông: “Nhà nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản… Nhà nước chuyên chính vô sản chỉ có thể hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình dưới sự lãnh
đạo của Đảng của giai cấp công nhân”(403). Báo cáo của ông Trường Chinh nói tiếp: “Vai trò lãnh đạo của Đảng
được ghi nhận với tinh thần và lời văn trang
trọng như vậy là rất có ý nghĩa. Với Điều 4, Dự thảo Hiến pháp khẳng định công lao to lớn của Đảng ta…; thể hiện
tình cảm sâu đậm của nhân dân cả nước đối với
Đảng và đáp ứng yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo toàn
diện của Đảng trong tình hình mới”(404).
Trước đó, ngày 10-9-1980, Tổng bí thư Lê Duẩn định nghĩa: “Nhà
nước chuyên
chính vô sản là nơi biểu hiện tập trung sự lãnh đạo
của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động”(405). Trên thực tế, đây là một giai đoạn mà các hoạt động của Đảng là bao trùm. Suốt cả nhiệm kỳ, Quốc hội
khoá VII không ban hành bất cứ đạo luật nào
trừ Hiến pháp 1980. Đất nước chủ yếu vận hành theo các chỉ thị, nghị quyết của các cấp uỷ Đảng.
Tại Hội nghị Trung ương 25, khoá III, ông Lê Duẩn đưa ra mô hình
chính trị:
“Đảng và Nhà nước dính nhau làm một. Ở trung ương,
thủ tướng là của Nhà nước, đồng thời là của
Đảng, là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng cũng thế… Nhà nước làm là Đảng làm. Ví dụ, Đảng làm thuỷ lợi qua Bộ
trưởng Thuỷ lợi, qua Bộ Thuỷ lợi chứ không qua
một tổ chức khác”(406).
Trong thời gian “Đảng và Nhà nước dính nhau làm một”(1976-1986)
này, một
khối lượng lớn chỉ thị, nghị quyết đã được Đảng ban hành.
Các văn kiện Đảng đã trở thành những văn bản
có tính quy phạm, trực tiếp điều chỉnh mọi hành vi chính trị, văn hoá, giáo dục và xã hội. Thậm chí, giấy đăng ký
kết hôn giữa ông Võ Văn Kiệt và bà Phan Lương
Cầm lập năm 1984 cũng do Ban Tài chính Quản trị Trung ương cấp. Các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng trong giai đoạn
này gần như đều có một sự nghiệp chính trị
trọn đời: Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn đều từ trần khi đang tại chức. Vai trò của Đảng cũng như của các
nhà lãnh đạo trong hệ thống chính trị bắt đầu
được điều chỉnh dần kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986)(407).
Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo tại Hội nghị toàn quốc về hội đồng
nhân dân
vào tháng 2-1992 từng phát biểu: “Nhiều nơi, tổ chức
Đảng đã tự biến mình thành nhà nước, thậm chí
siêu nhà nước”(408). Luật pháp mà các công cụ nhà nước thông qua thường chỉ là “thể chế hoá đường lối, nghị quyết
của Đảng”.
Đặc biệt, Đảng nắm gần như tuyệt đối công tác cán bộ ở cả ba ngành
quyền lực.
Lá phiếu của người dân trong các kỳ bầu cử chỉ là xác
nhận những người được Đảng ghi tên trong danh
sách phiếu bầu. Đảng không chỉ kiểm soát Quốc hội thông qua con số hơn 90% đại biểu là đảng viên. Ngay cả
những đại biểu Quốc hội không phải đảng viên
cũng phải là người của Đảng. Quy trình giới thiệu, hiệp thương, cho đến lấy ý kiến cử tri nơi ở và nơi công tác đều
do các cấp uỷ Đảng chi phối, kể cả những ứng
cử viên gọi là “tự ứng cử”(409).
Ở cấp quốc gia, việc bỏ phiếu ở Quốc hội bầu các chức danh nhà
nước chỉ là vấn
đề thủ tục. Theo quy trình cán bộ của Đảng, Ban Chấp
hành Trung ương quyết định các chức danh chủ
tịch Quốc hội, chủ tịch nước, thủ tướng, chánh án Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Tối cao; Bộ Chính trị quyết
định các chức danh phó thủ tướng, phó chủ tịch
nước, phó chủ tịch Quốc hội, các Bộ trưởng; Ban Bí thư quyết định các chức vụ tương đương thứ trưởng. Bộ Chính
trị cũng đồng thời quyết định nhân sự cấp bí
thư, chủ tịch uỷ ban, chủ tịch hội đồng nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Cấp uỷ Đảng ở địa
phương cũng quyết định nhân sự theo quy trình
tương tự.
Dự thảo Hiến pháp 1992 chỉ thực sự được đưa ra thảo luận sau Đại
hội Đảng lần
thứ VII, tháng 6-1991. Đó là một thời điểm cả thế
giới lẫn trong nước đều có nhiều biến động.
“Kinh tế nhiều thành phần” mà Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận hồi năm 1986 buộc Đảng phải “đổi mới hệ thống chính
sách, pháp luật” thay vì tiếp tục chi phối mọi
mặt đời sống bằng các chỉ thị, nghị quyết như thời “quan liêu, bao cấp”. Nhưng kinh tế nhiều thành phần và sự
sụp đổ của các đảng cộng sản trên thế giới
cũng đặt Đảng Cộng sản Việt Nam trước mối lo về tính chính đáng trong vai trò tiếp tục nắm quyền lãnh đạo.
Tháng 5-1990, Yeltsin - người bị Gorbachev đưa ra khỏi Bộ Chính
trị trước đó
không lâu - được bầu giữ chức chủ tịch Xô viết Tối
cao nước Cộng hoà Liên bang Nga. Tháng 7-1990,
ông tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản. Tháng 6-1991, trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Cộng hoà Liên bang
Nga, Yeltsin trở thành tổng thống. Quyền lực
của nhà nước liên bang có nguy cơ tan rã khi vào tháng 8-1991, một hiệp ước liên bang mới trao chủ quyền cho các nước
cộng hoà bắt đầu được hình thành. Tình hình
tưởng có thể đảo ngược khi, ngày 19-8-1991, Phó
Tổng thống Liên Xô Yanaev làm đảo chính, bắt giữ Gorbachev và lập ra “Uỷ
ban Nhà nước về tình trạng khẩn cấp”.
Trong khi thế giới, nhất là phương Tây, đang tỏ ra lo lắng thì ở
Việt Nam, có thể
đọc thấy một sắc thái tình cảm khác thông qua lượng
thông tin về cuộc đảo chính tràn ngập mặt báo
ra ngày 20-9-1991. Tất cả các văn kiện của “Uỷ ban Nhà nước về tình trạng khẩn cấp” đều được báo chí nhà nước cho đăng
nguyên văn, báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân
còn gọi Yanaev là “đồng chí” thay vì dùng chức
danh “quyền tổng thống” như ngôn từ được phát đi từ chính những người đảo chính.
Nhưng niềm hân hoan này đã không đủ để kéo dài tới ngày hôm sau.
Từ vị trí
lãnh đạo Xô viết Tối cao Nga, Yeltsin trở thành người
hùng Liên Xô khi đứng trên tháp pháo xe tăng
đọc diễn văn kêu gọi dân chúng tuần hành chống lại những người đảo chính. Ngày 21-8-1991, những người đảo chính bỏ
chạy khỏi Moscow; một thành viên của “Uỷ ban
Khẩn cấp”, Bộ trưởng Nội vụ Liên Xô Boris Karlovic
tự sát. Gorbachev được đưa ra khỏi nơi “tạm giam” nhưng quyền lực của ông thì đã hết.
Tháng 11-1991, cựu Uỷ viên Bộ Chính trị Yeltsin ký lệnh cấm Đảng
Cộng sản
hoạt động trên lãnh thổ nước Nga. Ngày 8-12-1991, một
tuần sau khi Ukraina trưng cầu dân ý tuyên bố
độc lập với Liên Xô, Yeltsin gặp Tổng thống Ukraina và Tổng thống Belarus, cả ba đưa ra tuyên bố giải tán Liên
bang Xô viết, lập ra “Cộng đồng các quốc gia
độc lập”. Ngày 24-12-1991, Nga nắm lấy chiếc ghế của Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc. Hôm sau Gorbachev, vị tổng
thống không còn nhà nước, đành phải ra đi.
Trong khi đó, tại Việt Nam, trong bản dự thảo Hiến pháp mà Chủ
tịch Hội đồng
Nhà nước Võ Chí Công trình ra trước Quốc hội vào ngày
27-7-1991, Liên Xô và một số nước xã hội chủ
nghĩa vẫn được nhắc tên trong lời nói đầu. Ngày hôm sau, trong thảo luận tổ(410), nhiều đại biểu đề nghị nên cân
nhắc. Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp Trần Hồng Quân nói: “Một khi chính những nước
đó không còn muốn nhận họ là chủ nghĩa xã hội nữa thì ta không nên nhắc lại”.
Phát biểu ngay sau đó của các tướng lĩnh có mặt trong Quốc hội cho
thấy, ở Việt
Nam, chạm tới thành trì xã hội chủ nghĩa không phải
là một việc dễ dàng. Thượng tướng Nguyễn Minh
Châu yêu cầu giữ nguyên phần nói về Liên Xô, ông tuyên bố: “Chủ nghĩa xã hội vẫn còn và vẫn còn phát triển”. Một đại biểu
quân đội khác, Thiếu tướng Nguyễn Răng, cũng
phản bác các ý kiến đề nghị hiến pháp chỉ nên
đề cập đến “tư tưởng Hồ Chí Minh” thay vì bao gồm cả “Marx - Lenin”. Tướng Nguyễn Răng nói: “Đừng vì thế giới có lộn xộn mà
chúng ta thay đổi”.
Khi thảo luận ở tổ hay thảo luận trong phiên họp toàn thể trên Hội
trường Ba
Đình(411), gần như không có ai phát biểu mà không đề
cập đến “Điều 4 Hiến pháp” nhưng tất cả đều
chỉ góp ý về cách diễn đạt chứ không ai dám đề nghị xem xét lại vai trò của lãnh đạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam không phải đang “lãnh đạo nhân dân cầm
quyền”, như
Chủ tịch Lê Quang Đạo nói, mà đang trực tiếp cầm
quyền. Đó là lý do mà nhiều nhà lãnh đạo cao
cấp trong Đảng cho rằng “bỏ Điều 4 Hiến pháp là tự sát”(412). Nguyên lý tam quyền phân lập, cho dù được coi là lựa chọn
tốt nhất để tránh bộ máy nhà nước tha hoá, lạm
quyền, cũng không thể vận hành độc đảng.
Chú thích
(329) Phát biểu ngày 29-11-1991 của ông Đỗ Mười: “Trên cơ sở thống
nhất quyền lực, cần có sự phân công xác định rõ mối quan hệ giữa
ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cải
cách bộ máy nhà nước cũng như sửa đổi hiến pháp phải
đảm bảo tính thống nhất của quyền lực, khắc phục tình trạng lẫn lộn, chồng
chéo giữa ba quyền, làm suy yếu quyền lực tập trung
cũng như chức năng, quyền hạn của các bộ phận
được phân công theo Hiến pháp”. Năm 2001, khi Quốc hội sửa Hiến pháp 1992, đã bổ sung vào Điều 2: “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
(330) Hiến pháp 1992 thông qua sau khi Liên bang Xô viết tan rã,
sau khi hệ
thống xã hội chủ nghĩa hoàn toàn biến mất khỏi châu
Âu nơi mà nó sinh ra. Cho dù hồi tháng
11-1991, Hà Nội đã chính thức nối lại quan hệ với Bắc Kinh, nhưng mối quan hệ với nước cộng sản láng giềng này vẫn chưa thật
sự bình thường.
(331) Mô hình nhà nước trong Hiến pháp 1946 từng được Ban soạn
thảo Hiến
pháp 1992 dự kiến đưa vào nhưng rồi không được đưa ra
thảo luận.
(332) Điều thứ 49, Hiến pháp 1946 quy định chủ tịch nước có quyền
hạn “ban bố
các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị”, nhưng không
có điều nào nói rằng Hiến pháp 1946 phải được
ban bố mới có hiệu lực thi hành. Hiến pháp 1946 cũng do Quốc hội lập hiến thông qua chứ không phải là một đạo
luật của Nghị viện.
(333) Trước sức ép của Tiêu Văn, một viên tướng của Trung Hoa Dân
quốc, Hồ
Chí Minh phải dàn xếp với Việt Cách, cho đại diện của
Việt Cách có hai ghế cao cấp trong Chính phủ
Lâm thời. Ngày 27-9-1945, Hội đồng Chính phủ nhất trí để Nguyễn Hải Thần giữ chức phó chủ tịch Chính phủ.
(334) Điều thứ 70.
(33) 5 Ngày 3-9-1945, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
Lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu yêu cầu Việt Nam phải có hiến pháp.
Ngày 20-9-1945, ông ký Sắc lệnh 34, lập Uỷ ban Dự thảo Hiến pháp gồm 7 người.
Trừ ông “cố vấn” Vĩnh Thuỵ, những người còn lại đều
là Việt Minh (Hồ Chí Minh, Vĩnh Thuỵ, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiền, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu). Tháng
11-1945, bản dự thảo đầu tiên của hiến pháp
Việt Nam được “công bố lấy ý kiến của chính giới”. Ban soạn thảo Hiến pháp chính thức gồm 11 người (Trần Duy
Hưng, Tôn Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù Huy Cận,
Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ,
Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục Viên) do Quốc hội bầu ra trong kỳ họp đầu tiên (ngày 2-3-1946),
sau đó được bổ sung thêm 10 vị đại biểu từ các
nhóm, đại biểu trung lập, đại biểu Nam Bộ, đại biểu đồng bào dân tộc thiểu số. Ngày 9-11-1946, Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã
được thông qua với 240 phiếu trên tổng số 242 đại biểu có mặt trong phiên họp.
(336) Ông Nguyễn Đình Lộc (Bộ trưởng Tư pháp 1991-2001, từ năm
1980 là
Hiệu phó Trường Tư pháp), người trực tiếp tham gia
soạn thảo Hiến pháp 1980 và 1992, thừa nhận:
Hiến pháp 1959 được hình thành trên cơ sở tiếp thu Hiến pháp 1936 của Liên Xô, cách tiếp thu chủ yếu là dịch. Ông
Nguyễn Đình Lộc nói: “Ở thời điểm đó Việt Nam
chưa có nhiều người giỏi tiếng Nga. Chúng ta dịch Hiến pháp Liên xô chủ yếu qua tiếng Pháp và tiếng Trung. Mà
tiếng Trung quốc thì khác Việt Nam ở chỗ, tính
từ đứng trước danh từ. Phần về Quốc hội, nguyên văn
tiếng Nga là: Quốc hội là cơ quan cao nhất của quyền lực Nhà nước. Ta dịch
theo bản tiếng Trung thành: Quốc hội là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất”. Việc “tiếp thu” vội vã
tới mức, theo ông Nguyễn Đình Lộc: “Từ năm 1960, ta giải thể Bộ Tư pháp, trước đó Liên Xô cũng giải thể Bộ Tư pháp.
Nhưng ta đã không nghiên cứu kỹ vì sao Liên xô
giải thể. Nhà nước Liên Xô là liên bang, ở cấp liên bang, họ không có bộ tư pháp, nhưng các nước cộng hoà lại
có. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1936 của
Liên Xô cũng khác. Năm 1936, Chủ tịch Uỷ ban Soạn thảo Hiến pháp Liên xô, Staline, tuyên bố: Liên xô đã hoàn
thành xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong khi
hoàn cảnh nước ta năm 1959 là vừa thoát ra khỏi chiến tranh và vẫn đang rất nghèo nàn, lạc hậu”.
(337) Điều thứ 1, Hiến pháp 1946.
(338) Lời nói đầu, Hiến pháp 1959.
(339) Lời nói đầu, Hiến pháp 1959.
(340) Điều 7, Hiến pháp 1959.
(341) Điều 38, Hiến pháp 1959.
(342) Lời nói đầu Hiến pháp 1980.
(343) Lời nói đầu Hiến pháp 1980.
(344) “Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ
thuật, cách
mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học
- kỹ thuật là then chốt”.
(345) Quốc hội vẫn được Hiến pháp 1980 xác định là “cơ quan quyền
lực nhà
nước cao nhất” với bổ sung “là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân”. Nhiệm kỳ của Quốc hội tăng
từ bốn năm theo Hiến pháp 1959 lên năm năm. “Chủ tịch Nước” được thay bằng “Hội đồng Nhà nước”, một định chế vừa
làm chức năng của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
vừa là “Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”. Nguyên tắc “tập trung dân chủ” được áp dụng cho tất
cả các nhánh quyền lực, cơ quan hành pháp được định
nghĩa: “Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất”.
(346) Nghị quyết 06 Hội nghị lần thứ Sáu BCH Trung ương khoá VI.
(347) Chủ tịch Hội đồng Nhà Nước 1987-1992.
(348) Cuộc tuyển cử vào ngày 6-1-1946 được Trần Trọng Kim viết
trong Một
Cơn Gió Bụi: Khi ấy tôi đã về ở Hà Nội rồi, thấy cuộc
tuyển cử rất kỳ cục. Mỗi chỗ để bỏ phiếu, có
một người của Việt Minh trông coi, họ gọi hết cả đàn ông đàn bà đến bỏ phiếu, ai không biết chữ thì họ viết thay cho.
Việt Minh đưa ra những bản kê tên những người
họ đã định trước, rồi đọc những tên ấy lên và hỏi anh hay chị bầu cho ai. Người nào vô ý nói bầu cho một người nào
khác thì họ quát lên: “Sao không bầu cho những
người này, có phải phản đối không?”. Người kia sợ mất vía nói: “Anh bảo tôi bầu cho ai, tôi xin bầu người
ấy”. Cách cưỡng bách ra mặt như thế, lẽ dĩ
nhiên những người Việt Minh đưa ra được đến tám chín mươi phần trăm số người đi bầu. Ðó là một phương pháp rất mới và
rất rõ để cho mọi người được dùng quyền tự do
của mình lựa chọn lấy người xứng đáng ra thay mình
làm việc nước.
(349) Tại Hà Nội, trong số sáu đại biểu được bầu, bà Nguyễn Thị
Thục Viên tuy
khai không thuộc đảng phái nào nhưng việc ra ứng cử
của bà là do một cán bộ Việt Minh, giáo sư
Đặng Thai Mai, giới thiệu; ba người thuộc đảng dân chủ do Hồ Chí Minh lập nên; bác sỹ Trần Duy Hưng ứng cử công khai
là Việt Minh; Hồ Chí Minh ra ứng cử với danh
nghĩa đảng viên đảng Quốc gia.
(350) Hồi ký của Võ Nguyên Giáp mô tả: Nguyễn Hải Thần cho người
đi rải truyền đơn ở Hà Nội, dùng loa phóng thanh tuyên truyền Việt
Minh là độc tài và ngồi trên xe ô tô con, trên
nóc xe có hai lính gác nằm với khẩu trung liên, hai lính khác ngồi phía trước cầm tiểu liên đi thị uy trên đường phố
Hà Nội.
(351) Vũ Đình Hòe, Hồi Ký, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn 2004, trang
772.
(352) Vũ Đình Hòe, Hồi Ký, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn 2004, trang
773.
(353) Đại tá Trần Tấn Nghĩa, nguyên là đội trưởng Trinh sát đặc
biệt, người được
giao đánh vào số 7 Ôn Như Hầu, Trụ sở Quốc Dân Đảng ở
Hà Nội với mục tiêu đầu tiên là bắt sống đại
biểu Quốc hội Phan Kích Nam, kể: Tôi mang lệnh bắt Phan Kích Nam đến số 7 Ôn Như Hầu, một toà nhà có treo cờ
Quốc Dân Đảng. Ngoài cổng, lính gác chĩa súng
ra bảo, không ai được vào. Tôi đề nghị gặp Phan Kích
Nam. Một lúc sau Nam cùng hai vệ sỹ đi ra, nó ăn mặc như võ sỹ đạo, có hai thằng cầm súng đi theo bảo vệ. Nam hỏi: “Anh là ai? Đến
đây có việc gì?”. Tôi xưng là Nguyễn Bá Hùng,
đội trưởng Trinh sát đặc biệt. Nó cười đểu: “À ra thế. Nhưng, tôi là đại biểu Quốc hội, kiêm tư lệnh trưởng
Vùng VII. Anh có biết tiếng Pháp đối với đại
biểu Quốc hội là gì không? Là bất khả xâm phạm”. Tôi bí quá phải về. Nhưng, ông Lê Giản bảo: “Kế hoạch đã bàn tối
qua. Anh cứ đi bắt nó về đây”. Phải tới lần
thứ ba đến nhà Phan Kích Nam, tôi lập mưu, để lại súng bên ngoài, vào nhà giả vờ khen khẩu súng ngắn của Nam rồi
giựt lấy chĩa vào bụng, buộc Phan Kích Nam ra
lệnh cho cấp dưới buông súng mới bắt được vị tư lệnh
này đưa về Hoả Lò. Theo ông Nghĩa thì khi khám nhà số 7 Ôn Như Hầu, lực lượng của ông tìm được ông Đạm, một người mang tiền đến mua
nhà bị lực lượng của Phan Kích Nam bắt giữ lại
để đòi tiền chuộc. Ông Nghĩa nói là Công an
sau đó còn đào được trong vườn “mấy xác người bị thủ tiêu chôn dưới gốc chuối”. Hôm ấy là ngày 12-7-1946. Tối 12-7-1946, lực lượng
của ông Nghĩa đánh tiếp vào cơ sở thứ hai của
Quốc Dân Đảng, toà báo Việt Nam ở 80 Quán Thánh, Phan Khôi bị bắt. Theo ông Nghĩa: “Khi tôi làm đội trưởng Đội Trinh sát
Đặc biệt, tôi phải đi phá bốn, năm trụ sở của
bọn Quốc Dân Đảng”. Trước đó, cuối tháng
6-1946, các cơ sở Quốc Dân Ðảng tại Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ bị tập kích, bị bao vây. Những lãnh tụ Việt Quốc, Việt Cách được
Hồ Chí Minh mời tham gia Chính phủ trước đó
như: Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng Ngoại giao; Nguyễn
Hải Thần, phó chủ tịch Chính phủ; Vũ Hồng Khanh, phó chủ tịch Quân Uỷ hội… đều phải chạy sang Trung Quốc; Khái Hưng thì mất
tích. Một số nhà chính trị khác như Trương Tử
Anh, Đại Việt Quốc Dân đảng, Lý Đông A, Đại Việt
Duy Tân cũng đều mất tích. Một tuần sau khi từ Pháp trở về trên tuần dương
hạm Dunmont d’Urville, ngày 28-10-1946, Hồ Chí Minh
triệu tập họp Quốc hội: 444 đại biểu được bầu
và được chỉ định hồi tháng Giêng giờ ấy chỉ còn 291 vị; bảy mươi đại biểu mà Hồ Chí Minh chấp thuận cho Việt Quốc,
Việt Cách cử tham gia, khi ấy chỉ còn ba mươi
bảy người. Đến ngày 8-11-1946, khi bỏ phiếu thông
qua Hiến pháp, thì Quốc hội chỉ còn 242 đại biểu; ba mươi lăm trong số ba
mươi bảy đại biểu Việt Quốc, Việt Cách có mặt trong
cuộc họp ngày 28-10 biến mất.
(354) Trong giai đoạn này, chỉ có Luật Ðảm bảo quyền tự do thân
thể và quyền
bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của
nhân dân - được Quốc hội thông qua ngày
20-5-1957 nhằm hạn chế sự lộng hành của những người cầm quyền vốn là nông dân đi kháng chiến trở về - là tương đối
có ý nghĩa. Hàng loạt đạo luật được ban hành
trong năm 1957, về danh nghĩa là luật hoá những quyền tự do của công dân, nhưng kết quả là định ra những thủ tục
khiến cho công dân không thể nào thực thi
những quyền đó. Luật Quy định quyền lập hội, ngày 20-5-1957; Luật Quy định quyền tự do hội họp, ngày
20-5-1957; Luật về Chế độ báo chí, ngày
20-5-1957. Quốc hội còn thông qua bảy luật khác trong thời kỳ tiền Hiến pháp 1959, trong đó có Luật Cấm chỉ mọi hành động đầu
cơ về kinh tế, ngày 14-9-1957, đánh dấu thời
kỳ bắt đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội.
(355) Trong Quốc hội Khoá II, bầu ngày 8-5-1960, chín mươi mốt đại
biểu miền
Nam của khoá I vẫn còn được lưu nhiệm. Đến khoá III
(1964-1971) vẫn còn tám mươi chín đại biểu
miền Nam. Đến khoá IV (1971-1975) thì không còn đại biểu lưu nhiệm, Quốc hội khoá IV có thể coi là Quốc hội miền
Bắc. Quốc hội khoá V được bầu ngày 6-4-1975,
chỉ ba tuần trước khi “Quân Giải phóng” chiếm được Sài Gòn. Một năm sau, Tổng tuyển cử đã được tổ chức vào
ngày 25-4-1976 bầu ra 492 đại biểu. Kỳ họp thứ
nhất của Quốc hội khoá này, diễn ra từ ngày 24-6 đến 3-7-1976, đã quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà thành nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam; đổi tên Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố
Hồ Chí Minh; tự công nhận mình là Quốc hội khoá VI.
(356) Có thể thấy rõ vai trò trình diễn sự ủng hộ “của dân” với
Đảng thông qua
các khẩu hiệu chính trị mà Quốc hội đưa ra trong các
thời kỳ. Trong thập niên 1960, khi “đất nước
thực hiện cả hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam đẩy mạnh cuộc
đấu tranh giải phóng”, Quốc hội khoá III đưa
ra khẩu hiệu chính trị: “Tất cả cho tiền tuyến - Tất cả để thắng giặc Mỹ xâm lược”. Khẩu hiệu này được giữ
nguyên trong nhiệm kỳ thứ IV, khi miền Bắc
vẫn: “Tiếp tục động viên quân và dân kiên trì bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; động viên sức người, sức
của cho tiền tuyến lớn đánh thắng đế quốc Mỹ
xâm lược và bè lũ tay sai ở miền Nam”.
(357) Quốc hội khoá II chỉ sửa đổi bổ sung Luật Luật Nghĩa vụ quân
sự, tháng
11-1962, sau khi “cách mạng miền Nam” bắt đầu phát
triển theo con đường dùng bạo lực trong khi
đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua chín pháp lệnh. Quốc hội khoá III chỉ sửa đổi, bổ sung Luật Nghĩa vụ Quân
sự, 25-4-1965. Công tác lập pháp có ý nghĩa
“quy phạm” nhất trong khoá III là “Pháp lệnh Quy định cấm nấu rượu trái phép” do Uỷ ban Thường vụ ban hành tháng
10-1966. Cho dù 3/4 thời gian hoạt động trong
thời bình, trong khoá IV cũng chỉ có một pháp lệnh được Uỷ ban Thường vụ thông qua: Pháp lệnh Quy định việc
bảo vệ rừng, ngày 11-9-1972. Ngoài bốn pháp
lệnh không mấy ý nghĩa, công việc của Quốc hội khoá
VI là thông qua Hiến pháp 1980 còn Quốc hội khoá VII thì thông qua Bộ luật Hình sự theo tinh thần thực thi “chuyên chính vô sản”
được nhấn mạnh sau Đại hội lần thứ IV của
Đảng.
(358) Trong số 362 đại biểu được bầu của Quốc hội khoá II, có:
Công nhân: 50;
Nông dân: 47; Cán bộ chính trị: 129; Quân đội: 20;
Ðảng viên: 298; Ngoài Ðảng: 64; Dân tộc thiểu
số: 56; Phụ nữ: 49; Thanh niên (20, 30 tuổi): 42; Phụ lão: (trên 60 tuổi): 19; Cán bộ kinh tế, khoa học - kĩ thuật: 66; Anh
hùng lao động và chiến đấu: 19; Cán bộ ở Trung
ương: 110; Cán bộ ở địa phương: 252. Cho đến khoá VIII, thành phần đại biểu vẫn được cơ cấu theo mô hình
tương tự: 91 công nhân; 105 nông dân, 49 quân
nhân và 123 “trí thức xã hội chủ nghĩa”.
(359) Ông Nguyễn Hữu Thọ gia nhập Đảng cộng sản Đông dương từ năm
1948; bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam năm 1954; được “Cách
mạng” giải cứu đưa ra Chiến khu từ năm 1961
sau đó được bố trí giữ chức Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam; được cơ cấu làm Phó Chủ tịch nước
Việt Nam thống nhất. Tháng 4-1980, sau khi Chủ
tịch nước Tôn Đức Thắng qua đời, theo Hiến pháp,
ông Thọ trở thành Quyền Chủ tịch nước.
(360) Nữ luật sư Ngô Bá Thành, tên thật là Phạm Thị Thanh Vân,
sinh 1931 tại
làng Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Cha bà, ông
Phạm Văn Huyến, là bác sĩ thú y đầu tiên của
Việt Nam. Năm hai mươi sáu tuổi, sau khi bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ Luật tại Pháp, bà được đích thân Tổng Thư
ký Liên Hiệp Quốc, ông Dag Hammarskjöld, mời
làm việc cho ban luật quốc tế nhưng đã từ chối để nhận một công việc khác tại Việt Nam. Bà từng nổi tiếng với
tư cách là chủ tịch Hội Phụ nữ đòi quyền sống.
Trước khi Sài Gòn sụp đổ, bà là phó chủ tịch Hạ viện Sài Gòn. Cũng như Giáo sư Lý Chánh Trung, một dân biểu Sài
Gòn khác, bà Ngô Bá Thành được đưa vào Quốc hội
từ khoá VI, cho dù trong suốt hơn một thập niên
đó họ gần như không có được tiếng nói đáng kể nào. Năm 1987, Quốc hội có
thêm một đại biểu miền Nam từng giữ chức phó thủ
tướng trong chế độ Sài Gòn, ông Nguyễn Xuân
Oánh.
(361) Một đại biểu Quốc hội cùng khoá, ông Lê Văn Triết kể: “Khi
Quốc hội
khoá VIII bắt đầu bàn nhân sự, trong danh sách giới
thiệu các chức danh của Quốc hội không có tên
Ngô Bá Thành. Khi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đến tham gia thảo luận tổ với Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh, bà
Thành bật khóc. Ông Linh ngồi xuống động viên
và đến ngày hôm sau, bà Ngô Bá Thành được đề cử vào
chức danh chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Quốc hội”.
(362) 1921-1999.
(363) Ông Vũ Mão vốn là một kỹ sư thuỷ lợi, được điều về Quảng
Ninh làm đội
trưởng rồi Phó ty Thuỷ Lợi năm 1971 khi đang là cán
bộ giảng dạy trường Đại học Thuỷ lợi Hà Nội.
Năm 1979, từ Trưởng ty Thuỷ Lợi ông được đưa đi làm Bí thư Tiên Yên, một “pháo đài huyện” ở tuyến đầu chống Trung
Quốc. Năm 1980 ông được Bí thư Tỉnh uỷ Quảng
Ninh lúc bấy giờ là Nguyễn Đức Tâm đưa sang làm
Bí thư Tỉnh Đoàn rồi mấy tháng sau, được đưa lên làm Bí thư Trung ương Đoàn. Ông Vũ Mão được đưa vào Trung ương năm 1982.
(364) Quyền “thừa kế quyền sử dụng đất” ghi trong Điều 18 của Hiến
pháp đã
từng phải biểu quyết hai lần. Năm 1992, Quốc hội đã
từng biểu quyết không quá bán việc chia Hải
Hưng thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Năm 1996, Quốc hội cũng từng biểu quyết không phê chuẩn chức Bộ
trưởng Giao thông cho ông Đào Đình Bình mặc dù
việc bổ nhiệm đã được Ban chấp hành Trung ương quyết
định.
(365) Văn phòng Quốc hội lúc ấy chỉ có hơn sáu mươi cán bộ, tiền
bạc mất giá,
bổng lộc không có, gương mặt nào nhìn cũng xanh xao.
Đa số lãnh đạo Quốc hội đều kiêm nhiệm một
công việc khác. Trừ chủ tịch, tổng thư ký, chủ nhiệm Văn phòng có tiêu chuẩn xe Volga, Văn phòng Quốc hội chỉ có một
chiếc xe cũ đưa từ miền Nam ra, không có phụ
tùng thay thế, xịt lốp, nằm bất động dưới gốc cây. Thỉnh thoảng, lễ tết, một đại biểu miền Nam, bà Ba Thi,
giám đốc Công ty Lương thực Thành phố, có gửi
ra cho mấy tấn gạo, nhưng ông Nguyễn Việt Dũng bắt nhập kho vì theo ông: “Mọi người đã có chế độ, chính sách”.
(366) Năm 1981, sau khi tốt nghiệp sư phạm ngoại ngữ tiếng Anh ở
Liên Xô ông
Nguyễn Sỹ Dũng được đưa về Bộ Ngoại thương. Do có
thành tích cao trong khi học ở bậc đại học,
cũng trong năm 1981, ông được đưa trở lại Liên xô làm nghiên cứu sinh phó tiến sỹ về giáo dục. Trong thời gian này ông
gặp ông Vũ Mão. Năm 1985, từ Liên xô, ông
Nguyễn Sỹ Dũng được ông Vũ Mão đưa về Trung ương Đoàn để rồi năm 1987, cùng ông Vũ Mão về Văn phòng Quốc hội và Hội đồng
Nhà nước. Năm 1990, Chính phủ Úc đưa bốn mươi cán bộ
Việt Nam sang Úc học tiếng Anh, ông Nguyễn Sỹ
Dũng được cử làm trưởng đoàn cán bộ đi học này. Theo
ông Dũng: “Cho dù có mười năm học ở Liên xô với thành tích học tập chưa bao giờ bị điểm 4/5 nhưng toàn bộ kiến thức về khoa học
chính trị mà tôi học được là thông qua các bài
học tiếng Anh và bắt đầu từ lớp học này, để thấy nhà nước tư bản hoàn toàn không phải như những gì mà nhà trường
Liên Xô chỉ trích. Cũng tại đây, tôi bắt đầu
tiếp xúc với những nhà Việt Nam học như Davis Marr, Carl Thayer”.
(367) Kể từ năm 1993, ông Nguyễn Sỹ Dũng được giao trực tiếp làm
Giám đốc
các Dự án này. Năm 2006, khi ông Nguyễn Phú Trọng
sang làm Chủ tịch Quốc hội, ông Dũng, Phó Chủ
nhiệm Văn phòng Quốc hội mới không còn phụ trách Trung tâm bồi dưỡng đại biểu và công tác hợp tác quốc tế.
(368) Từ năm 2004, Văn phòng Quốc hội đã lập ra Trung tâm bồi
dưỡng đại biểu
dân cử để tiếp tục truyền bá những kiến thức này cho
các thế hệ đại biểu mới cả của Quốc hội và của
cả các cơ quan dân cử.
(369) Khi Quốc hội chất vấn về vụ án công dân Lê Thị Nga bị bắt vì
bị vu oan
chiếm đoạt 200.000 đồng, Chánh án Toà án Nhân dân Tối
cao Trịnh Hồng Dương chống chế: “Do các cơ
quan chưa làm rõ được tội chứ chưa chắc Lê Thị Nga đã vô tội”; Chủ tịch Nông Đức Mạnh đã cho rằng: “Anh không thể
nói vậy, không ai bị coi là có tội khi không
có chứng cứ, khi không có một bản án có hiệu lực của toà án cả”.
(370) Chỉ có Uỷ ban Thường vụ Quốc hội mới tự mình quyết định việc
bỏ phiếu
tín nhiệm. Ngay cả Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của
Quốc hội hoặc của ít nhất 20% tổng số đại
biểu, nếu có kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm ai, thì vẫn phải chờ Uỷ ban Thường vụ xem xét, quyết định.
(371) Ngày 26-12-1990, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Nguyễn Hữu
Thọ, khi
tiếp xúc cử tri tại Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, đã
nói: “Do Quốc hội ta chưa phải là Quốc hội
chuyên nghiệp nên trong nhiều vấn đề nóng bỏng chưa tìm được giải pháp, chỉ mới dừng lại ở phản ánh tình hình” (Tuổi
Trẻ 27-12-1990).
(372) Quốc hội khoá I cũng có vài đại biểu hoạt động chuyên
nghiệp, hay thường
gọi là đại biểu chuyên trách, như Nguyễn Văn Tố, Bùi
Bằng Đoàn. Từ khoá II, các ông Trường Chinh,
Tôn Đức Thắng cũng được coi như là những người làm Quốc hội chuyên trách. Ngay cả các uỷ viên Thường vụ Quốc
hội của các nhiệm kỳ từ khoá VIII trở về trước
cũng không chuyên trách, trừ chủ tịch Quốc hội, chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
(373) Chỉ có hai mươi hai đại biểu, tức là 5,56%, được Quốc hội bố
trí làm việc
theo chế độ chuyên trách ở Quốc hội khoá IX, họ gồm
những người giữ chức danh: chủ tịch, phó chủ
tịch Quốc hội; chủ tịch và một phó chủ tịch Hội đồng Dân tộc; chủ nhiệm các uỷ ban và mỗi uỷ ban có thêm một phó chủ
tịch làm chuyên trách. Chỉ có một đại biểu
chuyên trách không có chức vụ, là thành viên một uỷ ban của Quốc hội. Quốc hội khoá IX kết thúc nhiệm kỳ vào
tháng 9-1997 trong khi Đại hội Đảng VIII diễn
ra vào tháng 6-1996, có mười lăm đại biểu Quốc hội không còn được Đảng tái cơ cấu, đồng thời không còn được
tiếp tục giữ các chức vụ trong bộ máy quyền
lực tại địa phương. Họ chỉ còn một cửa để về là Đoàn đại biểu Quốc hội ở tỉnh. Số đại biểu chuyên trách của Quốc hội
khoá IX vì thế lên tới ba mươi bảy người trong
năm cuối cùng của nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ X, số đại biểu
được bố trí làm việc chuyên trách tăng lên ba mươi mốt do số quan chức ở
các uỷ ban Quốc hội tăng lên, trước chỉ có một phó
chủ nhiệm, khoá X tăng lên hai phó chủ nhiệm
và một uỷ viên chuyên trách.
Năm 1998, số đại biểu chuyên trách của Quốc hội khoá X tăng thêm
một do có
một cán bộ mặt trận ở một địa phương đến tuổi nghỉ
hưu. Cuối năm 2000, sau Đại hội Đảng cấp địa
phương, và Đại hội Đảng toàn quốc năm 2001, mười ba đại biểu Quốc hội là cấp uỷ viên không được tái cơ cấu, lui về,
khiến cho số đại biểu chuyên trách tăng lên
con số bốn mươi lăm người.
(374) Ngày 7-3-2002, trước khi bầu cử Quốc hội khoá mới, Uỷ ban
Thường vụ có
công văn hướng dẫn các địa phương về tiêu chuẩn, điều
kiện để chọn người làm đại biểu chuyên trách ở
địa phương là những người trong độ tuổi, cao nhất đối với nữ, không quá 52, với nam không quá 56, đang giữ chức
thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ, phó chủ tịch hội
đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân, hoặc đang giữ các chức vụ tương đương giám đốc sở, trưởng ban hội đồng nhân dân. Từ
đầu khoá XI, ở mỗi địa phương đều có một vị
đại biểu chuyên trách làm phó đoàn đại biểu Quốc hội, kể cả bốn vị được cơ cấu nhưng vẫn ráng làm thêm chức phó
chủ tịch hội đồng nhân dân tỉnh cho hết nhiệm
kỳ. Ở cấp Trung ương, số đại biểu chuyên trách ở các uỷ ban tăng từ bốn lên chín, gồm bốn vị làm phó chủ nhiệm và bốn vị
làm uỷ viên chuyên trách.
(375) Ngày 1-11-2010, Giáo Sư Nguyễn Minh Thuyết đã yêu cầu Quốc
hội thành
lập uỷ ban lâm thời điều tra về sự sụp đổ của
Vinashin đẫn đến sự thua lỗ lên đến hơn một
trăm nghìn tỷ đồng. Ðại biểu Nguyễn Minh Thuyết nói trước phiên họp được truyền hình trực tiếp: “Căn cứ Hiến pháp và Luật Tổ
chức Quốc hội, tôi trân trọng đề nghị Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội biểu quyết để Quốc hội lập uỷ ban lâm thời điều tra trách nhiệm các thành viên chính phủ khi để
xảy ra sai phạm ở Vinashin. Cuối kỳ họp Quốc
hội sẽ bỏ phiếu tín nhiệm thủ tướng và các thành viên chính phủ liên quan. Ðể tạo điều kiện cho công tác của uỷ ban lâm
thời, tôi cũng đề nghị Quốc hội tạm đình chỉ
chức vụ các vị có liên quan”.
(376) Ngày 12-11-2010, Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội gửi công văn trả
lời ông
Thuyết nói rằng “chưa cần thiết trình Quốc hội việc
thành lập uỷ bản lâm thời”.
(377) Sau Đại hội Đảng lần thứ V, Hội đồng Bộ trưởng có tới mười
hai vị phó chủ
tịch. Trong năm đầu của khoá VIII, Hội đồng Bộ trưởng
vẫn còn chín phó chủ tịch, đến tháng 5-1988,
vài ngày trước khi Đỗ Mười trở thành chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các phó: Nguyễn Ngọc Trừu, Phan Minh Tánh, Đoàn
Duy Thành ra đi, sáu phó chủ tịch còn lại ở
nguyên vị trí cho tới sau Đại hội Đảng lần thứ VII.
(378) Huy Đức, Một giờ với Tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn
Kiệt, Tuổi
Trẻ
13-8-1991.
(379) Cho tới đầu thập niên 1990, các chủ tịch uỷ ban nhân dân
quận, huyện vẫn
đi ký hợp đồng kinh tế, đi bảo lãnh vay ngân hàng,
chỉ đạo ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho
vay. Trước tháng 9-1987, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương cấp tỉnh khác vẫn có tới 42 sở và cơ quan ngang
sở, 290 phòng ban thuộc sở, 378 phòng ban
thuộc quận huyện. Tới tháng 6-1991, Thành phố giảm được 12 sở và cơ quan ngang sở, 98 phòng ban thuộc sở và
141 phòng ban thuộc quận, huyện.
(380) Huy Đức, Một giờ với Tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn
Kiệt, Tuổi
Trẻ
13-8-1991.
(381) Chủ tịch tỉnh Đồng Tháp Nguyễn Thanh Phong nói: “Quốc hội
cũng tập
thể, Hội đồng Nhà nước cũng thập thể, rồi Hội đồng Bộ
trưởng cũng tập thể nốt. Đông, vướng mắc nhiều
nên không nhạy bén được”. Theo Đại biểu Nguyễn Minh Khoát, Lạng Sơn: “Chúng ta đã trả giá đắt vì trong một thời
gian dài, cả cơ quan lập pháp và hành pháp đều
không được tập trung đúng mức”.
(382) Tháng 10-1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã trình ra Quốc hội
phương án
giảm bớt năm bộ và cơ quan ngang bộ, theo đó: Lập bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn bằng cách
nhập ba bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thuỷ Lợi; Lập bộ Công nghiệp từ ba bộ Công nghiệp nặng, Công nghiệp nhẹ,
Năng lượng; Lập Bộ Kế hoạch - Đầu tư từ việc
nhập Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư.
(383) Trong các năm 1991-1994, biên chế giảm được 31.000 người, để
rồi trong
các năm 1995-1998, số biên chế lại tăng trở lại
113.000 người. Đến cuối năm 1998, tổng số
người hưởng lương và phụ cấp là 2,5 triệu người, trong đó, biên chế của bộ máy nhà nước là 1,3 triệu.
(384) Đầu năm 1956, sau khi Việt Nam bị chia thành hai miền, ở
miền Nam,
Chính quyền Ngô Đình Diệm lập thêm các tỉnh Tam Cần,
Mộc Hoá, Phong Thạnh, Cà Mau. Đến tháng
10-1956, ở Nam Bộ có hai mươi hai tỉnh và Đô thành Sài Gòn, đưa số địa phương thuộc Việt Nam Cộng hoà lên tới
ba mươi lăm tỉnh. Ngày 19-5-1958, tỉnh Đồng
Nai Thượng được tách thành hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên
Đức. Ngày 23-1-1959, lập thêm hai tỉnh Quảng Đức và Phước Thành. Ngày 21-1-1961, lập tỉnh Chương Thiện. Năm 1962, lập thêm
hai tỉnh Quảng Tín và Phú Bổn. Năm 1963, lập
thêm hai tỉnh Hậu Nghĩa và Gò Công. Năm 1964, lập hai tỉnh Châu Đốc và Bạc Liêu. Năm 1965, bỏ hai tỉnh Côn
Sơn và Phước Thành. Năm 1966, lập tỉnh Sa Đéc.
Từ đó cho đến năm 1975, Việt Nam Cộng hoà có bốn mươi bốn tỉnh và Đô thành Sài Gòn.
(385) Người Nghệ phát âm dấu nặng thay cho dấu ngã, chữ “giữ” phát
âm thành
“dự”, Vinh là thành phố thuộc Nghệ An, khi nhập tỉnh được
đầu tư xây dựng những khu nhà khang trang
trong khi thị xã Hà Tĩnh thì hoang vu cỏ mọc. Nói “Vinh dự”, không có nghĩa là “vinh dự” mà là “có chi Vinh
giữ hết”.
(386) Năm 2008, Hà Tây và một phần của ba tỉnh khác được nhập vào
Hà Nội.
Tiến trình này diễn ra khá bất thường. Ngay từ đầu,
nhiều người đã công khai lên tiếng phản đối
việc sáp nhập Hà Tây vào Thủ đô. Ngày 5-5-2008, đúng ngày Quốc hội họp, ông Võ Văn Kiệt cho công bố trên báo Tuổi
Trẻ một bài viết mà ông chuẩn bị từ ngày
30-4-2008, phản đối quyết liệt ý định này. Ông Võ Văn Kiệt viết: “Thăng Long - Hà Nội với nghìn năm lịch sử phong phú;
hào hùng, với văn hoá được tích luỹ nhiều đời,
không phải thủ đô nào trên thế giới cũng có được. Hà Nội không nhất thiết phải lựa chọn mô hình đầu tàu kinh
tế, việc mà nhiều địa phương có nhiều thuận
lợi và có khả năng làm tốt hơn Hà Nội nhiều”. Ông cho rằng: “Mô hình đô thị cực lớn với động lực công nghiệp là
một mô hình đô thị đã cũ, nhiều sai lầm mà
phương Tây đang phải từ bỏ. Chính những thành phố có hàm lượng văn hoá cao, có đời sống đô thị giàu tính nhân
văn, có thiên nhiên trong lành, có nhịp sống
hợp lý, làm giàu bằng kinh tế tri thức mới là mô hình mà các nước đi trước chúng ta đang tìm kiếm”. Ông đề nghị Quốc
hội nghiên cứu: “Một mô hình đô thị không cần
nhiều đất đai mà cần nhiều hơn những giá trị đạo đức, nhân văn, nhân tài và chất xám. Đấy mới chính là ‘hướng nhìn - tầm
nhìn’ của nghìn năm Thăng Long và của thời
đại”. Quan điểm của ông Võ Văn Kiệt cũng là
suy nghĩ của nhiều người lúc bấy giờ. Kết quả thăm dò trong Quốc hội cho thấy: chỉ có 226 đại biểu đồng ý, ngang với số không
đồng ý, 226 đại biểu.
Do số đại biểu Quốc hội muốn mở rộng Hà Nội chỉ chiếm tỉ lệ 45%
(trên tổng số
đại biểu) nên Quốc hội đã phải hoãn lịch bỏ phiếu
thông qua nghị quyết đã được xếp vào ngày
23-5-2008. Nhưng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã hết sức kiên quyết để dự án sáp nhập thủ đô thành hiện thực. Sau khi
“quán triệt” nhiều lần ở Đảng - Đoàn Quốc hội,
ngày 29-5-2008, Thủ tướng lên Hội trường tha thiết đề nghị: “Nếu việc mở rộng địa giới hành chính Hà Nội để chậm
lại thì các dự án này hoặc sẽ phải chờ đợi
tiếp, hoặc nếu cho phép tiếp tục triển khai theo thẩm quyền của địa phương thì có thể sẽ không phù hợp với định
hướng quy hoạch phát triển Thủ đô trong tương
lai, sau này phải điều chỉnh lại sẽ gây lãng phí lớn cho xã hội”. Ngay trong chiều hôm ấy, tỉ lệ biểu quyết mở
rộng Hà Nội lên tới 458/475, chỉ có bốn đại
biểu Quốc hội bỏ phiếu chống. Đầu cơ đất đai diễn ra sôi động phía sau những quyết định này: Con số các dự án mua
đất ở vùng Hà Tây cũ không dừng lại ở mức 300
như ông Dũng nói trước Quốc hội. Từ khi Quốc hội biểu quyết cho đến ngày 1-8-2008, ngày Quyết định mở rộng Hà Nội có hiệu
lực, con số dự án được duyệt lên tới 772 với
diện tích đất được duyệt là 75.695ha; trong
khi tổng diện tích đất của toàn Hà Nội mở rộng cũng chỉ có 145.770ha, bao
gồm cả Hà Nội và các thành phố cũ. Ngay khu vực bốn
xã Hoà Bình cũ, dù chưa có quy hoạch chung
nhưng vẫn có mười ba dự án.
(387) Hồ Chí Minh khi đó đã từng phát biểu: “Cách mạng Pháp đã tạo
kiểu tam
quyền phân lập nhưng qua hàng trăm năm thực hiện thấy
cũng không hay lắm. Cơ quan đại diện cho toàn
dân ở ta sẽ nắm toàn quyền, cả ba quyền trong tay. Ta không cóp của ai cả mà chỉ xuất phát từ yêu cầu tự nhiên về
dân quyền của toàn dân ta, vả lại ta đã bắt
đầu có chút kinh nghiệm của Ta trong việc xây dựng chính quyền nhân dân ở các căn cứ địa giải phóng. Cũng không cần
chế độ hai Viện nói là để hai Viện kiềm chế
lẫn nhau. Ta sẽ có cách kiềm chế sự lộng quyền hoặc kém sáng suốt của cơ quan đại diện bằng sự giám sát của cử tri,
dựa trên quyền bãi miễn và quyền phủ quyết.
Đặc biệt là ta có kinh nghiệm độc đáo mà chế độ Nhà nước tập quyền Xô viết không có, không thể có. Đó mặt trận
dân tộc thống nhất, chỗ dựa của Nhà nước đồng
thời là cơ quan giám sát thường trực đối với Nhà nước, một cơ quan giám sát có tổ chức cực kỳ rộng rãi của cử tri” (Vũ
Đình Hòe, Hồi Ký, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn
2004, trang 998).
(388) Các toạ thượng thẩm là nhưng toà án Pháp: Thượng thẩm viên
Hà Nội, với
quyền quản hạt bao gồm Ai-lao, Bắc Kỳ và miền bắc
Trung Kỳ cho đến đèo Hải Vân; Thượng thẩm viên
Sài gòn với quyền quản hạt bao gồm miền Nam Trung Kỳ, Nam Kỳ và Cao-miên. Một kháng tố viên cho tất cả xứ
Đông Dương đặt tại Sài gòn. Ngoài ra còn có
những “hành chánh pháp viên” để xử các vụ hành chánh.
Tham chính viên của Pháp (conseil d’ Etat) là nơi có thẩm quyền tối cao để xét về các vi phạm hành chánh gây ra bởi chính phủ thuộc
địa, Đại thẩm viên ở Paris (Cours de
Cassation) giữ quyền tài phán tối cao. “Trong thực tế, người Pháp kiểm tra tổ chức tư pháp và sự tham gia của người Việt
trong lãnh vực tư pháp là rất ít ỏi”.
(389) Điều thứ 64
(390) Điều 69.
(391) Lê Văn Hiến, Nhật ký của một Bộ trưởng, Nhà Xuất bản Đà Nẵng
1995, ghi ngày 9-9-1948, trang 417.
(392) Hồi ký Vũ Đình Hòe, Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn 2004, trang
847.
(393) Giữa năm 1948, Đặc uỷ đoàn Chính phủ, do ông Bộ trưởng Hoàng
Minh Giám và cụ Linh mục Phạm Bá Trực dẫn đầu đi thanh tra khu
III. Tới tỉnh Thái Bình thì được Uỷ ban Kháng
chiến Hành chính tỉnh này đề nghị ân xá cho 19 phạm
nhân. Đặc uỷ đoàn đồng ý và ký quyết định ân xá. Giám đốc tư pháp khu III phản đối vì không được hỏi ý kiến như luật lệ đã quy
định và vì có những người trong số được tha là
“những tên đảng viên cường hào đã ức hiếp nhân dân nên bị toà kết án tội, nay thả ra, chúng sẽ báo thù những
người đã tố cáo chúng, còn dân thì có thể thắc
mắc” (Hồi ký Vũ Đình Hòe, Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn 2004, trang 842). Giám đốc Tư pháp báo cáo lên Bộ và được
Bộ trưởng Vũ Đình Hòe đồng tình. Uỷ ban Kháng
chiến cũng báo cáo lên văn phòng Chủ tịch phủ, phê
phán sự phản đối của Giám đốc Tư pháp. Hồ Chí Minh, tuy cũng cho rằng, Đặc khu uỷ nên thu hồi lệnh ấy, nhưng trong thư gửi “Chú
Hòe”, Hồ Chí Minh đã chủ yếu phê phán và yêu
cầu Bộ “sửa đổi cách làm việc” của Giám đốc Tư pháp: “Về vấn đề tha cho 19 phạm nhân, thái độ của Giám đốc Tư
pháp Khu III có chỗ không đúng: vì sao Giám
đốc không trình bày ý kiến với Đặc uỷ đoàn? Trong tờ trình lên Bộ, Giám đốc lại dùng những lời quá đáng… Bộ nên
ra chỉ thị cho Giám đốc Tư pháp Khu III sửa
đổi cách làm việc. Chào thân ái và quyết thắng/ 10-1948- Hồ Chí Minh” (Sách đã
dẫn, trang 843). Bộ Tư pháp đã “khiển trách nghiêm khắc” Giám đốc Vũ Văn Huyền theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.
Ông Vũ Văn Huyền coi là bị ức hiếp đã vào vùng
của Pháp.
(394) Sắc lệnh số 97/SL, “Sửa đổi một số quy lệ và chế định trong
dân luật”, Hồ
Chí Minh ký ngày 22-5-1950.
(395) Sau cuộc họp này, Luật sư Phan Anh ghi nhật ký: “Nghề luật
sư vẫn được
duy trì. Vẫn để anh Nguyễn Mạnh Tường, anh Đỗ Xuân
Sảng, anh Nguyễn Văn Hưởng làm việc bào chữa…
Bác quyết định vẫn giữ tổ chức luật sư. Nói chung, Đoàn Luật sư chưa bao giờ bị giải tán. Nhưng nó không phát
triển vì hoạt động bị hạn chế. Thay vào đoàn
Luật sư, có những đoàn gọi là bào chữa viên (nhân dân) chất lượng tuỳ tiện” (Hồi ký Vũ Đình Hòe, Nhà Xuất bản Văn
Học 2004, trang 904-905).
(396) Năm 1960, Bộ Tư pháp giải thể, ông Vũ Đình Hòe chuyển về
Viện Luật
học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, làm chuyên
viên nghiên cứu luật pháp và về hưu năm 1975.
(397) Hồi ký Vũ Đình Hòe, Nhà Xuất bản Văn Học 2004, trang
901-902.
(398) Theo báo Nhân Dân: “Hội đồng xét xử muốn xét xử
nghiêm minh nhưng
lại vấp phải những tác động từ cấp uỷ, chính quyền
địa phương, từ cá nhân người lợi dụng chức
quyền… Không thể vượt qua được, họ đành xử hữu khuynh, né tránh, xử không đúng pháp luật để được yên thân. Có không
ít vụ án đã được xét xử ở một chỗ khác, còn
lại, phiên toà công khai, thẩm phán chỉ đưa bản án có sẵn trong túi ra tuyên, bất chấp thực tế khách quan đã được
chứng minh tại phiên toà. Thực tế cũng cho
thấy, một số thẩm phán đã không chịu sự tác động bên ngoài, giữ thái độ độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì chính họ
sau đó lại phải gánh chịu những hậu quả tai
hại, bị bãi miễn thẩm phán, bị chuyển công tác khác, bị cấp này, ông kia chiếu tướng” (Vũ Thế Lân, Về những vụ án
chưa được xử nghiêm, Nhân Dân số ra ngày
18-3-1992).
(399) Ngày 29-11-1991, trong Hội nghị Trung ương “cho ý kiến về
Hiến pháp”
Tổng bí thư Đỗ Mười phát biểu: “Đối với hoạt động của
ngành kiểm sát và toà án, các cấp uỷ định kỳ
nghe báo cáo tình hình và nêu ý kiến về phương hướng chỉ đạo, bảo đảm thực hiện đúng pháp luật và các quy định của
Nhà nước, không can thiệp trực tiếp, nhất là
vào công tác xét xử; không quyết định tội danh và các mức án. Khi xét xử, toà án phải theo đúng pháp luật và chỉ tuân
theo pháp luật. Đối với những vụ án có ảnh
hưởng chính trị rộng, có liên quan đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại hoặc liên quan đến những cán bộ thuộc diện cấp uỷ
quản lý, cấp uỷ cần tham gia ý kiến về quan
điểm xét xử, làm cơ sở cho việc xét xử, quyết định của cơ quan kiểm sát và toà án. Cần kiên quyết khắc phục tình
trạng một số đồng chí trong cấp uỷ can thiệp
vào công tác xét xử, thậm chí thô bạo đến mức quyết định cả các bản án, mức án. Phải ngăn chặn tệ bao che, ô dù, và
nhiều tiêu cực khác, làm suy giảm hiệu lực của
pháp luật, gây bất bình trong nhân dân”.
(400) Ngày 27-11-2006, Quốc hội đã giật mình khi Chánh án Toà án
Nhân dân
Tối cao Nguyễn Văn Hiện cho biết: Cho tới năm 2005,
hệ thống toà án của cả nước thiếu 1.116 thẩm
phán, do đó toà án đã phải “vơ vét”, bổ nhiệm thêm các thẩm phán chưa đạt yêu cầu. Cũng theo ông Hiện, trong năm
2005, có hơn 9000 bản án đã bị cải, sửa. Chất
lượng hoạt động tư pháp yếu kém không chỉ ở bên toà.
(401) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 1980, trang 16.
(402) Con đường giành độc lập được Hiến pháp 1946 trình bày giản
dị: “Cuộc
cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất
nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ
cộng hoà. Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng
thời đã gạt bỏ chế độ vua quan”. Trong khi
Hiến pháp 1959 cho rằng: “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng lao động
Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một
giai đoạn mới. Cuộc đấu tranh bền bỉ đầy gian khổ
và hy sinh dũng cảm của nhân dân ta chống ách thống trị của đế quốc và phong kiến đã giành được thắng lợi vĩ đại: Cách mạng tháng
Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
thành lập, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
tuyên bố nước Việt Nam độc lập trước quốc dân và toàn thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Việt Nam đã xây dựng một nước
Việt Nam độc lập và dân chủ”. Hiến pháp 1980
thêm “Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện”; bổ sung “chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ năm 1954” và “Chiến thắng đế quốc Mỹ năm 1975”; bổ sung “Cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động
Cam-pu-chia ở biên giới Tây Nam và chống bọn
bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc”.
(403) Trường Chinh, Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp trước Quốc hội
ngày 12-12-1980, bản in ngày 9-12-1980, trang 18.
(404) Trường Chinh, tài liệu đã dẫn, trang 19.
(405) Lê Duẩn, Hiến Pháp mới, Hiến pháp của chế độ làm chủ tập thể
xã hội chủ
nghĩa, Nhà Xuất bản Sự Thật 1980, trang 16.
(406) Nguyên văn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 25, khoá III,
của ông Lê
Duẩn: “Đảng và Nhà nước dính nhau làm một. Ở Trung
ương, Thủ tướng là của Nhà nước, đồng thời là
của Đảng, là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng cũng thế… Nhà nước làm là Đảng làm. Ví dụ, Đảng làm thuỷ lợi qua Bộ
trưởng Thuỷ lợi, qua Bộ Thuỷ lợi chứ không qua
một tổ chức khác. Làm thuỷ lợi cũng là nhà nước làm.
Làm theo đường lối của Đảng, song không có song trùng, chỉ có một bộ máy
làm thuỷ lợi: là Bộ Thuỷ lợi. Bộ Thuỷ lợi cũng là Nhà
nước, đồng thời cũng là của Đảng. Cũng như
trong Quân đội. Tổng tư lệnh là của Đảng và của quân đội. Làm ra 8 tấn thóc/hecta là Nhà nước và Đảng. Đảng giao Nhà
nước làm. Đảng không tổ chức cơ cấu khác để
làm nữa, Thủ tướng là Đảng và Nhà nước. Nhưng Đảng
phải có tổ chức riêng của mình để xây dựng mình; nên ngoài nhiệm vụ chính trị Đảng giao cho Nhà nước làm, Đảng còn có nhiệm vụ
xây dựng Đảng mà Đảng phải tự làm bằng các tổ
chức của Đảng. Về thực hiện nhiệm vụ chính trị của
Đảng thì Đảng sử dụng bộ máy Nhà nước, do đó nhiệm vụ chính trị của Đảng
và của Nhà nước chỉ là một, và bộ máy quản lý kinh tế
của Nhà nước cũng là bộ máy quản lý kinh tế
của Đảng” (Văn Kiện Đảng Toàn tập, tập 37, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2004, tr 405).
(407) Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh đã
không còn để cho Trưởng ban Tổ chức Trung ương Nguyễn
Đức Tâm có nhiều quyền như thời Lê Duẩn dung
túng Lê Đức Thọ. Trong Bộ Chính trị, trong Trung ương và trong từng cấp uỷ bắt đầu định kỳ phải sinh hoạt kiểm điểm, các
uỷ viên tự nhận xét và đánh giá ưu khuyết của
nhau. Trong khoá VII (1991-1996), Tổng bí thư
Đỗ Mười đưa ra sáng kiến thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Cán bộ đảng viên phải sinh hoạt tại nơi làm việc và nơi cư ngụ. Trước
khi đề bạt phải lấy phiếu tín nhiệm ở cơ sở.
Đến khoá VIII (1996-2001), Bộ Chính trị quy định, mỗi cán bộ không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ; đưa ra giới hạn
tuổi: lần đầu tham gia Ban Chấp hành Trung
ương không quá 55; lần đầu tham gia Bộ Chính trị không quá 60; tuổi về hưu của uỷ viên Bộ Chính trị là 65; của bốn
cương vị chủ chốt, Tổng bí thư, chủ tịch nước,
thủ tướng, chủ tịch Quốc hội, không quá 67. Tại Hội nghị Trung ương 4, khoá X, các cơ quan trung ương được sắp
xếp lại, chỉ còn sáu ban Đảng: Văn phòng; Ban
Tổ chức; Ban Tuyên Giáo; Uỷ ban Kiểm tra; Ban Dân vận; Ban Đối ngoại. Một số ban được tổ chức các nhiệm kỳ
trước đó như: Ban Kinh tế; Ban Bảo vệ Đảng;
Ban Nội chính đã bị giải tán (Hội nghị Trung ương 5, khoá XII, quyết định lập lại Ban Nội chính sau chuyển chức
năng chỉ đạo chống tham nhũng từ Chính phủ về
bên Đảng và sau đó lập thêm Ban Kinh tế).
(408) Tuổi Trẻ 13-2-1992.
(409) Trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 2007, có 238 người tự ứng cử
nhưng chỉ
có 30 người lọt vào vòng trong. Năm 2011, chỉ có tám
mươi ba người tự ứng cử ở hai mươi hai tỉnh,
thành, và quy trình “sàng lọc” của Mặt trận Tổ quốc cũng chỉ để cho mười lăm người lọt vào danh sách ứng cử viên chính
thức. Quy trình bầu cử này được dân gian gọi
là “Đảng cử, dân bầu”.
(410) Gồm một hoặc hai, ba đoàn đại biểu Quốc hội.
(411) Ngày 1-8-1991.
(412) Ngày 27-8-2007, khi tới thăm Tổng cục chính trị của Quân
đội, Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết cho rằng, bỏ Điều 4 là “tự
sát”. Bộ Công an từng treo một Pano trước trụ
sở ghi khẩu hiệu: “Chỉ biết còn Đảng, còn mình”.
Nguồn:
Vnthuquan thư viện Oline
Người
đăng: mọt sách
Thời
gian: 21/01/2013 5:01:12 SA
No comments:
Post a Comment