BÊN THẮNG CUỘC - HUY
ĐỨC
QUYỂN II - QUYỀN
BÍNH
Phần
III
: Dấu
ấn Nguyễn Văn Linh
Chương
15: Tướng Giáp
Mối quan hệ giữa Lê
Duẩn cùng những người thân cận của ông với Tướng Giáp. Sự thật vụ án “Năm Châu
- Sáu Sứ”; Vai trò thực sự của Võ Nguyên Giáp trong cuộc chiến tranh 1955-1975;
Sự kiện Vịnh Bắc bộ và vụ án “chống đảng” năm 1967 (Vụ án “Năm Châu - Sáu Sứ”/ “Cách mạng miền Nam”/ Sự
kiện Vịnh Bắc Bộ/ Mậu Thân và tham vọng của Lê Đức Thọ/ “Nghị quyết 21”/ Chiến
dịch Hồ Chí Minh/ “Thống chế đi đặt vòng”)
--------------------------------------------------
Mưu
lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ,
năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, tướng
Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước
những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ
động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi
thanh gươm trận của ông.
Vụ
Án “Năm Châu - Sáu Sứ”
Trước
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Trung ương
chỉ định về ứng cử đại biểu đi dự Đại hội tại Đảng bộ Nghệ Tĩnh. Cuối tháng
4-1991, ông vào Vinh dự họp với Đoàn đại biểu Tỉnh. Tới nơi thì đã quá trưa.
Đợi vị tướng già cơm nước xong, Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh Nguyễn Bá mới trao tận
tay bức điện “khẩn tuyệt mật” của Ban Bí thư do ông Nguyễn Thanh Bình ký. Không
được phép họp với Đoàn, tướng Giáp bị yêu cầu phải trở ra Hà Nội ngay trong
chiều hôm đó.
Năm
ấy tướng Giáp đã 80 tuổi. Đoạn đường Vinh - Hà Nội tuy chỉ hơn 300km nhưng bụi
bặm và dằn xóc. Tướng Giáp trở về phòng, viết mấy dòng cáo lỗi gửi Đoàn đại
biểu Nghệ Tĩnh rồi lại lên xe về Hà Nội, nơi ông sẽ phải ra trước Hội nghị
Trung ương 12, đối diện với những cáo buộc chính trị mà về sau được gọi là vụ
“Năm Châu - Sáu Sứ”.
Tại
Hội nghị Trung ương 12, Khoá VI, ông Nguyễn Đức Tâm, Trưởng Ban Tổ chức, thay
mặt Bộ Chính trị báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương một văn bản tuyệt mật nói
rằng: Một vụ bè phái vi phạm nguyên tắc Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân
sự cấp cao đang diễn ra. Những người tham gia bao gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Văn
Trà, cùng một số cán bộ cao cấp khác.
Thứ
trưởng Bộ Nội vụ phụ trách an ninh, Trung tướng Võ Viết Thanh, nhớ lại: “Nghe
ông Tâm nói, có cảm giác như đang có một âm mưu đảo chính để đưa Đại tướng Võ
Nguyên Giáp lên làm chủ tịch nước sau đó thay ông Linh làm Tổng bí thư; đưa
Trần Văn Trà lên làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Thời gian trước Hội nghị Trung
ương 12, ông Trà bị triệu tập ra Hà Nội và bị giữ lại ở Nhà khách số 8 Chu Văn
An. Văn bản tuyệt mật này được phổ biến tới thường vụ các tỉnh, thành, bằng
cách cho đọc nguyên văn nhưng bị cấm sao chép”.
Tướng
Đồng Sỹ Nguyên, uỷ viên Bộ Chính trị Khoá VI, nói: “Lật đổ là một câu chuyện
bịa đặt. Ông Giáp không chỉ là một đại tướng mà xứng đáng là một nguyên soái.
Một người không chỉ coi trọng sinh mạng binh sỹ mà còn đặt danh dự của tổ quốc
lên trên. Ông là một người thận trọng. Nhân vụ Sáu Sứ, họ còn lật lại hồ sơ vụ
‘chống Đảng năm 1967’, đưa ra tài liệu cũ của Lê Đức Thọ, đây cũng là một vụ án
được dựng lên”. Ông Võ Viết Thanh kể thêm:
“Tại
hai Hội nghị 12 và 13 của Ban Chấp hành Trung ương, nhiều vị tướng trong Quân
đội hết sức bức xúc, đứng lên phát biểu bảo vệ tướng Giáp. Cụ Võ Nguyên Giáp
cay đắng: Đến một vị tướng đã đánh thắng Điện Biên Phủ mà người ta vẫn vu cho
là con nuôi của mật thám Pháp”.
Gần
tới ngày Đại hội, một hôm vào khoảng 9 giờ đêm, Bộ trưởng Nội vụ Mai Chí Thọ
triệu tập một cuộc họp kín gồm có các thứ trưởng: Cao Đăng Chiếm, Phạm Tâm
Long, Bùi Thiện Ngộ, Võ Viết Thanh. Ông Mai Chí Thọ nói: “Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh giao nhiệm vụ cho Bộ Công an làm rõ sai phạm của anh Giáp và anh Trà
để xử lý cả về mặt Đảng và Nhà nước. Bộ chỉ đạo anh Võ Viết Thanh đảm nhiệm
việc này”. Cả bốn vị thứ trưởng nghe đều phân vân, lo lắng. Ông Võ Viết Thanh
nói: “Đề nghị Bộ trưởng trình bày lại với Tổng bí thư đây là những người có
công với nước, nếu có sai thì Uỷ ban Kiểm tra Trung ương xác minh làm rõ còn
khi đã chuyển công an thì phải có dấu hiệu phạm tội”. Mai Chí Thọ dứt khoát:
“Chúng ta phải thực hiện chỉ đạo của Tổng bí thư”.
Ông
Võ Viết Thanh nói tiếp: “Nếu phải điều tra, tôi đề nghị nên giao cho anh Cao
Đăng Chiếm hoặc anh Bùi Thiện Ngộ vì hai anh có kinh nghiệm trong ngành hơn
tôi. Tôi không từ chối nhưng tôi biết bản báo cáo của đồng chí Nguyễn Đức Tâm
lấy nguồn tin từ một số người không tốt trong Cục II, Bộ Quốc phòng. Tôi cũng
biết người đẩy ra vụ này là Đoàn Khuê. Cá nhân tôi với Cục trưởng Quân báo Tư
Văn và Cục phó Vũ Chính có ý kiến khác nhau trong một số việc như: lợi dụng nghiệp
vụ đi buôn lậu; tổ chức cài đặc tình vào nội bộ… Bây giờ nếu tôi làm vụ này nữa
thì rất căng với Cục II”. Mai Chí Thọ gắt: “Ông phụ trách an ninh, không làm
thì ai làm”. Võ Viết Thành đành phải: “Tôi xin chấp hành”.
Ông
Võ Viết Thanh kể: “Tôi bay vào Sài Gòn. Anh em an ninh đã có đủ tư liệu, vấn đề
là tình hình nội bộ rất căng vì có tác động từ cấp cao. Nhiều người khuyên tôi
khi điều tra không nên làm khác báo cáo của Nguyễn Đức Tâm. Người gần gũi nhất
là Thiếu tướng Trần Văn Danh cũng nói là có người khuyên như vậy. Ông Danh gọi
tôi tới, tôi hỏi: ‘Lời khuyên này xuất phát từ đâu anh Ba?’. Ba Trần, tên thường gọi của tướng Trần Văn Danh, nói: ‘Ở
cấp rất cao’. Tôi nói: ‘Tôi đề nghị anh Ba trả lời họ, tôi đang được giao một
công việc mà tôi không thể nào làm trái đạo đức và pháp luật’. Ba Trần nghe bắt
tay, không ngờ anh chỉ hỏi thế để thăm dò nhưng anh là người ủng hộ tôi làm
đúng”.
Ông
Võ Viết Thanh kể tiếp: “Ngày 14-5-1991, tôi ra lệnh bắt khẩn cấp Nguyễn Thị Sứ.
Anh em thi hành không bắt tại nhà vì sợ động mà bắt bí mật, đưa về 258 Nguyễn
Trãi. Vừa vào trại, Sáu Sứ hỏi: ‘Các anh ở phía nào?’. Anh em dằn mặt: ‘Chị
không được phép hỏi như thế, chúng tôi là cơ quan an ninh, yêu cầu chị nói
hết’. Sáu Sứ trả lời: “ Tôi là người Cục
II, yêu cầu được nói chuyện điện thoại với Tư Văn, Vũ Chính’. Anh em An ninh
nói: ‘Chị là người phạm pháp, chị không được phép gặp ai cả’. Trong một ngày
Sáu Sứ khai hết(172)”.
Không
hề có một tổ chức nào do cụ Giáp đứng đầu như báo cáo của Nguyễn Đức Tâm đề
cập. Theo ông Võ Viết Thanh, Sáu Sứ khai bà được Vũ Chính cấp tiền, cấp xe và
đi gặp vị tướng nào, nói gì là đều theo chỉ đạo của Cục II. Thông qua một người
tên là Năm Châu, từng công tác chung với ông Thanh Quảng, nguyên là thư ký của
tướng Giáp, Sáu Sứ được đưa tới nhà Võ Nguyên Giáp cùng một số cựu chiến binh.
Hôm Sáu Sứ đến, cụ Giáp đang ăn, nghe có đoàn Cựu chiến binh, cụ dừng bữa cơm
để tiếp. Sáu Sứ mang theo một giỏ trái cây vào tặng rồi xin cụ Giáp cùng chụp
ảnh với Đoàn. Toàn bộ cuộc gặp chỉ có vậy nhưng Sáu Sứ báo cáo: “Cụ Giáp đã
đồng ý với kế hoạch”. Rồi theo ông Võ Viết Thanh: “Băng ghi âm cuộc nói chuyện
của Sáu Sứ ở nhà tướng Giáp nghe không rõ nhưng Cục II vẫn xào nấu thành một
bản báo cáo, theo đó: Đang có một vụ đảo chính, một vụ bè phái trong Đảng hòng
chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao trước Đại hội VII do tướng Võ Nguyên
Giáp, Trần Văn Trà cùng một số cán bộ cao cấp khác tiến hành. Bản báo cáo này
trở thành cơ sở để Trưởng Ban Tổ chức Nguyễn Đức Tâm báo cáo trước Hội nghị
Trung ương 12 về tướng Giáp”.
Theo
Đại tá Nguyễn Văn Huyên, Chánh Văn phòng tướng Giáp, từ Hội nghị Trung ương 12
về nhà nghỉ trưa, tướng Giáp hỏi: “Cậu có nhớ ai tên là Năm Châu từng ở Nam Bộ
ra đây gặp mình không?”. Ông Huyên nhắc lại sự việc xong, tướng Giáp ăn cơm rồi
đi ngủ. Đến cận giờ họp buổi chiều, ông Huyên vào phòng thấy tướng Giáp vẫn
ngáy khò khò, ông Huyên hỏi: “Việc đang thế này mà anh cũng ngủ được à?”. Tướng
Giáp cười: “Cây ngay không sợ chết đứng”.
Trong
khi đó, ngay sau khi Sáu Sứ bị bắt vào ngày 15-5-1991, theo ông Võ Viết Thanh:
Cục II rúng động, Cục trưởng Tư Văn đổ bệnh. Trong ngày ông Võ Viết Thanh cầm
bản cung của Sáu Sứ bay ra Hà Nội, 17-5-1991, tướng Lê Đức Anh viết một bức thư
cực ngắn: “Kính gửi: Bộ Chính trị. Tôi xin không ứng cử vào Quốc hội khoá IX.
Xin cám ơn Bộ Chính trị. Kính! Lê Đức Anh”. Do căng thẳng, tướng Lê Đức Anh
ngay sau đó bị đột quỵ. Bác sỹ Vũ Bằng Đình, người trực tiếp cấp cứu, nói: “Ông
Lê Đức Anh bị xuất huyết dạ dày, huyết áp tụt xuống bằng 0, hồng cầu chỉ còn
một triệu. May mà cấp cứu kịp”.
Theo
ông Võ Viết Thanh: “Ra Hà Nội, tôi làm báo cáo đưa ông Mai Chí Thọ đề nghị Bộ
trưởng ký. Ông Mai Chí Thọ nói: ‘Cậu ký luôn, gửi và trực tiếp báo cáo anh
Linh’. Ngay chiều hôm đó, Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà xếp lịch gặp Tổng
bí thư. Nghe tôi báo cáo xong, ông Linh không nói gì. Nhưng, sáng hôm sau thì
nhận được ‘điện mật’ của Văn phòng yêu cầu các nơi ngưng phổ biến và gửi trả
văn bản do Nguyễn Đức Tâm ký về Văn phòng Trung ương. Sau đó, Trung ương không
có một lời nào nói lại với tướng Giáp, còn tướng Trần Văn Trà thì vẫn bị giữ
lại ở số 8 Chu Văn An”. Theo ông Võ Viết Thanh: “Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã
không đưa kết luận về vụ Sáu Sứ ra báo cáo trước Hội nghị Trung ương và ngay cả
các uỷ viên Bộ Chính trị cũng không mấy ai biết”. Thái độ của Tổng bí thư như
một tín hiệu để ngay lập tức ông Võ Viết Thanh nhận được đòn “đánh dưới thắt
lưng” của Cục II.
Theo
ông Võ Viết Thanh, ngày 23-6-1991, khi đại biểu đã được triệu tập về Hà Nội:
“Trước phiên họp cuối cùng của Hội nghị trù bị, Hồng Hà, Chánh Văn phòng Trung
ương đưa tôi miếng giấy, ghi: ‘Đề nghị đồng chí Võ Viết Thanh đến giờ giải lao
ra gặp Bộ Chính trị và Ban Bí thư có việc riêng’. Tôi tới phòng làm việc của
Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết,
Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức
Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí
hai nội dung. Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị:
Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng
rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một,
ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng
và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta
trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí
ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương khoá VII”.
Ông
Võ Viết Thanh nói: “Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì
tôi không còn kiềm chế được (173). Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn,
tôi đã định kéo khoá, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình
hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận”(174).
Cho dù giữ mình để bảo vệ Đại hội, tương lai chính trị của ông Thanh đã coi như
khép lại. Ông Võ Viết Thanh nói: “Nếu tôi cứ nghe lời khuyên, kết luận giống
như bản báo cáo của Nguyễn Đức Tâm, thì tôi sẽ được thăng chức, đề bạt nhưng
rồi tôi lại phải dấn vào bước thứ hai là ra lệnh bắt oan tướng Trà và tướng
Giáp. Làm thế, thì lương tâm sẽ giết dần, giết mòn tôi”(175).
Năm
ấy, tướng Giáp vừa tròn 80 tuổi(176). Ông không nằm trong bất cứ cơ cấu nhân sự
nào, vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”, nếu thành, chỉ có thể hạ bệ uy tín của ông trong
Đảng. Khi Võ Nguyên Giáp đã là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, Lê Đức Anh chỉ
mới là một cán bộ ở cấp tiểu đoàn. Sự mặc cảm trước uy danh của tướng Giáp chỉ
có thể được tích tụ thông qua hai người đã cất nhắc Lê Đức Anh: Lê Duẩn và, đặc
biệt là, Lê Đức Thọ.
“Cách mạng miền Nam”
Mối
quan hệ giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp thoạt đầu được mô tả là khá thân thiện.
Tướng Giáp kể: “Lúc mới ra Bắc, anh Lê Duẩn thường tâm sự với tôi những khó
khăn trong công việc. Anh đã nhiều lần nói với tôi, năm 1940 nhờ có chị Thái
nên anh thoát khỏi án tử hình”(177).
Câu
chuyện về “chị Thái” mà ông Lê Duẩn đề cập trên đây xảy ra năm 1940, trong
phiên toà xử những người lãnh đạo “Nam Kỳ khởi nghĩa”, ông Lê Duẩn và Nguyễn
Thị Minh Khai đứng đối diện trong song sắt trước toà. Minh Khai viết một bức
thư nhỏ, gấp lại rồi ném cho Lê Duẩn, chẳng may thư rơi xuống gần người lính
canh ngục. Nguyễn Thị Quang Thái đứng gần đó, nhanh chóng nhặt và nuốt ngay lá
thư(178).
Khi
phân công trong Đảng, Hồ Chí Minh nói: “Việc quân sự giao cho chú Giáp”. Cụ Hồ
cũng đã từng cử Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc học quân sự. Nhưng trên đường
đi, Chiến tranh Thế giới II đưa người Pháp ở chính quốc vào thế thua, Hồ Chí
Minh thấy thời cơ tới nên gọi ông trở lại. Tướng Giáp vì thế chưa từng qua bất
cứ một trường lớp nhà binh nào. Có lẽ, tư duy quân sự của ông hình thành trong
những năm dạy sử.
Ngày
22-12-1944, tại Việt Bắc, Võ Nguyên Giáp
đứng ra thành lập Đội Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam với ba mươi bốn
chiến sỹ trong đó có ba nữ (179). Ngay sau khi thành lập, Đội Tuyên truyền Giải
phóng quân đã đánh thắng hai trận ở Nà Ngần và Phai Khắt, thuộc tỉnh Cao Bằng.
Khi Nhật đảo chính Pháp, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã mở rộng hoạt
động quân sự từ Cao Bằng tới Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15-5-1945, tại Chợ
Chu, Thái Nguyên, lực lượng này đã hợp nhất với Cứu Quốc quân, lập ra Việt Nam
Giải phóng quân. Mãi tới tháng 5-1940, Võ Nguyên Giáp mới sang Trung Quốc gặp
Hồ Chí Minh và tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương trong khi
năm
1939 Lê Duẩn đã được bổ sung vào Thường vụ Trung ương Đảng. Tuy nhiên, trong
thời gian Lê Duẩn gần như mờ nhạt ở miền Nam thì Võ Nguyên Giáp đã “lừng lẫy
Điện Biên, chấn động địa cầu”. Theo ông Hoàng Tùng: “Khi mới từ miền Nam ra, cả
Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đều không thấy thoải mái khi ngồi cùng tướng Giáp”. Cho
dù lịch sử gắn bó giữa Lê Đức Thọ và Lê Duẩn bắt đầu bằng một cuộc đụng
độ(180). Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, Lê Đức Thọ đã đóng một vai trò quan trọng
trong quy trình cán bộ đưa Lê Duẩn đạt đến đỉnh cao quyền lực (181).
Về
phía mình, ông Giáp cũng đã rất giữ gìn, đặc biệt, với ông Lê Duẩn. Năm 1956,
Trung ương Đảng thừa nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất, Trường Chinh xin từ
chức, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là chủ tịch Đảng kiêm thêm chức vụ Tổng bí thư.
Theo Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, lúc đó đang là trợ lý về Đảng của Hồ Chí Minh:
“Tháng 7-1956, tôi đề nghị Bộ Chính trị cử anh Ba làm phó Tổng bí thư để dễ làm
việc, nhưng anh đã từ chối và nói, nên chờ đại hội quyết định. Tại hội nghị Bộ
Chính trị bàn việc chuẩn bị đại hội, khi được đề nghị làm trưởng ban chuẩn bị
Báo cáo Chính trị, anh cũng từ chối và nói, ‘đã mười năm không ở miền Bắc, chủ
trì chuẩn bị báo cáo e khó khăn, vì vậy đề nghị hai đồng chí Trường Chinh và Võ
Nguyên Giáp tham gia’. Cuối cùng Bộ Chính trị đề nghị Bác làm trưởng ban, anh
Ba làm phó”(182).
Ông
Hoàng Tùng, khi đó là chánh Văn phòng Trung ương Đảng, kể: “Trong khoảng từ
tháng 10-1956 đến tháng 7-1957, tôi được phân công giúp ông Giáp chủ trì hội
nghị sửa sai. Khi Bác kiêm Tổng bí thư thay Trường Chinh, uỷ viên Thường trực
Bộ Chính trị Võ Nguyên Giáp được cử giúp Bác giải quyết các công việc thường
vụ”. Thời gian ấy, theo ông Hoàng Tùng, không khí sinh hoạt trong Bộ Chính trị
diễn ra khá tế nhị, người cố gắng che giấu ý muốn được Hồ Chí Minh chọn trao
chức Tổng bí thư, hoạt động khá rốt ráo cho tham vọng ấy. Ông Hoàng Tùng kể:
“Lê Đức Thọ gặp không ít đàn em gợi ý thẳng, ‘giờ đến lượt tao’. Những năm
1945, 1946, thế Lê Đức Thọ lớn lắm, chỉ sau Hồ Chí Minh, Trường Chinh. Bác cử
Lê Đức Thọ vào Nam cũng có ý không để hai ‘con hổ’ Trường Chinh, Lê Đức Thọ gần
nhau. Nhưng khi Bác lấy phiếu thăm dò, không ai đề cử Lê Đức Thọ cả. Trong bốn
ứng cử viên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn cao
phiếu hơn hẳn”. Nhưng, đấy là những gì diễn ra trong năm 1960 tại Đại hội III
của Đảng Lao động Việt Nam, sau khi “đường lối cách mạng miền Nam” ngã ngũ.
Ngày
6-7-195, hai tuần trước hạn thống nhất hai miền Nam Bắc theo Hiệp định Geneva,
Hồ Chí Minh có thư “gửi đồng bào cả nước”, chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của
chúng ta là kiên quyết tiếp tục đấu tranh thi hành Hiệp định Geneva, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà
bình”(183). Ngày 9-7-1956, trong một cuộc mít tinh tổ chức tại Hà Nội, tướng
Giáp có bài phát biểu dài diễn giải tinh thần bức thư ngày 6-7-1956 của Hồ Chí
Minh (184), cho rằng: “Chủ trương của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng
phương pháp hoà bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và
thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng
hoàn thành bằng phương pháp hoà bình”(185).
Cũng
trong thư đề ngày 6-7-1956, Hồ Chí Minh còn đưa ra sáng kiến: “Lập lại quan hệ
bình thường và quyền tự do đi lại giữa hai miền, tạo điều kiện cho các đoàn thể
chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội ở miền Bắc và miền Nam được liên lạc với
nhau. Mở hội nghị hiệp thương gồm đại biểu của hai miền để bàn về vấn đề tổng
tuyển cử tự do nhằm thống nhất nước nhà trên cơ sở Hiệp nghị Geneva”(186).
Đây
không chỉ là quan điểm của tướng Giáp hay của Hồ Chí Minh mà là sách lược hoà
hoãn của phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô nhằm giải quyết các vấn đề
nội bộ sau khi Khrushchev thay thế Stalin chết ba năm trước đó(187). Thời gian
đó, khi soạn Đề Cương Cách Mạng Miền Nam ở Sài Gòn, Lê Duẩn cũng cho
rằng: “Đường lối tranh đấu của chúng ta cũng không thể ra ngoài đường lối hoà
bình được. Chính đường lối tranh đấu hoà bình ấy mới tạo được lực lượng chính
trị mạnh mẽ để chiến thắng âm mưu gây chiến và chính sách tàn bạo của
Mỹ-Diệm”(187). Theo ông, thì hoà bình chính là “nguyện vọng thiết tha của nhân
dân miền Nam”(189).
Trong
khi tướng Giáp phân tích: “Chúng ta phải nhớ rằng: thế giới ngày nay chiến
tranh có khả năng tránh khỏi nhưng nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại vì chủ nghĩa
đế quốc vẫn tồn tại… đế quốc Mỹ đã vào miền Nam cho nên nguy cơ chiến tranh vẫn
tồn tại ngay trên đất nước ta”(190). Thì quan điểm của ông Lê Duẩn vẫn là:
“Việc thống nhất nước Việt Nam ta bằng
phương pháp hoà bình có thể thực hiện được… Không có lý do gì mà gây chiến
tranh… Nhân dân cả hai miền chống lại âm mưu chia xẻ và gây chiến của Mỹ-Diệm,
đi đến hiệp thương, thương lượng giữa hai miền để hoà bình, thống nhất đất
nước”(191).
Tháng
8-1955, Hội nghị Trung ương 8 khẳng định: “Kẻ thù cụ thể trước mắt của chúng ta
hiện nay là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”. Hội nghị nhấn mạnh: “Muốn thống nhất
nước nhà điều cốt yếu là phải ra sức bảo vệ miền Bắc đồng thời giữ vững và đẩy
mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam”. Tháng 6-1956, Bộ Chính trị cũng đã
họp và ra nghị quyết xác định nhiệm vụ cách mạng miền Nam là chống đế quốc Mỹ
với phương châm: “Đấu tranh chính trị không có nghĩa là không dùng hình thức vũ
trang tự vệ trong hoàn cảnh nhất định”(192).
Từ
tháng 3-1957, sau Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân đội
miền Bắc bắt đầu “thời kỳ xây dựng chính quy hiện đại”. Chủ trương “giải trừ
quân bị” bắt đầu được thực hiện. Nhiều tướng lĩnh quân đội đã được chuyển sang
làm kinh tế. Ngay cả Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng được cử vô Quảng Bình để
làm “gió Đại Phong”.
Bút
Tre đã làm thơ:
“Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh
về phân bắc, phân xanh đầy đồng”.
Ngày
4-6-1957, máy bay chở ông Lê Duẩn đáp xuống sân bay Gia Lâm sau một hành trình
dài. Thời gian đầu, Lê Duẩn “chưa nhận một chức vụ công khai gì”, ông ở chung
nhà khách với ông Phan Văn Đáng, cũng vừa từ Xứ uỷ Nam Bộ ra. Hai người vẫn
thường “qua mặt” bảo vệ, lấy xe đạp đi chơi. Bảo vệ biết mà không dám ngăn,
đành phải tháo van xì hơi và có lần vội quá châm kim cho thủng lốp. Hai người
cũng đã từng chen chúc lấy “vé hạng chót” ở rạp Hồng Hà, đứng bám cột kèo nhà
hát, coi cải lương (193).
Trước
khi ông Duẩn ra Hà Nội, đấu tranh vũ trang đã được những người soạn thảo Nghị
quyết 15 coi như là con đường không thể tránh. Ông Hoàng Tùng kể: “Suốt mùa
xuân năm 1957, tôi cùng Trần Quang Huy đi Đồ Sơn chuẩn bị Đề Cương Cách Mạng
Miền Nam. Chúng tôi nêu lên phương hướng: không thể hoà bình mà phải đương
đầu đấu tranh giải phóng Miền Nam”. Tuy nhiên, ông Hoàng Tùng thừa nhận: “Nhờ
có thời gian lăn lộn ở chiến trường, Lê Duẩn là người phát triển, hoàn chỉnh
Nghị quyết 15”.
Theo
ông Hoàng Tùng: “Khi ấy, Bộ Chính trị không có ảo tưởng hoà bình, nhưng phát
biểu công khai thì phải thế. Bác cũng không nghĩ thế, nhưng nếu để lộ ra, Trung
Quốc và Liên Xô sẽ rầy rà mình”. Nhưng, theo ông Hoàng Tùng, khi Lê Duẩn vừa ra
Bắc, ông chưa quen với cách mà các nhà lãnh đạo ở Hà Nội phải đối phó với “hai
ông anh” của mình, thấy tranh cãi về Nghị quyết 15 như thế, đến giờ giải lao,
ông nói với tôi: “Hoà bình vui vẻ rồi, họ muốn miền Nam chết, họ bỏ rồi”. Hoà
hoãn không chỉ thể hiện trên ngôn ngữ như ông Hoàng Tùng nói vì năm 1958, Sư
đoàn 332 vẫn bị giải thể, hai mươi vạn quân thường trực được chuyển đi làm kinh
tế(194).
Đại
tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Khi từ miền Nam ra Trung ương, anh (Lê Duẩn) nói,
‘điều vui mừng nhất là biết Trung ương đã sớm xác định Mỹ là kẻ thù chính’ và
‘ra đây mới thấy hết tình hình khó khăn phức tạp chưa thể phát động đấu tranh
vũ trang ở miền Nam sớm hơn”(195). Tướng Lê Đức Anh xác nhận, cuối năm 1957,
khi gặp Lê Duẩn ở Bộ Quốc Phòng, ông đã nói: “Ra Bắc mới được vài tháng mà tôi
thấy tình hình quốc tế, tình hình trong nước phức tạp quá”.
Trong
thời gian chủ trương chưa dứt khoát đó, hàng vạn đảng viên Cộng sản đã bị bắt,
bị giết bởi những chiến dịch tố cộng của Chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngược lại,
từ đó cho đến năm 1960, “mỗi năm có khoảng 2.500 quan chức miền Nam Việt Nam bị
ám sát”(196). Trên thực tế, các hoạt động du kích là chưa bao giờ ngưng cả,
nhưng, tới năm 1959 thì hoạt động này chuyển lên mạnh hơn.
Theo
Kissinger, “đến cuối nhiệm kỳ của Chính quyền Eisenhower, chính quyền Nam Việt
Nam đã nhận được từ Mỹ hơn một tỷ đôla viện trợ; có 1.500 người Mỹ ở miền nam
Việt Nam với 692 thành viên nằm trong nhóm cố vấn quân sự; đại sứ quán Mỹ ở Sài
Gòn trở thành một trong những phái đoàn lớn nhất của Mỹ trên thế giới”(197).
Trận
“đánh Mỹ” đầu tiên diễn ra ngày 2-1-1963 ở một ấp chiến đấu cách thị xã Mỹ Tho
14 km có tên là Ấp Bắc(198). Nhưng cũng trong năm 1963, khi được giao soạn thảo
bản báo cáo chính trị cho Hội nghị Trung ương 9, ông Hoàng Minh Chính(199) vẫn
dựa trên lập trường “chung sống hoà bình” của Khrushchev. Bản báo cáo của ông
không được lựa chọn. Tháng 12-1963, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn triệu tập Hội nghị
Trung ương 9, đưa ra dự thảo nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa
xét lại hiện đại”. Hoàng Minh Chính bảo lưu ý kiến bằng cách phân phát cho một
số uỷ viên Trung ương dự Hội nghị một bài viết của ông có tên Về Chủ Nghĩa
Giáo Điều Ở Việt Nam. Một số uỷ viên Trung ương đã hưởng ứng lập trường này
như Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm(200).
Từ
năm 1964, nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện
đại” đã làm cho khoảng bốn mươi người đang học và đang công tác ở Liên Xô xin
“tị nạn”, trong đó có những người từng gần gũi với tướng Giáp như Phó Chủ tịch
Uỷ ban Hành chính Hà Nội Nguyễn Minh Cần; Chính uỷ Sư đoàn 308, Phó Chính uỷ
Quân khu III, Đại tá Lê Vinh Quốc; nguyên Tổng Biên tập báo Quân Đội Nhân Dân,
Thượng Tá Ðỗ Văn Doãn,…
Sau
Hội nghị Trung ương 9, vấn đề của “cách mạng miền Nam” không còn chịu ảnh hưởng
nhiều bởi thái độ của Trung Quốc hay Liên Xô. Trong Đảng cũng đạt được một
đường lối chung: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam”.
Từ tháng 9-1963, một phó tổng tham mưu trưởng được đưa vào Nam(201) và ngay
trong thời gian ông Lê Duẩn đang chủ trì Hội nghị Trung ương 9, hàng trăm sỹ
quan cấp chiến thuật bắt đầu được đưa về các trung tâm huấn luyện(202).
Tuy
nhiên, ở Hà Nội, theo Cục trưởng Tình báo Quân đội Lê Trọng Nghĩa: “Đầu năm
1964 khi viết Nghị quyết 9 thành văn, họp Trung ương vẫn có nhiều ý kiến khác
nhau. Vì vậy, Nghị quyết 9 dừng lại ở mức độ: đánh thắng Mỹ nhưng giữ nó ở mức
độ chiến tranh đặc biệt, tránh để chiến tranh mở rộng ra miền Bắc”.
Những
năm đầu thập niên 1960, ở miền Nam, “Ngô Chí Sĩ” bắt đầu được mô tả như là một
“độc tài gia đình trị”(203). Ngày 24-8-1963, Henry Cabot Lodge, người vừa sang
Sài Gòn làm đại sứ nhận được chỉ thị từ Washington yêu cầu cách chức Nhu và
cảnh báo Diệm rằng, nếu ông ta từ chối, Hoa Kỳ sẽ phải “đối diện với khả năng
chính bản thân ông Diệm không thể được bảo toàn”(204).
Ngày
1-11-1963, các tướng lĩnh Sài Gòn đã đảo chính. Hai anh em ông Diệm phải chạy
trốn vào nhà thờ Cha Tam và sau đó bị bắn chết(205).
Ba
tuần sau, ngày 22-11-1963, tại Dallas, Texas, Tổng thống Kennedy bị ám sát. Vị
tổng thống mới, Lyndon Baines Johnson, bắt đầu coi sự xuất hiện của quân đội
chính quy miền Bắc ở miền Nam là “xâm lược”. Ngày 21-12-1963, Bộ trưởng Quốc
phòng McNamara báo với Johnson rằng, nước Mỹ phải đối mặt với sự lựa chọn: leo
thang can thiệp quân sự hoặc để cho miền Nam sụp đổ.
Sự
kiện Vịnh Bắc Bộ
Một
tháng sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lại
nhóm họp, đẩy cách mạng miền Nam lên một tầm mức rõ ràng hơn: “Đã đến lúc miền
Bắc cần tăng viện trợ cho miền Nam, miền Bắc phải phát huy hơn nữa vai trò là
căn cứ cách mạng cho toàn đất nước”. Không lâu sau đó, Sư đoàn 325 được đưa vào
“Chiến trường B”(206).
Người
Mỹ không ngồi yên khi nhịp độ chi viện quân sự từ miền Bắc vào Nam ngày càng
tăng cao. Mỹ chủ trương đánh mạnh vùng Hạ Lào và ngoài Biển Đông, Hạm đội Bảy
dịch chuyển dần lên rồi đưa tàu USS Maddox vào vịnh Bắc Bộ. Trực Ban Tác chiến
Quân uỷ Trung ương tuần lễ đầu tháng 8-1964, Cục trưởng Quân báo, Đại tá Lê
Trọng Nghĩa, kể: “Nguồn tin của chúng tôi cho biết, sau khi tàu Maddox di
chuyển hỗ trợ cho các máy bay của hải quân Mỹ ném bom Nậm Căn, nhằm quấy rối,
chặn đường chi viện miền Nam sẽ quay về Hạm đội Bảy. Quân uỷ cũng nhận định
không có dấu hiệu Mỹ dùng tàu Maddox đánh ra miền Bắc”.
Ngày
2-8-1964, khi chiếc tàu USS Maddox di chuyển từ phía Bắc Việt Nam vào vùng biển
Hòn Mê, thuộc địa phận Thanh Hoá, nó đã bị một đơn vị hải quân miền Bắc dùng
tàu phóng ngư lôi bắn trúng mũi. Thương vong không đáng kể, nhưng “Capitol Hill
đã náo loạn”. Ngày 4-8-1964 hệ thống ra đa của USS Maddox nhận được tín hiệu sẽ
có một cuộc tấn công thứ hai. Mặc dù, về phía Việt Nam, “nhật ký chiến sự không
ghi nhận bất cứ sự kiện gì vào ngày 4-8 cả”(207).
Vụ
tàu USS Maddox đã khiến cho lòng kiêu hãnh của những người Mỹ ở Washington bị
thách thức. Ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ lần đầu tiên thi hành một số phi vụ bắn
phá trên miền Bắc. Ngày 7-8-1964, 100% nghị sỹ ở Hạ viện và sau đó 98/100
thượng nghị sỹ bỏ phiếu thông qua “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ”; theo đó, cho phép
tổng thống toàn quyền hành động quân sự với miền Bắc cộng sản. Một tuần sau, từ
Thanh Hoá, 160 sỹ quan chính quy kết thúc sớm lớp huấn luyện, bắt đầu hành
trình vượt Trường Sơn(208).
Theo
Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Khi ‘sự kiện Vịnh Bắc Bộ’ xảy ra, cả Võ Nguyên Giáp,
Nguyễn Chí Thanh đều đi vắng. Trung Quốc và Liên Xô cùng làm ầm lên. Chủ tịch
Hồ Chí Minh phải chủ trì họp kiểm điểm. Vào họp Hồ Chí Minh đặt vấn đề rất
nghiêm: Ai ra lệnh? Hôm xảy ra vụ tàu Maddox, trực Quân uỷ Trung ương là tướng Trần
Quý Hai, tôi là trực ban tác chiến chịu trách nhiệm nắm tình hình địch. Trần
Quý Hai nói là đã báo cáo Bộ Chính trị trước khi ra lệnh nhưng kiên quyết không
nói cụ thể báo cáo ai. Võ Nguyên Giáp yêu cầu phải kỷ luật. Trong khi, Văn Tiến
Dũng nói, ‘mình không đánh nó thì nó cũng sẽ đánh mình, bản chất đế quốc là
thế’. Cuối cùng Trần Quý Hai nhận kỷ luật cho dù ai cũng biết phía sau lệnh này
là ai”(209).
“Sự
kiện Vinh Bắc Bộ” trở thành lý do để những người chủ chiến ở cả phía Mỹ và Việt
Nam đẩy nhịp độ chiến tranh lên mức cao hơn. Từ miền Bắc, viên tướng đứng đầu
xu hướng đánh thắng Mỹ bằng quân sự, Nguyễn Chí Thanh, được cử vào Nam trực
tiếp làm bí thư Trung Ương Cục. Cùng đi có các tướng Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hoà,
Hoàng Cầm và Trần Độ.
Chỉ
ít lâu sau, tháng 2-1965, Bộ Chỉ huy Miền Nam quyết định mở Chiến dịch Đồng
Xoài. Đồng thời, ở Cao Nguyên, một cuộc tấn công lớn đã được nhắm vào khu ở của
cố vấn Mỹ ở thành phố Pleiku. Người Mỹ trả đũa bằng cách mở một đợt tấn công
bằng không quân vào miền Bắc. Cuộc tấn công này nhanh chóng biến thành một
chiến dịch ném bom có hệ thống với mật danh “chiến dịch Sấm rền”. Sự kiện này
đã đặt miền Bắc vào tình thế chấp nhận để cho một lực lượng quân nhân của các
nước xã hội chủ nghĩa bí mật có mặt trên miền Bắc.
Năm
1964, ông Lê Duẩn từng dự định “giành chính quyền Sài Gòn” trong năm 1965 bằng
cuộc đảo chính của Đại tá Phạm Ngọc Thảo kết hợp với một cuộc tổng tiến công,
nhân khi “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ được coi là “phá sản” còn quân Mỹ thì
chưa được đưa vào tham chiến.
Đại
tá Thảo được ông Lê Duẩn “đánh vào” chính quyền Ngô Đình Diệm với vỏ bọc “người
trí thức tham gia kháng chiến trở về với chính nghĩa quốc gia”. Còn cuộc tổng
tiến công thì theo ông Võ Văn Kiệt, năm 1964, chỉ riêng Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định
đã cho thành lập năm “phân khu”. Cũng trong năm 1964, từ Hà Nội, ông Lê Duẩn đã
cử một “bộ khung” vào Nam. Một thành viên trong “bộ khung” này, ông Kiều Xuân
Long, kể: “Chúng tôi bắt đầu đi B cuối năm 1964, đích thân Lê Duẩn và Tố Hữu
tiễn đưa. Đầu năm 1965, chúng tôi tới Tây Ninh, gặp cán bộ Trung ương Cục, họ
thúc, ráng đi lẹ lên coi chừng không kịp”.
Đồng
tiền “miền Nam Việt Nam” cũng được in và chuyển vào Trung ương Cục với mật
danh: “Hàng 65”. Nhưng cuộc đảo chính do
Phạm Ngọc Thảo cầm đầu thất bại. Giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến
bắt đầu.
Ngày
8-3-1965, lính Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và tháng 7 năm ấy bắt đầu tham chiến tại
miền Nam. Đáp lại, trong tháng 9-1965, hai đơn vị chủ lực cơ động của Nam Bộ,
Sư đoàn 9 và Sư đoàn 5, lần lượt được thành lập; tháng 6-1966, Miền cho lập
thêm Sư đoàn 7. Từ đó, quân đội Mỹ tiếp tục được ồ ạt đưa sang cho đến khi đạt
con số 543.000 người vào năm 1968.
Mậu
Thân và tham vọng của Lê Đức Thọ
Cuối
năm 1966, khi trả lời phỏng vấn Harrison Salisbury, phóng viên tờ New York
Times, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rằng, Hoa Kỳ đúng là “mạnh hơn rất nhiều về
quân sự”, nhưng, theo ông: “Cuối cùng sẽ thất bại
vì
có nhiều người Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho Việt Nam hơn người Mỹ”.
Sức
chịu đựng của nền chính trị Mỹ bắt đầu bị thách thức khi số lính Mỹ chết ở
chiến trường Việt Nam lên tới con số hàng trăm mỗi tuần. Từ năm 1961 cho tới
đầu năm 1968, có 31.000 người Mỹ bị chết và mất tích ở Việt Nam. Cảnh chết chóc
của binh lính và đặc biệt là dân thường được chiếu mỗi tối trên máy truyền hình
bắt đầu có trong phòng ngủ của các gia đình Mỹ.
Theo
mô tả của Henry Kissinger, “McNamara mong muốn kết thúc chiến tranh một cách
tuyệt vọng, và nhiều lần khẩn khoản tôi moi bất cứ dấu hiệu lờ mờ nào, cho dù
là gián tiếp, có thể giúp ông thúc đẩy công cuộc đi tới một kết cục bằng thương
lượng”(210). Ngày 7-4-1965, Tổng thống Johnson tuyên bố tại Baltimore: “Mỹ sẵn
sàng thương lượng không điều kiện”. Cuối tháng 12-1965, người Mỹ cử Harriman,
một nhà ngoại giao, tới Ba Lan để nhờ Ba Lan làm trung gian thương lượng với Hà
Nội.
Ngày
2-1-1966, J. Mikhalowski, thứ trưởng kiêm Tổng thư ký Bộ ngoại giao Ba Lan, tới
Hà Nội và thông báo với Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mỹ rất
linh hoạt. Ho sẵn sàng tìm mọi cách để thương lượng. Mikhalowski nài nỉ: “Cần
phải có một sáng kiến. Phải tiến lại với những ý kiến chứng tỏ chúng ta muốn
hoà bình, và qua đó các đồng chí sẽ tranh thue được dư luận thế giới về
mình”(211). Nhưng cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều cự
tuyệt (212).
Ngày
14-6-1966, một nhà ngoại giao người Canada được gửi tới Hà Nội, nhưng chuyến đi
của ông cũng thất bại. Tiếp đó, ông Jean Sainteny, người từng ký với Hồ Chí
Minh bản Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, đã được Tổng thống Pháp cử tới Việt
Nam.
Ngày
1-7-1966, tại Hà Nội, Sainteny cho biết: “Mỹ đang tìm một giải pháp để khỏi mất
thể diện và chính Việt Nam mới ở thế thắng. Mỹ đã bị đánh bại. Đối với một nước
nhỏ mà làm cho Mỹ không thực hiện ý đồ là đã ở trong thế thắng rồi”(213). Rồi
Sainteny thuyết phục Phạm Văn Đồng: “Cần nghĩ đến chiến tranh nhưng cũng cần
nghĩ đến hoà bình. Một ngày nào đó sẽ phải thương lượng”(214).
Đúng
lúc ấy, Hồ Chí Minh được mô tả là đã bước vào phòng, cắt ngang cuộc gặp giữa Sainteny
và Phạm Văn Đồng: “Nêu ông có gặp người Mỹ, ông hãy nói cho ho răng chúng tôi
không sợ Mỹ, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, dù có phải hy sinh tất cả”(214).
Hôm sau, ngày 5-7-1966, trong cuộc tiếp chính thức, Hồ Chí Minh nói với
Sainteny: “Chúng tôi hiểu đế quốc Mỹ. Chúng tôi biết sức mạnh của họ. Họ có thể
san bằng Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh và các thành phố khác. Điều đó
không hề làm yếu quyết tâm chiến đấu đến cùng của chúng tôi”(214).
Từ
năm 1967, người Mỹ bắt đầu thiết lập một kênh liên lạc với Việt Nam qua người
Pháp. Giữa tháng 7-1967, Henry Kissinger trở thành người trung gian khởi động
tiến trình thương lượng. Cho đến lúc ấy, người Mỹ không hề biết rằng, ông Lê
Duẩn đang có trong tay một kế hoạch đầy tham vọng mà về sau được các nhà báo Mỹ
gọi là “Tet Offensive” và các văn kiện chính thức của Hà Nội gọi là “Cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Mậu Thân-1968”.
Trong
“chiến tranh giải phóng miền Nam”, cho dù tướng Giáp vẫn là bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, tổng tư lệnh, bí thư Tổng Quân uỷ, nhưng theo ông Lê Trọng Nghĩa: “Thay
vì ông Giáp là người quyết định, ông Lê Đức Thọ có sáng kiến lập ra Tổ năm
người giúp Trung ương chỉ đạo tác chiến miền Nam gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp,
Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng và Lê Đức Thọ. Trong tổ này, ông Giáp chỉ còn một
phiếu”.
Chiến
dịch Mậu Thân được lên kế hoạch sau “những cuộc họp liên miên” mà các bên tham
gia đã phải “tranh cãi gay gắt”. Đại tá Lê Trọng Nghĩa, người dự hầu hết những
cuộc họp này, nói: “Trong Quân uỷ xuất hiện hai xu hướng khác nhau: Một xu
hướng cho rằng phải đánh bằng quân sự thì mới giải quyết được cách mạng miền
Nam, xu hướng này do Nguyễn Chí Thanh phát ngôn và phía sau là Lê Duẩn và Lê
Đức Thọ. Một xu hướng đồng ý đánh, nhưng vừa đánh vừa cân nhắc tình hình chính
trị, nếu khi nào khả năng chính trị xuất hiện thì nắm lấy cơ hội đàm phán hoà bình,
người đứng đầu xu hướng này là Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Vịnh. Tuy nhiên, tới
tháng 6-1967 thì đôi bên đi đến thống nhất: đánh; một ý đồ chiến lược được hình
thành gọi là Kế hoạch 67-68”.
Chiều
5-7-1967, Bộ Chính trị làm cơm tiễn đưa Nguyễn Chí Thanh trở lại miền Nam, cùng
dự có Hồ Chí Minh. Sau bữa cơm, tướng Thanh có ngồi lại khá lâu với tướng Giáp.
Người thân của ông kể lại rằng: Sau một đêm trằn trọc bên người vợ tại nhà
riêng ở số 34 Lý Nam Đế, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị choáng mệt. Lúc gần sáng,
ông được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Quân y 108, nhưng khi vừa được đặt nằm
xuống giường bệnh thì từ ông “phát ra tiếng kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím
ngắt”. Khoảng chín giờ sáng ngày 6-7-1967, Nguyễn Chí Thanh mất với kết luận
của bệnh viện là do “nhồi máu cơ tim”.
Vị
tướng đại diện cho xu hướng “giành chiến thắng hoàn toàn bằng quân sự” vừa ra
đi thì có hai sứ giả mang thông điệp hoà hoãn từ Washington tới: ông Raymond
Aubrac và Herbert Marcovich. Aubrac là người quen cũ của Hồ Chí Minh trong thời
kỳ ông tới Paris dự Hội nghị Fontainebleau(217). Sự ra đi đột ngột của tướng
Thanh cũng làm cho ông Giáp bị sốc, ngay sau tang lễ Nguyễn Chí Thanh, tướng
Giáp được đưa đi Hungary dưỡng bệnh. Hồ Chí Minh tiếp các sứ giả Washington khi
bên mình không còn hai đại tướng. Ông bắt đầu nói về đàm phán.
Ngày
24-7-1967, “Aubrac cảm thấy có dấu hiệu mới mẻ”(218) khi gặp Hồ Chí Minh. Thủ
tướng Phạm Văn Đồng gần như đã bàn chi tiết phương thức tiến hành đàm phán
(219) với điều kiện Mỹ ngưng ném bom miền Bắc.
Ngày
25-8-1967, Aubrac và Marcovich chuyển tới tổng đại diện Việt Nam tại Paris
thông điệp thương lượng đầu tiên của Chính phủ Mỹ gửi Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà: “Hoa Kỳ sẵn sàng chấm dứt
ném bom bắn phá bằng không quân và hải quân ở miền Bắc Việt Nam với sự hiểu
biết răng việc đó sẽ nhanh chóng đưa tới những cuộc thảo luận có hiệu quả giữa
Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để tiến tới giải quyết những vấn đề đang
làm hai nước chống đối nhau”(220).
Không
ai biết rõ thông điệp trên đây của Washington có được miền Bắc chuyển đến lãnh
tụ tối cao hay không. Khi miền Bắc trả lời thì Hồ Chí Minh đã không còn ở Hà
Nội nữa. Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Ngày 5-9-1967, Hồ Chí Minh được đưa đi
nghỉ ở Bắc Kinh. Chúng tôi nhận được thông báo từ Ban Tổ chức Trung ương của Lê
Đức Thọ: Bác mệt, phải đi nghỉ đông, từ nay, những ai trước trực tiếp làm việc
với Bác thì làm việc với đồng chí Lê Duẩn”.
Ngày
11-9-1967, Mai Văn Bộ trao cho Aubrac và Marcovich trả lời của Hà Nội: “Thông
điệp của Mỹ đã được trao sau một cuộc leo thang đánh phá Hà Nội và với sự đe
doạ liên tục đánh phá Hà Nội. Rõ ràng đó là một tối hậu thư đối với nhân dân
Việt Nam. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kiên quyết bác bỏ nhưng đề
nghị trên đây của Mỹ”(221). Một kế hoạch mang tên San Antonio, theo đó, Mỹ sẽ
“chấm dứt hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam - để đổi lấy các cuộc đối
thoại, miễn là Hà Nội không lợi dụng việc ngừng ném bom”(222), vẫn được người
Mỹ đưa ra. Ngày 29-9-1967, Johnson đồng ý “Kế hoạch San Antonio”, nhưng theo
Kissinger, Hà Nội đã bác bỏ nó.
Theo
ông Trần Việt Phương, thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Lê Đức Thọ và Lê Duẩn
không thể đưa hai con người đang nắm quyền và có nhiều uy tín đó đi đâu nếu hai
người không đồng ý. Việc Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đi ra nước ngoài được
giải thích là để nghi binh. Để thế giới tin rằng, miền Bắc không thể triển khai
một kế hoạch to nếu hai nhân vật quan trọng vào bậc nhất đó không có mặt ở Hà
Nội”.
Những
diễn biến sau đó cho thấy câu chuyện không đơn giản là một cuộc nghi binh. Đại
tá Lê Trọng Nghĩa nói: “Hai mươi ngày sau khi Nguyễn Chí Thanh mất, ngày
27-7-1967, Hoàng Minh Chính bị bắt. Hơn một tháng sau khi Hồ Chí Minh được đưa
tới Bắc Kinh, ngày 18-10-1967, người thư ký thân cận nhất của ông là Vũ Đình
Huỳnh cũng bị bắt”. Một vụ án được nói là “Chống Đảng” do Trưởng Ban Tổ chức
Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn, trực tiếp chỉ đạo,
bắt đầu khởi động.
Cái
chết của tướng Nguyễn Chí Thanh không làm thay đổi quyết tâm dứt điểm chiến
trường miền Nam của ông Lê Duẩn. Theo tướng Giáp: “Anh Thanh mất khi chỉ mới có
ý đồ chiến lược đánh vào thành phố chứ chưa hề có kế hoạch tổng công kích-tổng
khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân”. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian Võ Nguyên
Giáp ở Hungary và Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh, một kế hoạch được đặt tên là “Chiến
dịch Quang Trung” được gấp rút xây dựng.
Hồ
Chí Minh được đưa về Hà Nội khi cuộc Tổng tiến công đã gần kề. Theo ông Vũ Kỳ,
thư ký riêng của ông, ngày 21-12-1967, Văn phòng Trung ương điện “mời Bác về dự
họp Bộ Chính trị”. Ngày 23-12-1967, chuyên cơ chở Hồ Chí Minh về tới Gia Lâm.
Ông Vũ Kỳ viết: “Máy bay lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được vì đèn chỉ huy
trên sân bay chệch mười lăm độ. Đồng chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh
không theo đèn. Rất may là an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức
Thọ ra đón Bác tại sân bay, đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác”(223).
Ngay
sau khi khách khứa rút lui, việc đầu tiên mà Hồ Chí Minh làm là gọi điện tới
Quân uỷ Trung ương để hỏi thăm sức khỏe tướng Giáp. Theo ông Vũ Kỳ, khi nghe
Quân uỷ nói Đại tướng đang ở nước ngoài, Hồ Chí Minh nhắc gửi quà và thiệp cho
vợ chồng “chú Văn”. Ông nói: “Nô-en và
Tết dương lịch bên ấy cũng như Tết ta của mình. Tâm lý của những người xa quê
hương rất mong có một món quà của tổ quốc”(224). Không chỉ hiểu tâm trạng của
vị tướng đang bị đặt ra ngoài thời cuộc, theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Hồ Chí
Minh lo cho sự an toàn của tướng Giáp”.
Từ
Hungary, ngày 20-9-1967 tướng Giáp gửi thư cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu: “Cậu
Hiếu, bọn mình còn ở lại đây ít hôm nữa. Chắc Hoàng đã có thư. Rất mong thư
nhà. Nhớ liên lạc với anh Thạch, anh Tiến, khi nào có đoàn sang thì gửi mình”.
Theo Đại tá Hiếu, “anh Thạch” và “anh Tiến” trong bức thư này là Nguyễn Cơ Thạch
và Hoàng Văn Tiến, cựu thư ký của tướng Giáp, lúc đó đang công tác tại Bộ ngoại
giao. Bức thư tướng Giáp cho thấy ông đã bắt đầu “đói thông tin” và, thay vì
được báo cáo qua con đường chính thức, phải tìm hiểu tình hình trong nước qua
những người tin cẩn.
Ngày
11-11-1967, tướng Giáp gửi cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu lá thư thứ hai từ
Hungary: “Hiếu, đã nhận được thư của Hiếu gửi cho đoàn, sau đó nhận được thư
dài hơn viết từ trước. Sức khỏe tôi khá hồi phục nhưng chưa khỏi hẳn. Hoàng sẽ
nói rõ. Hiếu xem, lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào để có thể chuẩn bị
trước. Thăm các cậu ở báo Quân Đội Nhân Dân, Cục I, Cục II và các cục khác.
Nghe nói bài báo của ta có chỗ lộ bí mật (Hoàng Tùng nói), như thế là không
đúng. Ta đã cân nhắc rất kỹ”.
Theo
Đại tá Hiếu, đọc lá thư viết trên postcard này, ông rất lo lắng. Tại sao tổng
tư lệnh đương chức lại băn khoăn “lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào?” Đại
tá Hiếu kể: “Khi anh Văn ở Hungary, ở nhà họp Quân uỷ tôi đã nhiều lần phải
chịu đựng những lời nói xấu anh Văn một cách công khai. Trước đó, Quân uỷ rất
đoàn kết nhưng, có thời gian Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng lôi kéo một số cán
bộ cô lập anh Văn. Trước khi vào Nam, có thời gian Nguyễn Chí Thanh hay bóng
gió: ‘Ở nhiều nước Tổng tham mưu trưởng mới là tướng, còn bộ trưởng quốc phòng
chỉ là anh dân sự’. Khi đó, Văn Tiến Dũng đã thay Hoàng Văn Thái làm Tổng tham
mưu trưởng. Tuy nhiên, khi Nguyễn Chí Thanh mất, anh Văn vẫn bị sốc vì cuộc
chiến cần tướng tài. Xét về năng lực, Nguyễn Chí Thanh sắc sảo hơn nhiều so với
Văn Tiến Dũng”.
Theo
Đại tá Nguyễn Văn Huyên, thư ký tướng Giáp, ông không có điều kiện để xác minh
điều mà Trần Quỳnh nói, trước giờ dự định vào Nam, Nguyễn Chí Thanh nhắc Hồ Chí
Minh phải chú ý vấn đề nội bộ. Nhưng, ông Huyên xác nhận, ở thời điểm ấy cũng
có người nói tướng Giáp chống Đảng và muốn thay tướng Giáp. Theo ông Huyên: “Có
người đề nghị, Bác nói: thông thường ở cấp ấy con người có thể hành động như
vậy nhưng chú Giáp thì không, hơn nữa ta đang đánh Mỹ và đang thắng Mỹ không
thể thay bộ trưởng quốc phòng”.
Theo
ông Vũ Kỳ, ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà của Hồ
Chí Minh, có bản đồ to kê trên bục trong phòng họp và có nhiều tướng lĩnh đến
báo cáo. Tại cuộc họp đó, theo ông Vũ Kỳ: “Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ… đưa
cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương
pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định. Chiều tối,
sau phiên họp Bộ Chính trị kéo dài và căng thẳng, Bác trở về nhà sàn, chân bước
chậm rãi, có lẽ có một điều gì đó khiến Bác chưa thật an tâm. Cuộc họp hôm nay
Bác chủ trì, ngồi ở ghế đầu bàn, đồng chí Lê Duẩn báo cáo toàn bộ vấn đề và quán
xuyến việc thảo luận”(225).
Ngày
1-1-1968, sau khi thăm một số nơi bị máy bay bắn phá ở Hà Nội, vào lúc 2 giờ 30
chiều, sau khi tiếp “Bộ Chính trị đến làm việc”, Hồ Chí Minh tiếp tục “sang Bắc
Kinh dưỡng bệnh”(226). Ở Hà Nội, bàn tay của Lê Đức Thọ bắt đầu siết mạnh hơn.
Tại
Tổng Hành dinh, sáng 6-1-1968, Đại tá Lê
Trọng Nghĩa đang họp với Văn Tiến Dũng để làm kế hoạch bảo đảm cho chiến dịch
thì ông Dũng nói: “Anh sang Tổng cục Chính trị gặp Song Hào”. Ông Lê Trọng
Nghĩa kể: “Tôi sang, người tiếp tôi không phải là Song Hào mà là Phạm Ngọc Mậu,
Cục trưởng Tổ chức kiêm phụ trách Bảo vệ Nội bộ. Mậu bảo: ‘Anh để cặp, vũ khí,
bản đồ lại đây rồi đi ngay, có nhiệm vụ Trung ương giao’. Tôi lần lượt tháo ra
khỏi người những thứ bất ly thân, và tôi chỉ phải đi sang một phòng ở gần đó.
Hôm đó, vợ tôi từ nơi tản cư ở Vĩnh Yên về đang chờ tôi về ăn cơm để tối lại về
nơi tản cư tiếp. Nhưng tôi không chỉ bị giữ lại trong ngày, và cũng không
chỉ
có một mình. Từ các nhà bên: Lê Minh Nghĩa, phó Văn phòng Quân uỷ, kiêm chánh
Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu, Đỗ Đức Kiên, cục trưởng Cục Tác chiến… cũng cùng bị
bắt. Lo lắng cho một chiến dịch sắp bắt đầu, một tuần sau, lấy tư cách là bí
thư Đảng Quân uỷ Bộ Tổng Tham mưu, tôi viết thư gửi cho Bí thư Tổng Quân uỷ Võ
Nguyên Giáp đặt vấn đề vì sao có việc giữ người này. Một thời gian sau, khi tôi
đã bị di lý đi nơi khác, một cục phó Cục Bảo vệ tới nơi tôi bị giữ, thông báo:
Anh Giáp đang nghỉ, tất cả những chuyện của các anh và những chuyện trong Quân
uỷ bây giờ thuộc quyền giải quyết của anh Lê Đức Thọ”.
Sau
khi “điều Lê Trọng Nghĩa” về trại giam, Cục trưởng Cục Cán bộ Phạm Ngọc Mậu cho
mời Chánh Văn phòng Quân uỷ Nguyễn Văn Hiếu. Theo ông Hiếu: “Ông Mậu nói: ‘Học
viện quân sự đang thiếu người, anh phải lên thay Hoàng Minh Thảo làm phó giám
đốc. Anh nên đi ngay’. Tôi hiểu là người ta cần tống mình đi. Đến Tam Đảo biết
thêm, người ta chỉ thị cho Học viện là tôi không được tham gia cấp uỷ”. Như
vậy, theo Cục trưởng Quân báo Lê Trọng Nghĩa: “Trước giờ nổ súng, phần lớn tác
giả của Kế hoạch Mậu Thân, kể cả tác giả chính là Cục trưởng Tác chiến Đỗ Đức
Kiên, đều bị loại ra khỏi vòng chiến đấu”.
Để
đảm bảo hoàn toàn bí mật, chỉ trước khi nổ súng một tuần, Lê Duẩn mới triệu tập
các uỷ viên Trung ương về Kim Bôi họp Hội nghị Trung ương lần 14. Tại hội nghị,
Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thông báo với Trung ương rằng trong cuộc họp quan trọng
này “có nhiều đồng chí vắng mặt”. Bí thư Lê Duẩn nói: “Trước hết, tôi xin báo
cáo với các đồng chí, lần này hội nghị Trung ương chúng ta họp, có một số đồng
chí Trung ương bị ốm không đến được, có một số đồng chí bận việc không đến
được. Trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí bận việc không đến được, một số đồng
chí sẽ đến, mai có đồng chí Thọ (Lê Đức Thọ), đồng chí Dũng (Văn Tiến Dũng) sẽ
đến báo cáo”(227).
Sau
Hội nghị Trung ương 14, chiều 20-1-1968, Lê Đức Thọ có đến Bắc Kinh để “báo cáo
Bác Hồ”. Tướng Giáp nhớ lại: “Sắp nổ súng thì Bác cũng đang ở Bắc Kinh. Bác điện
cho tôi: chú thu xếp về càng sớm, càng tốt”. Từ Hungary, tướng Giáp bay tới Bắc
Kinh. Theo ông Vũ Kỳ, sáng 25-1- 1968, Hồ Chí Minh gặp riêng Võ Nguyên Giáp.
Trong khi, cả “Cha già Dân tộc” và “Anh cả của Quân đội” vẫn đang “an trí” ở
Bắc Kinh thì những binh đoàn chủ lực miền Bắc bí mật áp sát các đô thị miền
Nam. “Ngày 29 tháng Chạp ta”, vào lúc sáu giờ chiều, Hồ Chí Minh “nhận được
điện của Bộ Chính trị và Trung ương chúc mừng Bác Hồ năm mới”(228).
Cái
đêm mà cả miền Nam chìm trong khói lửa của Tổng tiến công ấy, Hồ Chí Minh đang
ở Bắc Kinh, “trong căn phòng vắng” chỉ có ông và thư ký Vũ Kỳ, “Bác” mỉm cười
nghe một em bé hát “Bé bé bồng bông… em đi sơ tán, mai về phố đông” và lời chúc Tết của chính mình:
“Xuân
này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng
lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam
Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến
lên! Toàn thắng ắt về ta!”(229).
Máy
bay Trung Quốc đưa tướng Giáp về tới Hà Nội ngay trong ngày 29 Tết. Hôm sau ông
mới được tướng Vũ Lăng, cục trưởng Cục Tác chiến báo cáo “Kế hoạch Tổng công
kích, Tổng khởi nghĩa”. Vũ Lăng nói: “Anh Văn Tiến Dũng bảo bây giờ thì có thể
báo cáo toàn bộ với anh Văn”. Tướng Giáp cố giữ vẻ mặt bình thản để giấu niềm
cay đắng. Ông, vị tổng tư lệnh, đã không được biết một kế hoạch lớn như vậy cho
đến trước khi nổ súng một ngày.
Bốn
ngày sau khi Chiến dịch Mậu Thân bắt đầu, một trong những nhân vật quan trọng
nhất của chiến dịch, tướng Nguyễn Văn Vịnh, bị vô hiệu hoá. Trung tướng Nguyễn
Văn Vịnh, uỷ viên Thường trực Tổng Quân uỷ, được cử vào
Trung
ương Cục trao đổi Kế hoạch Mậu Thân chỉ mười ngày sau khi tướng Nguyễn Chí
Thanh mất. Tướng Vịnh trở lại Hà Nội vào đầu tháng 1-1968, và chính ông là
người báo cáo tình hình chiến trường miền Nam với Quân uỷ, là người trực tiếp
soạn thảo Nghị quyết Trung ương 14.
Theo
thư ký riêng của ông, ông Phạm Văn Hùng: Chiều mồng 5 Tết Mậu Thân, ông Vịnh
được Lê Đức Thọ mời tới nhà riêng gặp vào lúc 15 giờ. Cuộc gặp kéo dài tới chập
tối nên ông Hùng không thể chờ. Sáng hôm sau khi ông Phạm Văn Hùng quay lại nhà
riêng và là nơi làm việc của ông Vịnh, 34 Cao Bá Quát, thì được ông Vịnh cho
biết, ông bị ngưng tất cả các chức vụ: uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, uỷ
viên thường trực Quân uỷ, thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Khoảng
ba mươi nhân vật cao cấp đã bị bắt, phần lớn là những người thân cận với tướng
Giáp như: Thiếu tướng Đặng Kim Giang(230), Cục trưởng Cục II Đại tá Lê Trọng
Nghĩa, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng Đại tá Lê Minh Nghĩa, Cục trưởng Cục Tác
chiến Đại tá Đỗ Đức Kiên, Tổng Biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng,
Phó Giám đốc Nhà Xuất bản Sự thật, nguyên tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Quảng Bình,
Nguyễn Kiến Giang, Giám đốc Nhà Xuất bản Sự thật Minh Tranh,… Trừ một số người
bị bức cung để phải khai ra “vai trò cầm đầu của tướng Giáp” lờ mờ nhận thấy
mục tiêu chính trị của “vụ án”, phần đông cho đến tận cuối đời không hiểu vì
sao lại có vụ án này (231).
Theo
Trần Quỳnh, trợ lý Lê Duẩn thì, thành phần bị bắt thời gian này gồm: “Những
người không tán thành đường lối chống xét lại của Đảng ta, một số cán bộ cao
cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao cấp Liên Xô và trường quân sự cao
cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối của Đảng. Họ lập một nhóm vận động
thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ Chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào
những người không đồng tình với Nghị quyết 9, trước hết là những sĩ quan cao
cấp trong quân đội và những uỷ viên trong Trung ương”. Các văn bản do Lê Đức
Thọ ký cũng nói tới Nghị quyết 9 và quan điểm xét lại(232). Nhưng, trên thực
tế, Nghị quyết 9 đã được quán triệt từ năm 1964. Người chủ trương xét lại ở
Liên Xô, Khrushchev, khi đó cũng đã bị phế truất và bị thay bởi Brezhnev. Mặc
dù mở đầu vụ án bằng việc bắt Hoàng Minh Chính, hầu hết những nhân vật quan
trọng bị bắt đều là thư ký của Hồ Chí Minh hoặc là những trợ thủ đắc lực của
tướng Giáp.
Theo
thư ký của tướng Vịnh, ông Phạm Văn Hùng(233): “Ông Vịnh và ông Giang đều đã
cùng ở trong Quân uỷ, biết nhau rất rõ. Ông Vịnh ở nhà 34 Cao Bá Quát, ông
Giang ở nhà đối diện. Từ khi ông Giang ra khỏi quân đội, thỉnh thoảng vẫn qua
lại nhà ông Vịnh trò chuyện. Nhiều cán bộ cao cấp khác thỉnh thoảng vẫn sang
nhà ông Vịnh trò chuyện. Ông Vịnh là người cởi mở nhưng bí mật quân sự thì
không bao giờ ông ấy tiết lộ”.
Tướng
Giáp trở lại Tổng Hành dinh khi không còn những cộng sự ăn ý nhất. “Cuộc Tổng tấn công Mậu Thân” diễn ra ngay
trong đêm 30 Tết, thời điểm hai miền có thoả thuận ngừng bắn để người dân đón
Xuân. Tuy có gặp trục trặc về giờ nổ súng do có sự nhầm lẫn trong việc sử dụng
giờ Hà Nội với giờ Sài Gòn; nhưng, gần như ngay sau Giao thừa, 31-1-1968, lẫn
trong tiếng pháo mừng xuân của thường dân, Quân Giải phóng đồng loạt nổ súng
vào 5/6 thành phố, 36/44 thị xã, 36/242 huyện lỵ, 25 sân bay,… Đặc biệt, cuộc
tấn công đã gây rúng động với những gì mà “Việt Cộng” đã làm ở Sài Gòn và Huế.
Tướng
Giáp cho rằng: “Tổng tiến công vào một thời điểm bất ngờ là một chủ trương sáng
tạo, nhưng đề ra tổng khởi nghĩa là không phù hợp”(234). Tướng Giáp không coi
Mậu Thân là chiến thắng vì theo ông: “Lúc đầu mục tiêu đề ra rất cao, tổng công
kích, tổng khởi nghĩa, giành trọn vẹn chính quyền về tay nhân dân. Giấy bạc đã
được in và đã được chuyển vào Nam(235). Đồng phục cho công an vào tiếp quản
thành phố cũng đã được chuẩn bị. Đồng chí Đàm Quang Trung ở Quân khu IV đã
chuẩn bị một đoàn xe chở quân và quân trang vào tiếp quản thành phố. Sau này
giải thích tổng công kích, tổng khởi nghĩa xảy ra là một quá trình là không
đúng với thực tế”(236).
Trong
Chiến dịch Mậu Thân, người Mỹ bắt được một tài liệu của tỉnh Bình Định gửi cán
bộ, nói rằng: “Tổng tấn công 1.000 năm mới có một lần, sẽ quyết định số phận
của đất nước, sẽ chấm dứt chiến tranh”. Chính ông Lê Duẩn, trước chiến dịch
cũng tiên đoán: “Cuộc khởi nghĩa ta nói đây là một giai đoạn cuối cùng”. Ông
Duẩn tin, khi quân chủ lực tiến vào thì Sài Gòn sẽ nổi dậy (237). Ngay sau khi
chiến dịch bắt đầu, Lê Đức Thọ đã đi thẳng vào miền Nam nắm vai trò phó bí thư
Trung ương Cục. Ông ở lại cho tới tháng 5-1968, khi tình hình chiến trường
không còn dấu hiệu chiến thắng nào.
Đợt
“tổng tiến công” lần thứ nhất trong Chiến dịch Mậu Thân đã tạo ra được yếu tố
bất ngờ; tuy nhiên, Sài Gòn đã không “bị sập một cái” và không có “nửa triệu
người cầm súng cho ta” như dự đoán của Bí thư Lê Duẩn(238). Ngay trong đợt đầu,
theo Đại tá Tư Chu, chỉ huy Biệt động Sài Gòn, đã “có những hy sinh, tổn thất
lẽ ra có thể tránh được”(239). Nhưng, không chỉ tấn công đợt đầu, theo tướng
Giáp: “Khi yếu tố bất ngờ đã không còn vẫn kéo dài tiến công vào đô thị; chậm
chuyển hướng về củng cố, mở rộng, giữ vững vùng giải phóng và làm chủ ở nông
thôn do đó đã gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất rất nặng nề”(240). Từ chỗ
đang giữ thế thượng phong trên chiến trường miền Nam, Quân Giải phóng đã phải
trải qua những ngày chống đỡ trong tuyệt vọng(241).
Nhưng,
không phải những căn cứ “Việt Cộng” bị biến thành đất trắng được đặc tả trên
truyền thông Mỹ mà là: cảnh Việt Cộng bắn nhau trong sân Tòa Đại Sứ, cảnh những
xác lính Mỹ bị giết trên đường phố Sài Gòn; cảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn vào
đầu một tù binh trong khi hai tay anh ta bị trói.
Tuần
lễ đầu tiên của tháng 2-1968, số thương vong của lính Mỹ trong vòng một tuần
đạt kỷ lục: 543 chết; 2.547 bị thương. Ngày 27-2-1968, người dẫn chương trình
truyền hình có ảnh hưởng lớn khi đó, Walter Cronkite, “đã truyền những làn sóng
gây sốc cho toàn Nhà Trắng bằng cách dự báo sự thất bại”(242). Wall Street, một
tờ báo được coi là đang ủng hộ Washington cũng lo sợ Mậu Thân sẽ “làm hỏng các
mục tiêu đáng ca ngợi ban đầu”(243). Đài truyền hình NBC ngày 10-3-1968 bình
luận: “Đến lúc chúng ta phải xác định liệu việc phá huỷ Việt Nam để cứu Việt
Nam có phải là điều vô nghĩa”(244).
Ngày
31-3-1968, Tổng thống Johnson quyết định “ngừng ném bom đơn phương một phần
trong khu vực bắc vĩ tuyến 20” và sẽ “ngừng ném bom hoàn toàn ngay khi các cuộc
thương lượng quan trọng bắt đầu”. Johnson tuyên bố “sẽ không có thêm lực lượng
quân sự tăng cường lớn nào được phái sang Việt Nam”. Cũng trong ngày hôm ấy
Johnson nói rằng ông sẽ không ra tái ứng cử. Phản ứng của Washington là cơ sở
để Hà Nội coi Chiến dịch Mậu Thân là: “Một chiến thắng đã làm lung lay tận gốc
ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải bắt đầu xuống thang”.
“Nghị
quyết 21”
Phải
mất năm năm. Phải sau khi hàng vạn sinh linh của cả hai miền đã bị bom đạn nghiền
nát suốt gần ba tháng ở Quảng Trị trong mùa hè năm 1972. Phải sau khi “Hà Nội,
Hải Phòng và một số thành phố khác” bị tàn phá, hàng nghìn người bị chết bởi
B52 trong mùa Giáng sinh 1972. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris mới được ký kết.
Điều
quan trọng nhất mà ông Lê Duẩn chờ đợi trong hiệp định này là quân Mỹ rút mà quân miền Bắc không rút
thì, ở trên bàn đàm phán, Kissinger đã chấp nhận từ năm 1971. Trên thực tế,
ngay trong những tháng đầu nhậm chức, Nixon đã đơn phương rút quân: từ 545.000
quân năm 1968, xuống còn 27.000 quân, năm 1972. Hiệp định Paris 1973 chỉ giúp
cho sự ra đi của Mỹ có một tên gọi khác(245).
Sau
Hiệp định Paris, theo tướng Giáp, ở Hà Nội: “Có nhiều ý kiến muốn giữ vững hoà
bình, thực hiện hoà hợp, tạo thế ổn định 5-10 năm… Cũng có một kế hoạch sử dụng
3,5 tỷ đôla mà phía Mỹ hứa bồi thường chiến tranh để làm vốn tích luỹ ban đầu.
Ngay ở Tổng Hành dinh cũng có ý kiến không muốn đánh trả e vi phạm hiệp
định”(246).
Sáng
27-3-1973, tại phiên họp mở rộng của Bộ Chính trị, sau khi nghe báo cáo tình
hình, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đề nghị “cần tranh thủ tạo thế mạnh
cho ta và có đối sách cụ thể với Mỹ”(247). Bí thư thứ nhất Lê Duẩn kết luận:
“Ta cần tranh thủ xây dựng lực lượng mọi mặt ở miền Nam, miền Bắc, quy trách
nhiệm của Mỹ, buộc đối phương phải thi hành hiệp định”(248).
Ngày
28-3-1973, khi chủ trì họp Quân uỷ Trung ương để triển khai Nghị quyết ngày
27-3-1973 của Bộ Chính trị, tướng Giáp vẫn xác định phương châm tác chiến ở
miền Nam là “kết hợp đánh chính quy và du kích, tác chiến với binh vận, chiến
đấu với xây dựng lực lượng, tiêu diệt địch gắn với giành dân”(249). Ngày
29-3-1973, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ. Tướng Giáp xác định
trong Hội nghị Quân uỷ: “Đối tượng tác chiến lúc này là quân nguỵ”(250). Ngày
28-3-1973, Bí thư Quân uỷ Võ Nguyên Giáp gửi điện cho các chiến trường, giải
thích: “Tiến công quân sự bằng phản công của ta là chủ động tiến công, không
phòng ngự đơn thuần”(251).
Nhưng,
sau Hội nghị Bộ Chính trị ngày 27-3-1973, Tố Hữu cùng các đặc phái viên Nguyễn
Thọ Chân, Đinh Đức Thiện, được cử vào Trung ương Cục phổ trương của Bộ Chính trị
theo hướng “đấu tranh chính trị là chủ yếu”, các chiến trường phải tranh thủ
thời cơ để “gò cương vỗ béo” nhằm thực hiện “hoà hợp dân tộc và thi đua hoà
bình”. Cùng thời gian này, tại các cơ quan của Miền, theo ông Lữ Phương, ông
Trần Bạch Đằng triển khai tinh thần một bức “Thư Vào Nam” của Bí thư Lê Duẩn, theo đó,
“hoà hợp, hoà giải dân tộc” là nhiệm vụ ưu tiên của thời kỳ sau hiệp định. Cuối
năm 1972, ông Lê Duẩn đã bố trí cán bộ nghiên cứu việc hình thành và tham gia
“chính phủ liên hiệp ba thành phần”. Ông Phan Văn Khải, khi đó là vụ phó ở Uỷ
ban Kế hoạch Nhà nước là một trong những cán bộ được chọn. Đoàn của ông Khải đã
vào Trung ương Cục chỉ vài tuần sau đoàn của ông Tố Hữu.
Sau
khi nghe Bí thư Tố Hữu vào truyền đạt tinh thần thi hành Hiệp định Paris của Bộ
Chính trị, Hội nghị Binh vận Miền tháng 4-1973 triển khai “năm cấm chỉ”: cấm
tấn công địch, cấm đánh địch đi càn quét, cấm bắn pháo vào đồn địch, cấm bao
vây đồn bót, cấm xây dựng ấp xã chiến đấu. Ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt và Thường
vụ Khu uỷ ra lệnh Binh vận Khu không phổ biến chủ trương này của Binh vận Miền.
Ông
Võ Văn Kiệt kể, nhận được điện của Trung ương Cục, ông liền trao đổi ngay với Đại
tá Lê Đức Anh và Thường vụ Khu uỷ, triệu tập các tỉnh đội và đơn vị. Theo ông
Kiệt, bản thân các đơn vị khi nghe nội dung chủ trương này đã cảm thấy rằng,
“chắc chắn Khu uỷ sẽ có chỉ đạo khác”. Trước đó, ngày 2-2-1973, ở Khu IX, ông
Võ Văn Kiệt triệu tập Hội nghị Thường vụ Khu uỷ, “quán triệt” cấp dưới rằng không
được “mơ hồ ảo tưởng” về hoà bình.
Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn không “mơ hồ” khi ngầm triển khai một
chiến dịch gọi là “tràn ngập lãnh thổ” nhằm chiếm 85% đất đai và kiểm soát 95%
dân chúng miền Nam bốn mươi lăm giờ trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực. Ngày
3-3-1973, ba mươi tiểu đoàn của Việt Nam Cộng hoà đã ồ ạt đánh vào Chương
Thiện, dự kiến trong bảy ngày sẽ chiếm xong các mục tiêu, bịt cửa ngõ U Minh.
Nhưng, các mũi tiến công đều bị chặn đứng, Khu IX tổ chức tấn công trên toàn
địa bàn Quân khu.
Trước
các nhà lãnh đạo Khu uỷ và Quân khu, ông Kiệt khi ấy vừa trở thành uỷ viên chính
thức Trung ương Đảng, tuyên bố: “Mệnh lệnh tối cao lúc này là phải giữ đất, giữ
dân”. Ông Kiệt nhớ lại: “Chưa có cuộc họp nào mà tất cả các nơi về nhanh thế.
Hội nghị chỉ kéo dài một buổi rồi tất cả lại phấn khởi đòi về ngay để giữ đất”.
Nhưng, nhiều nơi cho rằng “Khu uỷ Tây Nam Bộ xé Hiệp định Paris”. Trung ương Cục
điện yêu cầu “Khu IX phải thấy tình hình mới”.
Bộ
Tư lệnh Miền phê bình và thông báo toàn Miền, đồng thời ra lệnh cho Đại tá Anh
rút hai trung đoàn chủ lực về phía sau rèn luyện nếu không sẽ “đưa Đại tá Lê
Đức Anh ra Toà án binh”. Đại tá Anh sau khi trao đổi với ông Kiệt trả lời Bộ Tư
lệnh: “Cho phép Quân khu IX thi hành chủ trương của Thường vụ Khu uỷ”. Ông Võ
Văn Kiệt điện cho Trung ương Cục và Bộ Chính trị: “Nếu không chống địch lấn
chiếm, để mất đất, mất dân lúc này là mất tất cả”.
Sau
khi nhận được điện của ông Kiệt, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cho triệu tập đại diện
các khu, đại diện Trung ương Cục, đại diện Bộ Tư lệnh Miền ra Hà Nội. Ngày
19-4-1973, các đại diện miền Nam, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh, Tư
lệnh miền Nam Hoàng Văn Thái, Bí thư Khu IX Võ Văn Kiệt đã có mặt ở Hà Nội, báo
cáo với Bộ Chính trị tại nhà khách Hồ Tây.
Ông
Lê Duẩn có một phương pháp làm việc được Võ Văn Kiệt gọi là “bỏ túi nghị
quyết”. Nghĩa là, khi xuống cơ sở để triển khai nghị quyết thay vì bắt buộc cơ
sở phải chấp hành những gì cấp uỷ đã ban hành, phải lắng nghe xem, nghị quyết
đề ra như vậy đã phù hợp chưa, nếu không phù hợp thì phải điều chỉnh nghị quyết
chứ không phải điều chỉnh cuộc sống. Ông Kiệt gọi cách là đó là “đưa cuộc sống
vào nghị quyết”.
Khi
những cán bộ chiến trường như ông Kiệt ra tới Hà Nội, ông Lê Duẩn yêu cầu các
uỷ viên Bộ Chính trị, các bộ, ngành phải dành đủ thời gian để nghe tình hình
từng chiến trường. Ông Duẩn cũng chỉ thị cho những cán bộ từ chiến trường ra: “Bất
cứ uỷ viên trung ương nào cần nghe là phải báo cáo”. Bản thân ông Lê Duẩn cũng
cần tìm kiếm sự nhất trí cao trong Trung ương. Theo ông Kiệt thì khi ông mới ra
Bắc, ông Tố Hữu vẫn còn gặp nhiều lần để “thuyết phục Khu IX thi hành nghị
quyết gò cương vỗ béo”.
Đó
là lần đầu tiên ông Võ Văn Kiệt ra Hà Nội, lần đầu tiên làm việc nhiều với Bộ Quốc
phòng, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tướng Lê Hai chỉ vào “lõm Tây Nam
Bộ” trên bản đồ rồi hỏi: “Giữ được không?”. Ông Kiệt nói: “Sẽ mất nếu rút lui.
T3(252) cũng tuỳ thuộc vào cái thế chung của chiến trường. Nếu cả chiến trường
tiếp tục tiến công, T3 sẽ giữ được. Nếu chiến trường rút, T3 mất”. Không như
các tướng Lê Hai, Văn Tiến Dũng, bộc lộ khá rõ chính kiến, tướng Giáp nghe rất
kỹ và hỏi rất cặn kẽ, nhưng gần như không bộc lộ quan điểm của ông và của Bộ
Chính trị về việc thi hành Hiệp định. Chỉ một lần, ông nói: “Hoàn toàn ẩn cũng
có lợi cho dân, nhưng, đánh lại như T3 là tích cực”.
Khi
ấy ông Võ Văn Kiệt chưa biết, trong vị thế khó khăn của mình, tướng Giáp phải
rất giữ gìn, tuy nhiên không phải tự nhiên mà ông đánh giá “T3 tích cực”. Từ
giữa tháng 4-1973, tướng Giáp đã cho lập “Tổ Trung tâm” để xây dựng “đề cương
kế hoạch chiến lược” mang bí số “305 TG1”. Tổ do một vị tướng tâm phúc của ông
phụ trách: Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn.
Mùa
hè năm 1973, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cho gọi tướng Lê Hữu Đức lên và trước khi
ra về, ông hỏi: “Bộ Tổng Tham mưu đang làm gì?”. Ông Đức: “Dạ đang dự thảo kế
hoạch chiến lược giải phóng miền Nam”. Lê Duẩn: “Thế tôi nghe được không?”.
Theo tướng Đức thì sau khi nghe, Lê Duẩn lệnh cho cả Tổ Trung tâm sang trình
bày kế hoạch cho ông nghe. Buổi chiều, Lê Trọng Tấn, Vũ Lăng cùng Lê Hữu Đức
quay lại trình bày chi tiết. Lê Duẩn nói: “Tôi đang suy nghĩ như vậy. Hôm nay
nghe xong, Tổ Trung tâm lại củng cố suy nghĩ đó của tôi. Tôi sẽ báo cáo Bộ
Chính trị”.
Việc
báo ra Bộ Chính trị một “vấn đề tuyệt mật” đã làm cho các sỹ quan tác chiến lo lắng,
tướng Lê Trọng Tấn sau đó đã phải đi báo cáo xin ý kiến Văn Tiến Dũng và tướng
Giáp. Ông Hồ Ngọc Đại, con rể và là người sống cùng ông Lê Duẩn trong dinh thự
số 6 Hoàng Diệu kể: Một lần khi vừa chạy xe suốt nửa ngày từ Hà Nội xuống Đồ
Sơn thì ông Duẩn nhận được điện thoại của tướng Lê Trọng Tấn đề nghị được báo
cáo tình hình cho Tổng bí thư. Lê Duẩn định kêu tướng Tấn xuống Đồ Sơn nhưng
ông Tấn không chịu vì theo nguyên tắc, bí mật quân sự chỉ có thể được nói trong
Tổng Hành dinh. Thế là Lê Duẩn lại phải quay xe về Hà Nội dù khi ấy đường rất
xấu (253).
Cũng
trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8-1973, khi Trung ương đang nghe các chỉ
huy chiến trường báo cáo và xác định hướng chiến lược sau Hiệp định Paris, ở
Khu IX, Quân lực Việt Nam Cộng hoà liên tiếp mở các trận càn vào Chương Thiện
với lực lượng lên tới bảy mươi lăm tiểu đoàn. Khu IX đã ngăn chặn thành công nỗ
lực này của Sài Gòn. Theo tướng Lê Đức Anh thì Trung đoàn 1, khi ấy do ông Phạm
Văn Trà chỉ huy, đã đóng vai trò tích cực.
Tháng
5-1973, khi Bộ Chính trị quyết định họp mở rộng ở Đồ Sơn, theo tướng Giáp:
“Không còn ai nghĩ tới nghỉ ngơi, hoà hoãn nữa”(254).
Ông
Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Hội nghị Trung ương 21 không còn phê phán Khu IX và quyết
định sửa đổi chủ trương”. Hội nghị Trung
ương 21, khai mạc tháng 6-1973 và thông qua lần cuối vào ngày 4-10-1973, xác
định: con đường cách mạng ở miền Nam là con đường bạo lực”. Tướng Trần Văn
Trà cho rằng: “Nếu như từ năm 1973, chúng ta tin bằng cách này hay cách khác,
Hiệp định Paris sẽ được thi hành giống như chúng ta đã tin hai năm sẽ có tổng
tuyển cử hồi Hiệp định Geneva… thì tình hình đã không như bây giờ”(255). “Bây
giờ” mà tướng Trà đề cập là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, trận đánh cuối cùng của
Quân Giải phóng.
Khoảng
một tháng sau khi ông Lê Đức Anh từ Hà Nội quay lại Bộ Tư lệnh Miền, Hà Nội
công bố quyết định phong quân hàm vượt cấp lên trung tướng cho hai đại tá: Lê
Đức Anh và Đồng Sỹ Nguyên, tư lệnh Bộ đội Trường Sơn.
Chiến
dịch Hồ Chí Minh
Điều
mà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn lúc ấy băn khoăn là người Mỹ sẽ phản ứng thế nào khi
vẫn “bạo lực” sau Hiệp định. Có lẽ như lời một bài hát lúc đó: “Vận nước đã tới
rồi”. Ngay trong năm 1973, Nixon bị cuốn vào vụ bê bối Watergate khiến ông phải
từ chức. Ngày 1-9-1974, Gerald Ford lên thay Richard Nixon. Theo Kissinger,
người tiếp tục được Tổng thống Ford giữ lại làm ngoại trưởng: “Quyết định đầu
tiên của tổng thống là phản ứng như thế nào đối với khoản viện trợ không tương xứng
cho Việt Nam”(256).
Ngân
sách dành cho Sài Gòn đã giảm từ 2,1 tỷ đôla năm 1973 xuống còn 1,4 tỷ đôla năm
1974 và chỉ còn 700 triệu cho năm tài khoá 1975. Cho dù mức mà Nixon trước đó
đề nghị vẫn là 1,4 tỷ đôla. Theo “bản ghi nhớ” ngày 12-9-1974, Kissinger chuyển
cho Ford thì ngay cả khi Quốc hội Mỹ chuẩn thuận mức viện trợ quân sự 700 triệu
đôla, thì Quân lực Việt Nam Cộng hoà khó có khả năng kháng cự(257). Tính tới
tháng 9-1974, 26.000 binh sĩ Việt Nam Cộng hoà đã bị tử trận kể từ khi ký Hiệp
định Paris. Thế nhưng, Thượng viện Mỹ không những không tăng viện trợ theo đề
nghị của tổng thống mà còn cắt đi 300 triệu.
Đầu
năm 1974, khi tình hình bắt đầu “nước sôi lửa bỏng”, trong một chuyến công tác,
tướng Giáp bị đau bụng dữ dội rồi ngất đột ngột. Ông kể, “khi tỉnh lại tôi thấy
mình đang nằm trong máy bay trực thăng cấp cứu”(258). Do Viện Quân y 108 không
chẩn đoán ra bệnh, Bộ Chính trị quyết định đưa tướng Giáp sang Liên Xô bằng một
chuyến chuyên cơ. Tại Moscow có lúc tim ông đã ngưng đập trong mấy giây và
trước khi chấp nhận một cuộc đại phẫu thuật bệnh sỏi mật, ông đã viết “mấy điều
dặn dò để lại”. Tháng 4-1974, sau khi tướng Giáp hồi phục, Liên Xô đã bố trí
một máy bay để đưa ông trở về Hà Nội. Khi ấy, Văn Tiến Dũng cũng bị ốm phải đưa
đi chữa bệnh ở nước ngoài.
Theo
tướng Giáp: Mùa hè năm 1974, khi cùng đi nghỉ ở Đồ Sơn, Lê Duẩn đã bàn với ông
một loạt các vấn đề chiến lược và khi thấy sức khỏe của tướng Giáp đã ổn sau
khi mổ sỏi mật ở Liên Xô về, Lê Duẩn nói với tướng
Giáp:
“Công việc rất quan trọng, khẩn trương. Anh nắm lấy mà làm”. Ở Đồ Sơn, tướng
Giáp vừa an dưỡng, vừa hoàn thành dự thảo lần thứ sáu “kế hoạch chiến lược
giành thắng lợi ở miền Nam”. Ông vừa đi bộ quanh bán đảo Đồ Sơn, khi ấy là một
khu chỉ dành riêng cho Trung ương, vừa trao đổi với những cán bộ đi cùng. Tuy
nhiên, theo ông, kế hoạch chiến lược được giữ tuyệt mật, ông chỉ đọc ra cho Đại
tá Võ Quang Hồ, cục phó Cục Tác chiến viết từng phần.
Khi
Bộ Chính trị bàn “kế hoạch giải phóng miền Nam”, theo Trung tướng Lê Hữu Đức:
Hai hội nghị đầu suôn sẻ, nhưng từ hội nghị thứ 3 cho đến hội nghị thứ 6, sau
khi Lê Duẩn gợi ý thảo luận phương án tổng khởi nghĩa, tức là dùng chủ lực đánh
vào đầu não như hồi Mậu Thân rồi phát động nhân dân nổi dậy. Bộ Chính trị
chuyển sang sôi nổi bàn về phương án tổng khởi nghĩa. 7/11 uỷ viên Bộ Chính trị
ủng hộ ý kiến này của Lê Duẩn. Tướng Giáp chỉ còn có hai uỷ viên ủng hộ phương
án tổng công kích.
Theo
tướng Lê Hữu Đức: “Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, tướng Giáp thường rất đơn độc,
những tướng lĩnh trong Quân uỷ như Văn Tiến Dũng, Song Hào, Lê Quang Đạo, Trần
Quý Hai thường ngả theo ý kiến của ông Lê Duẩn. Lê Trọng Tấn là một vị tướng
tài và trung thành với tướng Giáp nhưng khi ấy ông chưa là uỷ viên Trung ương”.
Tuy nhiên, theo tướng Lê Hữu Đức, “rất may là Bộ Chính trị đã không buộc thiểu
số phục tùng đa số” và tướng Giáp thì đã kiên trì thuyết phục.
Từ
Hội nghị lần thứ 7, Bộ Chính trị bắt đầu chấp nhận phương án “tổng công kích”
của tướng Giáp. Tướng Lê Hữu Đức, thời gian ấy là cục trưởng Cục Tác chiến,
thường xuyên phải làm việc với Lê Duẩn và trực tiếp ghi chép các ý kiến khác
nhau trong Bộ Chính trị, kể: “Anh Lê Duẩn cứ cằn nhằn tôi: sao Cục Tác chiến
không thích tổng khởi nghĩa. Khi phương án ‘tổng công kích’ được chọn rồi, ông lại
nói: đã tổng công kích sao không công kích thẳng vào Sài Gòn mà lại chọn Buôn
Mê Thuột?”.
Kế
hoạch đánh Buôn Mê Thuột được tướng Giáp trao đổi với tướng Dũng chi tiết trong
một cuộc gặp có mặt tướng Hoàng Văn Thái ngay trước khi Văn Tiến Dũng vào miền
Nam. Theo tướng Giáp: từ giữa năm 1973, Tổ Trung tâm đã chọn hướng chiến lược
là Tây Nguyên và trong một buổi làm việc, tướng Hoàng Minh Thảo cho rằng, khi
đã chọn hướng Tây Nguyên thì trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột(259). Tướng Giáp,
tướng Dũng đều nhất trí với lựa chọn này.
Theo
tướng Lê Hữu Đức: “Tháng 1-1975, ngay sau khi Lê Duẩn tán thành mở đầu cuộc
tổng tiến công vào Buôn Mê Thuột tướng Giáp ra lệnh cho tướng Lê Trọng Tấn:
kiên quyết phải làm đường vào sát Buôn Mê Thuột, phải có xe tăng, pháo lớn mới
đánh đòn quyết định được. Khi ta làm chủ Buôn Mê Thuột, tướng Giáp nói với
chúng tôi: tình hình này không loại trừ địch rút khỏi Tây Nguyên. Hôm đó là
ngày 11-3-1975, ngày 26-3-1975, đúng như dự đoán của anh, Nguỵ rút”.
Sáng
11-3-1975, ngay sau khi có tin tướng Văn Tiến Dũng làm chủ hoàn toàn Buôn Ma
Thuột, bao vây Kon Tum, Pleiku, Bộ Chính trị và Thường trực Quân uỷ Trung ương
nhóm họp, nhất trí đánh giá: “Ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ
nhanh hơn dự kiến và đồng ý kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu”. Trong một
không khí rất hào hứng, gần cuối buổi họp, Lê Duẩn nói: “Trước ta dự định hai
năm giải phóng miền Nam, nay tiếp theo Phước Long có Buôn Ma Thuột, ta có thể
đẩy mạnh hơn không?
Đề
nghị Bộ Chính trị và các anh bên Quân uỷ suy nghĩ xem ta đã có thể chuyển sang
tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam chưa?”. Theo tướng Lê Hữu Đức:
“Anh Văn là người đầu tiên nhất trí với đề xuất của anh Ba. Tiếp đó, các đồng
chí trong Bộ Chính trị đều tán thành”(260).
Từ
ngày 11-3-1975 cho đến khi quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp hầu như làm việc tại Cục Tác chiến. Ông trực tiếp đọc hết các
điện chiến trường gửi về. Cục trưởng Tác chiến Lê Hữu Đức có trách nhiệm hằng
ngày vào lúc 19 giờ, tới nhà riêng ông Lê Duẩn báo cáo diễn tiến chiến trường
và các kế hoạch tác chiến. Với tư cách là tổng tư lệnh trong chiến dịch, tướng
Giáp nắm vấn đề bao quát và đặc biệt liên hệ chặt chẽ với các tư lệnh chiến
trường.
Theo
tướng Lê Hữu Đức, sau khi quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, tướng Giáp
và Thường trực Quân uỷ nhất trí nên tác chiến phát triển về phía Đông, bố trí
cụ thể sẽ do tướng Văn Tiến Dũng quyết định. Tướng Lê Hữu Đức nói: “Anh Văn chỉ
thị tôi sang báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của anh Ba. Nghe xong, anh Ba tỏ ý phân
vân. Từ năm 1972, anh Ba vẫn muốn tập trung lực lượng chủ lực, để khi có điều kiện,
đánh uy hiếp Sài Gòn, giành thắng lợi quyết định. Ý anh là khi Tây Nguyên giải
phóng, việc tiêu diệt địch và giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung nên giao
cho Quân khu V, lực lượng còn lại của Tây Nguyên nên tiến về Lộc Ninh, đánh vào
Sài Gòn càng sớm càng hay. Nhưng, khi ấy các mặt chuẩn bị chiến trường, hiệp
đồng tác chiến quy mô lớn chưa được chuẩn bị. May mà lúc ấy, anh Dũng cũng điện
ra đề nghị cho phát triển về hướng Đông, phù hợp với Quân uỷ Trung ương. Chúng
tôi báo cáo lần nữa và được anh Ba đồng ý”(261).
Nhận
được tin, Tư lệnh chiến trường Văn Tiến Dũng gửi Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp
bức điện số 107: “Đêm qua tôi không ngủ được về ý định của tôi với chỉ thị phải
tập trung Sư 10 về. May quá hai mươi lăm phút sau thì nhận được điện của anh.
Tôi mừng quá về sự tâm đầu ý hợp của lãnh đạo và người ở chiến trường”(262).
Tướng
Giáp dự định đi ngay vào Vĩnh Linh. Trực thăng đã sẵn sàng. Nhưng ông quyết
định ở lại vì “tình hình chiến trường phát triển quá nhanh”, Tổng Tư lệnh không
thể ròi Tổng Hành dinh. Sau ngày 18-3-1975, khi Bộ Chính trị họp tại Nhà Con
Rồng, nhất trí đề nghị của Quân uỷ, “giải phóng miền Nam trong năm 1975”, tướng
Giáp đi vào Ninh Bình, ông quyết định đưa vào Nam Quân đoàn I, Quân đoàn cuối
cùng ở miền Bắc. Khi ấy Quân đoàn I đang giúp dân đắp đê ở Ninh Bình theo kế
hoạch nghi binh, nhận lệnh báo động, nhanh chóng theo trục Quốc lộ l hành quân
vào Nam, chỉ để lại Sư đoàn 308 ở khu vực Hà Tây làm nhiệm vụ dự bị và bảo vệ
Hà Nội.
Trước
đó, từ ngày 17-3, tướng Giáp liên tiếp gửi các “điện” đến Bộ Tư lệnh Trị Thiên
và Bộ Tư lệnh Quân đoàn II đôn đốc đưa lực lượng xuống đồng bằng, chia cắt
chiến lược giữa Huế và Đà Nẵng, cho phép sử dụng xe tăng và pháo lớn để tăng
thêm sức đột kích, nâng cao tốc độ tấn công. Tướng Giáp phê bình tướng Lê Trọng
Tấn khi ông định lập kế hoạch trong vòng năm ngày, trong khi theo tướng Giáp,
khả năng quân đội Sài Gòn rút chạy là cao và tướng Tấn chỉ có ba ngày để giải
quyết chiến trường Đà Nẵng.
Ngày
24-3, Bộ Chính trị và Quân uỷ họp, hạ quyết tâm: “Hành động nhanh chóng táo
bạo, bất ngờ đánh cho địch không kịp trở tay, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa
1975”. Bộ Chính trị cũng thông qua kế hoạch lập Mặt
trận
Quảng Đà, lấy mật danh là “Mặt trận 475” do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm tư
lệnh, Thượng tướng Chu Huy Mân làm chính uỷ, Trung tá Lê Phi Long được cử làm
trưởng Phòng Tác chiến cánh quân này.
Sáng
25-3, tướng Lê Trọng Tấn nhận những chỉ thị cuối cùng của tướng Giáp và ngay
chiều hôm đó, ông cùng bộ phận chủ yếu của cơ quan chiến dịch đi máy bay vào sân
bay Quảng Bình, sau đó được chuyển tiếp bằng trực thăng vào Quảng Trị. Bộ Tư
lệnh 475 đến vùng núi Tây Huế và chuyển theo đường 72 ra Động Truồi, định để
chỉ huy đánh Huế, Đà Nẵng, nhưng theo ông Lê Phi Long: “Giữa đường thì được tin
quân ta đã giải phóng Huế vào chiều 25-3”. Không còn phải đánh nhau ở Huế, Quân
đoàn I được lệnh quay lại Quảng Trị, chuyển trục hành quân từ Quốc lộ l sang
đường Trường Sơn. Ba vạn người cùng với l.053 xe pháo các loại, rầm rộ tham gia
cuộc hành quân thần tốc, ngày 16-4 thì vào đến Đồng Xoài.
Thấy
tình hình “chắc ăn”, ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị, Lê Đức Thọ “xung phong”
vào chiến trường, ông rời Hà Nội vào ngày 28-3-1975. Như vậy, tại Bộ Chỉ huy
Chiến dịch “giải phóng miền Nam” có tới ba uỷ viên Bộ Chính trị: Lê Đức Thọ,
Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Ngày 14-4-1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch điện ra Hà
Nội đề nghị đặt tên chiến dịch: Hồ Chí Minh. Một tuần trước đó, ngày 7-4, tướng
Giáp đã lệnh cho “Cánh quân Duyên Hải”(263) phải “thần tốc và táo bạo”(263) còn
tướng Lê Trọng Tấn thì khi ấy cũng đã chuẩn bị mọi mặt để thắng trong “trận
cuối cùng”.
Theo
kế hoạch, ngày 27-4-1975 các hướng sẽ bắt đầu tiến đánh để ngày 29-4-1975, cả
“Năm cánh quân” đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Tuy nhiên, theo tướng Lê Hữu Đức,
tối 24-4(265), Tư lệnh Cánh quân Duyên Hải, tướng Lê Trọng Tấn đã điện ra xin
cho Quân đoàn II và Quân đoàn IV tiến công vào lúc 17 giờ ngày 26-4, vì nếu
ngày 27 mới bắt đầu như các cánh quân khác thì sẽ không kịp “cùng lúc nổ súng”.
Cánh quân Duyên Hải lúc đó còn phải vượt qua hai con sông lớn: sông Đồng Nai và
sông Sài Gòn.
Đọc
bức điện khi đêm đã khuya vì vừa phải lần lượt đến tận nhà riêng của các vị Lê
Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng báo cáo, nhưng thấy tình hình khẩn cấp, tướng
Đức quyết định đánh thức tướng Giáp. Xem xong bức điện, tướng Giáp đồng ý ngay
với tướng Tấn. Tuy nhiên, rất thận trọng, ông đã cùng với cục trưởng Tác chiến
mang bản đồ đến nhà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn.
Sau
khi để tướng Đức đọc bức điện của tướng Tấn xong, Võ Nguyên Giáp nói: “Đề nghị
anh Ba cho đánh theo điện báo cáo của Tấn”. Theo ông Lê Hữu Đức: Anh Ba nói
ngay: “Đánh, đánh, cứ đánh ngay anh ạ! Bây giờ không chờ nhau nữa. Lúc này cánh
quân nào thuận lợi thì cứ phát triển”. Anh Văn hỏi thêm anh Ba: “Điện trả lời
ký tên anh chứ?”(266). Anh Ba nói: “Không, anh là tổng tư lệnh, cứ ký tên anh
thôi”. Sau một thoáng suy nghĩ, anh Ba nói thêm: “Nếu cần thì để cả tên tôi
cũng được, hoặc nói rõ đã trao đổi với anh Ba và anh Ba hoàn toàn đồng ý”(267).
Cũng trong ngày 24-4, tướng Tấn cử Trưởng phòng Tác chiến Cánh quân phía Đông
Lê Phi Long trực tiếp đến Sở Chỉ huy Chiến dịch và tướng Dũng cũng đồng ý để Cánh
quân phía Đông đánh trước.
Ngày
30-4-1975, 10 giờ 50, Cục II báo cáo Tổng Hành dinh: “Quân ta đã vào dinh Tổng
thống Nguỵ”; 11 giờ 30, cục phó Cơ yếu mang vào phòng họp bức điện của tướng Lê
Trọng Tấn báo cáo, “một đơn vị thuộc Cánh quân phía Đông đã cắm cờ trên Dinh
Độc Lập”. Chiều hôm ấy, tướng Giáp kể: “Tôi lên xe đi một vòng quanh Hà Nội. Cả
một rừng cờ hoa dậy lên tự lúc nào. Người đi chật phố, chật đường như trẩy
hội”.
“Thống
chế đi đặt vòng”
Tháng
12-1976, tại Đại hội IV, tuy vẫn còn là bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nhưng theo thứ
bậc mới trong Bộ Chính trị, tướng Giáp bị xếp sau Lê Đức Thọ. Năm 1977, tướng
Giáp thôi chức bí thư Quân uỷ Trung ương, theo Điều lệ mới, chức vụ này sẽ
thuộc về Tổng bí thư. Năm 1980, ông phải giao chức bộ trưởng Quốc phòng cho Đại
tướng Văn Tiến Dũng(268). Trước Đại hội Đảng lần thứ V, “Vụ án chống Đảng”
tưởng đã khép lại từ năm 1967, lại được ông Lê Đức Thọ đưa ra bàn trong Bộ
Chính trị.
Trong
buổi Bộ Chính trị họp nghe “Vụ án chống Đảng”, theo ông Võ Văn Kiệt(269): “Anh
Thọ cũng đưa ra những thông tin như Trần Quỳnh(270) kể nhưng anh Giáp bác bỏ.
Tuy nhiên, anh Thọ vẫn kết luận. Bộ Chính trị không có cơ sở gì để quyết khác
với những điều anh Thọ nói. Anh Lê Duẩn không nói gì, anh Phạm Văn Đồng không
nói gì. Có thể có những uỷ viên Bộ Chính trị biết vấn đề anh Giáp nhưng tôi thì
không biết”.
Về
sau ông Kiệt chất vấn ông Phạm Văn Đồng: “Anh hiểu anh Giáp, anh có tiếng nói
trong Bộ Chính trị, đó là cái gì?”. Ông Đồng chỉ nói: “Tôi cũng biết uy tín anh
Giáp trong dân”, rồi cười. Ông Kiệt nói: “Uy tín trong dân của một con người là
không thể xem thường. Nếu khai thác được uy tín đó của anh Giáp thì sẽ có lợi
cho dân cho nước. Tôi không đồng tình với cách cư xử của một số anh với anh
Giáp. Tôi kính trọng sức kiềm chế của anh. Đó cũng là bản lĩnh, nghị lực của
một nhân vật lớn”.
Theo
Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu
ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới
đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa
hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về
vấn đề của tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ
Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức
Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua
trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông
Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”.
Tại
Đại hội V, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Lê Văn Lương và
Nguyễn Văn Linh được đưa ra khỏi Bộ Chính trị. Ông Hoàng Tùng cho rằng: “Lê Đức
Thọ phải đưa cùng lúc năm người ra khỏi Bộ Chính trị để khỏi mang tiếng nhưng
thực chất của việc thay đổi này là nhằm vào ông Giáp”. Tuy nhiên, theo ông
Hoàng Tùng: “Trước đó, cả ông Thọ và ông Lê Duẩn đều nhiều lần công khai đánh
giá thấp khả năng, kể cả khả năng cầm quân, của tướng Giáp”.
Năm
1983, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao kiêm nhiệm chức chủ tịch Uỷ ban Quốc
gia về sinh đẻ có kế hoạch trong khi Tố Hữu vào Bộ Chính trị giữ chức phó thủ
tướng thường trực. Dân gian truyền nhau:
“Nhà thơ làm kinh tế
Thống
chế đi đặt vòng”.
Năm
1984, Nhà nước tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm “30 năm chiến thắng Điện Biên
Phủ”, báo chí đăng hàng loạt hồi ký, bài viết của cả người Việt và người Pháp.
Các bài viết đăng trên báo Nhân Dân từ tháng 3 đến tháng 5-1984, trong khi nói
rất kỹ về Henri Navarre và Christian de Castries, đã không hề nhắc tên Võ
Nguyên Giáp, vị tư lệnh chiến dịch đã đánh bại hai viên tướng Pháp này.
Ngày
7-5-1984, đúng ngày kỷ niệm chiến thắng, báo Nhân Dân đăng trên trang nhất bức
ảnh chụp Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, nhưng thay vì nêu tên từng
cá nhân, Nhân Dân chỉ chú thích: “Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định chủ
trương tác chiến Đông-Xuân 1953-1954”. Các bài viết trên tờ Quân Đội Nhân Dân
cũng không có tên “Võ Nguyên Giáp”.
Theo
Đại tá Nguyễn Văn Huyên, khi Đại tướng Hoàng Văn Thái công bố hồi ký “Điện Biên
Phủ- Chiến dịch lịch sử”, đăng nhiều kỳ trên báo Quân Đội Nhân Dân, trong mấy
kỳ đầu, tờ báo này đã tự ý cắt bỏ tên của tướng Giáp. Khi có sự kiện bắt buộc
phải nhắc đến vai trò của ông, báo Quân Đội Nhân Dân bèn gọi theo chức vụ “tổng
tư lệnh” hoặc “bí thư Tổng Quân uỷ” thay vì gọi “Đại tướng Võ Nguyên Giáp” hoặc
“anh Văn” thân mật. Tướng Hoàng Văn Thái
nổi giận đòi ngưng, tên của tướng Giáp thỉnh thoảng mới xuất hiện trở lại trên tờ
Quân Đội Nhân Dân trong hồi ký của ông Hoàng Văn Thái.
Tờ
Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân trong hai ngày 7 và 8-5-1984 đã dành gần như toàn
bộ 4 trang A3 để nói
về
Điện Biên. Nhưng, trong xã luận, trong các bài diễn văn đã không hề có tên
tướng Giáp. Trên số báo ra ngày 8-5-1985, hai tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân
cùng đưa tin về lễ “Mít tinh trọng thể kỷ niệm lần thứ 30 chiến thắng Điện Biên
Phủ” tổ chức tại Hà Nội vào chiều 7-5, cùng nhắc tới Võ Nguyên Giáp trong danh
sách “Đoàn Chủ tịch cuộc mít tinh”, nhưng chỉ bằng một cái tên trống không -
xếp sau Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Nguyễn Hữu Thọ - không “đại
tướng” và không nói gì tới vai trò của ông trong “chiến thắng” mà “cả nước”
đang “nức lòng ca ngợi” ấy(271).
Trong
khi đó, báo chí đầu thập niên 1980 lại đăng dồn dập nhiều loạt bài mô tả vai
trò của Bí thư Lê Duẩn như là một “tổng tư lệnh trên thực tế” của cuộc “kháng
chiến chống Mỹ”(272). Trong loạt bài Thời Thắng Mỹ, Thép Mới dẫn lời Lê Đức Thọ
kể chuyện năm 1955, Lê Duẩn đã tiên tri cuộc chia tay Bắc-Nam sẽ kéo dài hai
mươi năm (273). Cũng trong loạt bài này, Lê Duẩn được mô tả như là một người đề
xuất hầu hết các chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. “Bác là người đầu
tiên tán đồng những ý kiến đề xuất của anh Ba trước Bộ Chính trị, ngay sau khi
anh ra Bắc”(274). Theo Thép Mới thì: “Sự vĩ đại của Bác Hồ là lắng nghe” anh Ba
và sau khi nghe, Bác bảo với anh: “Chú nói đúng”(275).
Tháng
3-1985, tướng Giáp, lúc này đã không còn chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vào Huế
dự lễ mừng “10 năm giải phóng”. Cùng đi với ông có tướng Lê Trọng Tấn, Tổng
tham mưu trưởng và tướng Lê Phi Long. Họ được đón tiếp khá nồng hậu và được bố
trí nghỉ tại khu nhà nghỉ xưa kia của Ngô Đình Cẩn.
Tướng
Lê Phi Long kể: “Anh Văn gọi tôi tới cùng đi dạo chơi quanh vườn và nói: ‘Lâu
nay các cậu có nghe người ta nói gì không?’. Tôi trả lời. Anh bảo: ‘Sao không
thấy nói lại! Trong tình hình phức tạp hiện nay, con người ta có thể bị phân
hoá thành ba thái độ : một là thẳng thắn
đấu tranh bảo vệ sự thật, chân lý; hai là trong khi chưa có điều kiện nói ra sự
thật thì ngồi yên kiên trì chờ đợi; ba là cơ hội, xuyên tạc, sẵn sàng đổi trắng
thay đen, bóp méo sự thật. Các cậu có đủ dũng khí thì theo cách một, chưa có
điều kiện thì chọn cách hai, còn cách ba, thì phải tuyệt đối tránh”.
Hôm
sau, đoàn của tướng Giáp vào Đà Nẵng
bằng đường bộ. Trên đèo Hải Vân, khác với không khí nồng hậu mà Huế dành cho
Đại tướng, Đà Nẵng chỉ cử một tỉnh uỷ viên trẻ măng, vô danh ra đón, không có
đại diện Quân khu, Tỉnh đội. Tướng Lê Phi Long nhớ lại: “Chúng tôi rất bực mình, nhưng anh Văn vẫn
bình thản”.
Đêm
ấy, đoàn nghỉ ở nhà khách Mỹ Khê, sáng hôm sau, theo chương trình, sẽ đến đặt
vòng hoa tại đài liệt sỹ trước khi dự lễ mừng chiến thắng. Nhưng đợi mãi, không
thấy ai phát thư mời và phù hiệu cho đoàn của “anh Văn”. Các sỹ quan đi cùng
hỏi thì được trả lời: “Ai không có giấy thì coi như không được mời”.
Lễ
mừng Chiến thắng Đà Nẵng năm ấy được tổ chức trọng thể vì có Tổng bí thư Lê
Duẩn tới dự. Tướng Lê Phi Long kể: “Chúng tôi rất băn khoăn, liền xin ý kiến
của anh Tấn và anh Văn”. Trong đoàn có ý kiến đề nghị thôi không dự lễ nữa.
Tướng Giáp suy nghĩ rất lâu rồi nhẹ nhàng nói: “Chúng ta vào đây không phải vì
lễ lạt mà còn để viếng những đồng đội, đồng chí đã ngã xuống trên mảnh đất này.
Đã tổ chức viếng thì phải tổ chức trang trọng, chu đáo theo đúng nghi thức quân
đội”.
Lập
tức, tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Bộ Tư lệnh Quân khu V tổ chức một lễ viếng riêng
có đủ tiêu binh, quân nhạc và đích thân một vị trong Bộ Tư lệnh phải tháp tùng.
Sáng hôm sau, xung quanh đài liệt sỹ, dân chúng kéo đến rất đông. Những người
dân ấy không phải đến vì được triệu tập mà đến để nhìn tướng Giáp.
Trong
lễ “kỷ niệm 10 năm giải phóng miền Nam” tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30-4-1985.
Võ Nguyễn Giáp vẫn được ngồi trên “Đoàn Chủ tịch”, nhưng trong danh sách mà báo
Nhân Dân ngày 1-5-1985 đăng, ông được xếp đứng sau chín người, trong đó có
nhiều người từng là cấp dưới của ông trong chiến tranh như Văn Tiến Dũng, Võ
Chí Công, Chu Huy Mân, Đỗ Mười, Nguyễn Cơ Thạch,… Đây là thứ bậc dựa trên chức
vụ trong Đảng mà ông nắm giữ trong thời điểm 1985. Tên ông chỉ được đặt bên
cạnh hai chức danh: uỷ viên Trung ương Đảng, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Từ
sau khi tướng Giáp rời khỏi Bộ Quốc phòng, báo chí nhà nước không bao giờ gọi
ông là “đại tướng”. Nhưng, cũng trong suốt thời gian ấy, Võ Nguyên Giáp gần như
rất ít khi rời khỏi bộ quân phục của mình. Trong những chuyến công du hiếm hoi
mà ông được cử, Võ Nguyên Giáp luôn mặc bộ lễ phục cấp tướng sang trọng màu
trắng.
Ông
vẫn sống trong biệt thự 30 Hoàng Diệu. Quân đội, ngay cả trong thời kỳ Lê Đức
Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vẫn giữ lực lượng vệ binh gác nhà ông. Nhưng,
cao hơn cả mọi nghi lễ là sự ngưỡng mộ mà các tướng lĩnh, quân đội, dân chúng
dành cho ông. Tên tuổi tướng Giáp càng bị biên tập khỏi các trang báo Nhân Dân
thì nhân dân lại càng nhắc đến ông trong đời thường của họ. Là một ông thầy dạy
sử, có lẽ tướng Giáp biết được vị trí trong lịch sử của mình. Ông đã đi qua
những tháng ngày bị xếp xuống hàng cuối cùng trên những khán đài, lặng lẽ và
sừng sững.
Sau
Đại hội Đảng lần thứ VII, năm 1991, tướng Giáp chính thức rời khỏi chính
trường. Cho dù vụ “Năm Châu-Sáu Sứ”, theo ông Võ Viết Thanh, chỉ là một vụ án
được dựng lên, Bộ Chính trị đã chưa một lần minh oan như ông đề nghị. Mãi tới
năm 1994, trong lễ “kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ”, tên tuổi của ông
mới chính thức được nhắc lại trong một “diễn văn nhà nước”. Đó là bài diễn văn
của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đọc vào tối 6-5-1994:
“Xin chào mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thời
đó là tổng tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ, người đã chấp hành triệt để và
sáng tạo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, cùng Bộ Chỉ huy
Chiến dịch, chỉ đạo trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành toàn thắng”.
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Trước đó, khi trưởng
Quốc phòng Đoàn Khuê lên Điện Biên Phủ kỷ niệm 40 năm, diễn văn của Đoàn Khuê
không hề nhắc một câu tới anh Giáp”.
Cho
dù trong bài diễn văn được viết công thức và rào đón của ông Kiệt, phần nói về
tướng Giáp vỏn vẹn chỉ có năm mươi chín từ, nhưng chỉ cần cái tên tướng Giáp
được xướng lên cũng đủ làm cho Cung Văn hoá Việt-Xô oà vỡ. Thật khó biết điều
gì đang diễn ra trong lòng tướng Giáp, từ lâu ông đã có một gương mặt rất ít
biểu lộ. Nhưng những giọt nước mắt của những người có mặt hôm ấy thì không thể
kềm chế, chúng lăn rất nhanh trên má họ; trong khi, tiếng vỗ tay kéo dài.
Chú
thích
(172)
Nguyễn Thị Sứ sinh năm 1934 tại Kiên Giang, thường trú tại quận 5, Thành phố Hồ
Chí Minh. Từng tham gia lực lượng Thanh niên Tiền Phong nhưng sau năm 1954 chọn
ở lại miền Nam.
(173)
Khi chính quyền Ngô Đình Diệm lập ấp chiến lược, ba má ông Võ Viết Thanh đã lớn
tuổi, chống không vô ấp. Tối 26-8-1962, một toán lính đồn Lương Phú, huyện
Giồng Trôm, Bến Tre, đóng giả giải phóng quân vào nhà “mời hai bác ra gặp giải
phóng quân về”. Ông bà cảnh giác không đi, liền bị trói dẫn ra bờ sông cắt cổ.
Sáng
hôm sau, Chính quyền Sài Gòn tung tin, “Gia đình có hai con đi tập kết, hai con
đi giải phóng quân mà Việt cộng còn về giết thế này, cho nên không ai ở ngoài
ấp chiến lược được”. Về cáo buộc bắt hai cán bộ quân báo, theo ông Võ Viết
Thanh: Chiều 30-4-1975, trinh sát bắt được hai người: Phan Mậu, nguyên trung đoàn
trưởng, Sư đoàn 5, đầu hàng Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân; Lê Đức Phượng,
một tình báo viên được Cục II đánh vào năm 1954 nhưng sau đó khi bị lộ đã phản
bội. Ông Thanh, khi ấy là Chính trị viên một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn quân báo
316, chỉ đạo thả. Nhưng, ngày 2-5-1975, ông Thanh nói: “Lữ đoàn trưởng đi giao
ban Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh về, truyền đạt lệnh: Trong khi còn tranh
tối tranh sáng cần xử lý ngay những tên đã gây tội ác. Anh yêu cầu tôi cho bắt
lại hai đối tượng đã tha vào chiều 30-4. Tôi truyền lệnh cho đại đội trinh sát
rồi từ đó bị công việc cuốn đi, không kiểm tra lại việc này nữa”. Sau Đại hội, ông
Võ Viết Thanh cho lục lại toàn bộ hồ sơ, thì được Tư lệnh Quân khu Thủ đô cho
biết, Lê Đức Phượng vừa mới được Cục II cấp tốc lập hồ sơ công nhận liệt sỹ.
Theo ông Võ Viết Thanh: “Sau này, khi đối chất trong một cuộc họp của Bộ Chính
trị, Tư Văn phải công nhận, Phượng không phải là đại uý cũng không phải là đảng
viên. Tư Văn nói: Do có sự nhầm lẫn ở phòng chính sách”.
(174)
Sau khi Võ Viết Thanh bị đưa ra khỏi danh sách ứng cử Ban chấp hành Trung ương,
ngày 24-6-1991, Lê Đức Anh viết bức thư thứ 2: “Kính gửi anh Linh, anh Tô, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư. Trước đây khi chuẩn bị nhân sự cho Đại hội VI, tôi đề
nghị với Bộ Chính trị Khoá V cho phép tôi được chuyên trách làm công tác tổng
kết kinh nghiệm chiến tranh, không làm việc gì khác. Bộ Chính trị lúc bấy giờ
không chấp nhận và nói tiếp tục làm thêm một khoá nữa. Theo sự phân công của
Đảng, tôi đã cố gắng chấp hành nghiêm túc quyết định của Đảng. Hiện nay tuổi đã
lớn mà vẫn chưa thực hiện được nguyện vọng cần thiết đó. Nay do công việc cần
thiết tôi có thể tiếp tục làm việc thêm vài năm nữa như nghiên cứu phối hợp
chiến lược quốc phòng-an ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế trước tình hình
diễn biến rất phức tạp. Nếu Đảng phân công công việc cao hơn, nặng hơn không
hợp với sở trường của tôi, trong khi tuổi đã lớn, chắc chắn tôi sẽ không làm
được, có hại cho công việc của Đảng, của Tổ quốc. Xin Đảng cho phép tôi, phân
công cho tôi chuyên trách công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh và cùng với
anh em nghiên cứu nâng cao những kinh nghiệm đó ứng dụng vào tình hình mới, và
xin được rút khỏi danh sách đề cử vào Bộ Chính trị Trung ương khoá VII. Mong
các anh chấp nhận. Lê Đức Anh”(Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân
dân 2005, trang 243). Lê Đức Anh ra viện khi Đại hội Đảng lần thứ VII bắt đầu.
Ông Võ Viết Thanh kể: “Giờ giải lao, đích thân Lê Đức Anh tìm tôi, rồi nắm lấy
tay tôi kéo ra một hàng ghế bên hành lang Hội trường. Ông nói: Việc xảy ra khi
tôi đang bị chảy máu dạ dày, phải nằm viện nên không biết. Chuyện Bảy Thanh thì
tôi biết rõ là không có vấn đề gì. Để từ từ rồi mình tính”. Ông Võ Viết Thanh
nói: “Nghe ông Lê Đức Anh nói vậy tôi cũng xúc động, nghĩ, Cục II làm như vậy
có thể chỉ do mối quan hệ giữa tôi với Tư Văn. Nhưng, khi tôi chuẩn bị rời Bộ
Nội vụ về Sài Gòn, anh Bùi Thiện Ngộ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, gọi tôi lên nói thì
tôi mới giật mình. Anh Ba Ngộ nói: Bảy Thanh ơi, tôi không biết Lê Đức Anh đối
xử với anh thế nào nhưng, sau Đại hội, ông ấy bảo tôi đừng để
Bảy
Thanh ở trong ngành mà nên chuyển ngay Bảy Thanh sang Bộ Thương mại”.
(175) Năm 1983, sau gần bảy năm lặn lội với
lực lượng Thanh Niên Xung Phong, ông được ông Võ Văn Kiệt yêu cầu về công tác
trong ngành Công an. Trong năm đó, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Công an Thành
phố. Năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, ông chính thức trở thành
uỷ viên Trung ương khi Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Mỹ Hoa chỉ là uỷ
viên dự khuyết. Trung tướng Võ Viết Thanh là anh hùng Quân đội. Bị buộc phải ra
đi ở một thời điểm mà không ai nghĩ là còn có kẻ thù. Không chỉ gạt được tướng Giáp
ra khỏi chính trường, vụ “Năm Châu - Sáu Sứ” còn chặn được con đường của ông Võ
Viết Thanh, người mà ông Võ Văn Kiệt hy vọng sẽ giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ
khi ông trở thành Thủ tướng.
(176)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh năm 1911 tại thôn An Xá, xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ
Thuỷ, Quảng Bình. Tướng Giáp kể: “Ông ngoại tôi vốn là một lãnh binh theo nghĩa
quân Cần Vương”. Những năm học ở Trường Quốc Học Huế, cậu Giáp thường tới nhà
cụ Phan Bội Châu đàm đạo và được cụ Phan cho mặc sức sử dụng kho sách của mình.
Giáp cũng chơi thân với thầy giáo Đặng Thai Mai. Năm ông mười sáu tuổi, người
Pháp đuổi học Nguyễn Chí Diểu. Giáp khởi xướng một cuộc bãi khoá để phản đối.
Vì sự kiện ấy Giáp cũng bị đuổi học, về làng. Anh Nguyễn Chí Diểu đến An Xá tìm
Giáp: “Chúng tôi đã lập Đảng Tân Việt”. Giáp bảo: “Tôi đi với anh”. Võ Nguyên
Giáp là người đã góp phần tích cực đưa Tân Việt tham gia Đông Dương Cộng sản
Đảng. Tháng 10-1930, Giáp bị bắt cùng với thầy Đặng Thai Mai và nhiều người
khác, trong đó có Nguyễn Thị Quang Thái, em gái nữ sĩ Nguyễn Thị Minh Khai. Năm
1929, Giáp cùng thấy Mai ra Hà Nội, vừa dạy sử ở trường Thăng Long, vừa tự học
lấy bằng cử nhân luật và kinh tế. Một trong những học trò của tướng Giáp, ông
Bùi Diễm, người đã từng là Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hoà năm 1965,
viết: “Những gì về ông Giáp hồi ấy thật đặc biệt, vì vậy mà hơn nửa thế kỷ sau,
tôi vẫn còn nhớ rõ rệt. Phần giảng dạy của ông về Nã Phá Luân rất ly kỳ… Hình
như ông đã in tất cả trong đầu và sử trở thành một phần trong con người ông.
Ông như chìm đắm vào thế giới của mình và ông lôi kéo học trò vào thế giới đó”
(Bùi Diễm, Trong Gọng Kìm Lịch Sử, Phạm Quang Khai xuất bản năm 2000, trang 21,
22, 23). Năm 1946, khi ông Đặng Thai Mai chuyển từ Sầm Sơn ra Hà Nội, Giáp tìm
tới thăm, lúc này cô con gái của thầy Mai, Đặng Bích Hà đã là một cô gái xuân
mười chín. Họ lấy nhau và có bốn người con. Sau 1954, cả gia đình tướng Giáp,
kể cả người con gái của ông và bà Quang Thái, Võ Hồng Anh, sống quây quần trong
biệt thự 30 Hoàng Diệu.
(177)
Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 36
(178) Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Quang Thái
cưới nhau năm 1935. Năm 1940, khi cùng Phạm Văn Đồng sang Vân Nam gặp Nguyễn Ái
Quốc, Giáp chia tay với người vợ trẻ khi họ vừa có Hồng Anh, con gái đầu lòng.
Sau đó, Nguyễn Thị Quang Thái bị Pháp bắt rồi chết ở trong tù vào năm 1944.
Theo lời kể của Giáo sư Võ Hồng Anh, con gái tướng Giáp: “Năm 1929, cha tôi lần
đầu tiên nghe nhắc đến cái tên Nguyễn Thị Quang Thái, cô em gái trẻ, thông minh
và rất xinh của Nguyễn Thị Minh Khai. Trong chuyến tàu cha tôi trở lại Huế, tới
Vinh thì gặp mẹ tôi lên tàu, cùng với một nữ sinh Đồng Khánh. Lúc đó mẹ tôi mặc
áo dài, tóc để xoã, da trắng, gương mặt sáng. Nhưng điểm gây ấn tượng với cha
tôi nhất là đôi mắt”.
(179)
tướng Giáp là người đội mũ phớt trong bức hình chụp “34 chiến sỹ này” nên về
sau Lê Đức Thọ đã gọi ông là “ông tướng mũ phớt”.
(180)
Năm 1948, với tư cách là uỷ viên Thường vụ Trung ương, ông Thọ được cử vào Nam,
nơi ông Lê Duẩn đang là bí thư Xứ uỷ Nam Bộ. Trong một hội nghị do Xứ uỷ tổ
chức vào năm 1949, Lê Đức Thọ đã xuất hiện như một cấp trên, chỉ trích Xứ uỷ
Nam Bộ bằng những lời lẽ nặng nề. Theo ông Võ Văn Kiệt, người có mặt trong hội
nghị này: “Mặc dù phái đoàn (anh Lê Đức Thọ) có những đánh giá không sát với
chiến trường Nam Bộ, nhưng trước hội nghị, anh Ba vẫn nhận lấy trách nhiệm một
cách nghiêm túc. Phát biểu của anh Ba như tiếp thêm nguồn sinh lực và làm cho
hội nghị trở nên hào hứng khi anh phân tích có sức thuyết phục bằng tầm bao quát
sâu rộng và những lý lẽ được minh chứng bằng thực tiễn sinh động”. Con trai
Tổng bí thư Lê Duẩn, ông Lê Kiên Thành, nói rằng, khi mới vào Nam Bộ, ông Lê
Đức Thọ là cấp trên và ông cũng có ý định thay thế Lê Duẩn giữ chức bí thư Xứ
uỷ, nhưng đã bị ông Lê Duẩn thuyết phục hoàn toàn. Ông Lê Đức Thọ sau đó đã chủ
động xin ở lại làm phó cho Lê Duẩn.
(181) Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải,
sinh ngày 10-10-1911, tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Cha là Phan
Đình Quế, làm hương trưởng, chánh hương hội ở xã, từng được ban hàm cửu phẩm.
Hai vợ chồng ông Phan Đình Quế sinh được tám người con, trong đó có ba người
theo cộng sản: Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ), Phan Đình Dinh (Đinh Đức Thiện),
Phan Đình Đống (Mai Chí Thọ). Năm mười lăm tuổi, khi đang học tại trường tiểu
học tại Nam Định, Lê Đức Thọ đã tham gia bãi khoá và dự lễ truy điệu cụ Phan
Châu Trinh. Ba năm sau ông tham gia Đông Dương Cộng sản Đảng, làm bí thư chi bộ
học sinh. Tháng 11-1930, thì bị bắt, bị kết án mười năm khổ sai và bị đày đi
Côn Đảo. Ông được tha trước thời hạn vào năm 1936. Nhưng, năm 1939, do có hai
đảng viên phản bội, gần như tất cả các tổ chức cộng sản ở bốn tỉnh Nam Định,
Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình đều bị vỡ, trên 500 nguời bị bắt, trong đó có ba
anh em Phan Đình Khải. Theo Hoàng Tùng, một người cùng quê, bị bắt chung, “Phan
Đình Khải bị tra tấn rất dã man vẫn không khai”. Sau khi ra khỏi nhà tù Sơn La,
Lê Đức Thọ bắt đầu được giao phụ trách công tổ chức và huấn luyện cán bộ (từ
tháng 9-1944) và được chỉ định làm uỷ viên Trung ương Đảng, trực tiếp phụ trách
Xứ uỷ Bắc Kỳ. Ông Thọ là một trong số các nhà lãnh đạo của Đảng dự hội nghị mở
rộng Ban Thường vụ Trung ương đêm 9-3-1945, hội nghị đề ra chủ trương “phát
động một cao trào cách mạng đi tới cuộc tổng khởi nghĩa”. Ông được cử vào Ban
Thường vụ Trung ương tại hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, tháng
8-1945 và kể từ sau Cách mạng tháng Tám được chính thức giao phụ trách công tác
tổ chức của Đảng. Từ năm 1956, sau khi ông Lê Văn Lương nhận án kỷ luật trong
vụ cải cách ruộng đất, Lê Đức Thọ chính thức làm trưởng Ban Tổ chức Trung ương
(182)
Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 36
(183) Báo Nhân Dân số ra ngày
12-7-1956.
(184)
Bài diễn văn ngày 9-7-1956 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đoạn: “Tháng 7-1956
đã đến, cuộc tổng tuyển cử đúng kỳ hạn theo hiệp định Geneva quy định đang bị
đế quốc Mỹ và chính quyền miền Nam phá hoại. Nhưng, trong thời gian hai năm qua
nhân dân ta đã thu được những thắng lợi to lớn: miền Bắc được giải phóng và
bước đầu được củng cố, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam được giữ vững
và rèn luyện, sự đồng tình quốc tế ngày càng vững thêm… Chủ trương của chúng ta
là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, và chúng ta nhận định rằng
trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà
của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hoà bình… Chúng ta đã
kháng chiến lâu dài để tranh thủ hoà bình, hoà bình được lập lại là một thắng
lợi của nhân dân ta. Hoà bình càng được củng cố lâu dài thì thắng lợi của ta
càng có điều kiện phát triển. Chúng ta kiên quyết đấu tranh lâu dài để thực
hiện thống nhất nước nhà. Đó cũng tức là cuộc thi đua hoà bình giữa chế độ
chính trị của miền Bắc và chế độ chính trị của miền Nam ở trong phạm vi một
nước” (Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956).
(185) Báo Nhân Dân số ra ngày
12-7-1956.
(186)
Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(187)
Trong bài phát biểu trước cuộc mit tin ở Hà Nội ngày 9-7-1956, tướng Giáp nói:
“Trong tình thế hiện nay, chủ trương đó (thi đua hoà bình) là chủ trương chính
xác duy nhất. Nhận định trên hoàn toàn phù hợp với
sự
phân tích tình hình thế giới của Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô,
đại hội đã nêu ra những hình thức mới tiến lên chủ nghĩa xã hội trong đó có
đường lối hoà bình phát triển không dùng đến vũ trang đấu tranh” (Báo Nhân
Dân số ra ngày 12-7-1956).
(188)
Văn Kiện Đảng Toàn Tập, tập 17-1956, trang 797-798.
(189 Sách đã dẫn.
(190)
Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(191)
Sách đã dẫn.
(192)
Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 35-36.
(193)
Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002.
(194)
Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009.
(195)
Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 36.
(196)
Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster 2003, trang 26
(198)
Hai đại đội Quân Giải phóng đã đọ súng
với một lực lượng quân Việt Nam Cộng hoà đông gấp bốn lần, có thiết vận xa
M113, máy bay, pháo binh và cố vấn Mỹ. Kết quả, phía Việt Nam Cộng hoà: sáu
mươi chết, 109 bị thương; cố vấn Mỹ: 3 chết, 8 bị thương. Phía Quân Giải phóng,
ngay trong
đêm
rút lui an toàn về Đồng Tháp mươi.
(199)
Viện trưởng Viện Triết học, Hiệu phó Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc.
(200)
Tháng 4-1963, ông Ung Văn Khiêm đã bị cho thôi chức Bộ trưởng Ngoại giao sang
làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
(201)
Tháng 9-1963, Đại tá Lê Đức Anh
được
bổ nhiệm làm phó Tổng tham mưu trưởng và vào “cuối mùa đông” năm đó ông được cử
vào Nam. Theo ông Lê Đức Anh: “Trước ngày ra đi ông Văn Tiến Dũng căn dặn: ‘Vào
tới nơi anh báo cáo với hai anh Nguyễn Văn Linh và Trần Văn Trà, bàn với các
anh thực hiện Nghị quyết 15: Việc thứ nhất, ra sức xây dựng lực lượng quân sự
tại chỗ; thứ hai, miền Đông Nam Bộ thì nên mở rộng ra hướng biển Đông; thứ ba,
cố giành và khai thác nhân tài, vật lực để phát triển cách mạng’. Sau đó, ông
Lê Đức Anh sang gặp ông Lê Duẩn tại số 6 Hoàng Diệu, ông Lê Duẩn nói: ‘Ba ý
kiến đó đúng. Nhưng thêm một điều quan trọng nữa, là chú trọng xây dựng lực
lượng cách mạng và hoạt động vũ trang ở trong đô thị và vùng ven đô” (Đại tướng
Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 63). Khi ấy, ở Trung
ương Cục ông Nguyễn Văn Linh đang là bí thư; ở Bộ chỉ huy Miền, tướng Trần Văn
Trà làm tư lệnh, cả hai đều nói: “Thế thì chúng ta cứ làm theo ý của anh Ba
Duẩn và anh Văn Tiến Dũng” (Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân
dân 2005, trang 65).
(202)
Theo Đại tướng Phạm Văn Trà: “Ngày 1-12-1963, tôi được thông báo về nhận nhiệm
vụ mới… Chúng tôi hành quân vào tập kết ở Tây Hồ, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh
Hoá. Tại đây, các đồng chí Tô Ký, Đồng Văn Cống, quán triệt tình hình nhiệm vụ,
động viên và bố trí chuẩn bị lần cuối thật chu tất cho chuyến hành quân xa”
(Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009,
trang 87).
(203)
Giữa năm 1963, Sắc lệnh cấm treo cờ của các giáo phái, các
nhóm
tôn giáo và các đảng phải chính trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã tạo ra một
làn sóng chống đối. Trong cuộc biểu tình tại Huế vào ngày 8-5-1963, binh lính
đã nổ súng vào đoàn người biểu tình. Ngày 11-6-1963, tại Sài Gòn, trước ngã tư
Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt, hoà thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu. Bức ảnh
chụp vị sư già ngồi thiền trong khi lửa cháy được truyền đi khắp thế giới như
một bằng chứng về sự mất lòng dân của Ngô Đình Diệm. “Giọt nước tràn ly” khi
ngày 21-8-1963, lực lượng của Ngô Đình Nhu bất ngờ khám xét hàng loạt chùa
chiền, bắt đi hơn 1.400 nhà sư.
(204)
Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 35
(205)
Ngày 2-11-1963: 6:20, ông Diệm gọi điện thoại cho tướng Trần Văn Đôn xin đầu
hàng và được an toàn tới phi trường để ra đi cùng với Ngô Đình Nhu; 6:45 tướng
Khiêm được ông Diệm cho biết nơi hai anh em ông đang trốn; 7:00 tướng Big Minh
sai Mai Hữu Xuân đi đưa ông Diệm về Bộ Tổng Tham Mưu; 8:30 hai anh em Diệm và
Nhu bị giết trong một chiếc xe M113, trên xe khi ấy có Đại uý Nguyễn Văn Nhung,
cận vệ tướng Big Minh. Không rõ ai đã ra lệnh giết hai ông Diệm - Nhu vì sau đó
ít lâu Đại uý Nhung đã chết và được công bố là “tự tử”.
(206) Mật danh các chiến trường miền Nam: B-2
gồm các tỉnh Nam Bộ; B-3 Tây Nguyên. Các chiến trường Campuchia gọi là K; Lào
gọi là C.
(207)
tướng Giáp khẳng định với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara trong cuộc gặp ngày
23-6-1997 tại Hà Nội. Năm 2005, tài liệu giải mật của Nhà Trắng cho thấy
Johnson biết là không có cuộc tấn công thứ hai vào ngày 4-8. Tuy nhiên, sự kiện
ấy đã không được Nhà Trắng báo cho Quốc hội và ngay cả Bộ trưởng Quốc phòng
cũng bất ngờ khi nghe tướng Giáp nói.
Tổng
thống
(208)
Đại tướng Phạm Văn Trà kể: “Ngày 14-8-1964, đoàn chúng tôi chính thức lên
đường. Đoàn xe ô tô của Tổng cục Hậu cần đưa chúng tôi về Nam theo đường số 1.
Toàn đoàn trên dưới 160 anh em, hầu hết là sĩ quan cấp uý… Trước đó hơn một
tuần, không quân Mỹ đã ào ạt đánh phá Đồng Hới, Quảng Bình, Vinh - Cửa Hội,
Nghệ An, Lạch Trường, Thanh Hoá, Hòn Gai, Quảng Ninh… Bà con ở Vinh kể lại,
ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ ném bom trúng kho xăng Bến Thuỷ, mặc dầu xăng dầu ta
chuyển sơ tán từ trước, chỉ còn dầu cặn, nhưng khói lửa vẫn bùng cao hàng nghìn
mét” (Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009,
trang 92).
(209)
Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa, tướng Trần Quý Hai là người thân tín của Lê Duẩn và
Lê Đức Thọ.
(210)
Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 42
(211)
Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 124.
(212)
Mikhalowski, được nói là “đặt nhiều hy vọng vào cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí
Minh”, ông nói: “Tôi được uỷ nhiệm của các đồng chí lãnh đạo chúng tôi đến tìm
hiểu ý kiến của các đồng chí về việc này… Tôi nghĩ rằng nếu Tổng thống Mỹ thấy
các đồng chí bác bỏ khả năng đàm phán thì chỉ còn con đường đẩy mạnh chiến
tranh” (Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách dã dẫn, trang 127-128). Nhưng, Hồ
Chí Minh còn tỏ ra cứng rắn hơn cả Phạm Văn Đồng: “Tại sao Mỹ phải đi gõ cửa
khắp nơi? Chính Mỹ gửi quân đội Mỹ đến đây, bây giờ Mỹ phải đình chỉ xâm lươc,
như vậy vấn đề sẽ giải quyết. Mỹ phải cút đi!… Chúng tôi không muốn trở thành
người chiến thắng. Chúng tôi chỉ muốn Mỹ cút đi! Gut-bai (Goodbye)” (sách dã
dẫn, trang 128). Mikhalowski cố gắng: “Chiến tranh ghê gớm sẽ kéo dài năm năm,
mười năm. Tại sao không vận dụng chiên thuật chính trị để đạt được kết quả
tương tự? Rất có thể là Mỹ bây giờ cũng muốn rút lui theo một phương thức nào
đó” (sách dã dẫn, trang 129). Hồ Chí Minh: “Mỹ có mạnh hơn Pháp, nhưng ngay nay
chúng tôi cũng mạnh hơn trước kia… Khi chống Pháp, chúng tôi có một mình, bây
giờ có cả phe xã hội chủ nghĩa ủng hộ chúng tôi” (sách dã dẫn, trang 129).
Mikhalowski: “Nhưng phe xã hội chủ nghĩa của chúng ta không nhất trí. Chỉ có
các đồng chí là đổ máu. Gia phải trả sẽ rất cao” (sách dã trang 129). Hồ Chí Minh:
“Nhân dân Việt Nam không sợ. Nếu đời chúng tôi không hoàn thành thì con cháu
chúng tôi sẽ hoàn thành” (sách dã dẫn, trang 129).
(213)
Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger
tại Paris, Nhà Xuất bản
Công
an Nhân dân 2002, trang 147.
(214)
Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 147.
(215)
Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 148.
(216)
Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 149.
(217)
Raymond Aubrac, 1914-2012, và vợ ông, bà Lucie, 1912-2007, là hai nhân vật kiệt
xuất trong cuộc Kháng chiến của người Pháp chống Phát xít Đức (1940-1944).
Trong thời gian lãnh đạo chính quyền ở Marseille, nửa cuối năm 1944, Raymond
Aubrac đã tận tình giúp đỡ giới “lính thợ” (ONS) người Việt ở vùng này, những
người mà về sau trở thành những hạt nhân đầu tiên của phong trào Việt kiều ở
Pháp. Mùa hè 1946, khi tới Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm gặp Raymond
Aubrac. Chỉ sau một lần tiếp xúc, chủ tịch Hồ Chí Minh và những người thân cận
trong phái đoàn (Vũ Đình Huỳnh, thư ký riêng, đóng vai ‘tuỳ viên quân sự’, Phạm
Văn Đồng, người sẽ cầm đầu phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hội nghị
Fontainebleau…) đã trở thành “khách” thường trú tại ngôi nhà của ông bà ở
Soisy-sous-Montmorency (cách Paris 16 km về phía bắc). Cũng trong thời gian
này, bà Lucie đã sinh hạ con gái út là Elisabeth (Babette) mà Hồ Chủ tịch nhận
làm cha đỡ đầu. Ngoài chuyến đi đến Hà Nội năm 1967, năm 1975, khi chiến tranh
vừa chấm dứt, Raymond Aubrac đã thuyết phục được McNamara trao cho chính phủ
Việt Nam toàn bộ các bản đồ các bãi mìn dọc theo “bức tường McNamara” (theo
Nguyễn Ngọc Giao).
(218)
Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại
Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 215.
(219)
Phạm Văn Đồng đã nói cụ thể với hai sứ giả của Washington: “Có hai loại vấn đề:
thương lượng và giải pháp. Muốn có thương lượng, chúng tôi đứng trên lập trường
nguyên tắc của chúng tôi: phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc
mới có thể thương lượng. Trong quá trình thương lượng, chúng tôi biết chúng tôi
phải nói gì. Mỹ hãy chuẩn bị về phía họ!”. Aubrac: “Thế nào là việc ném bom
không điều kiện?”. Phạm Văn Đồng: “Tôi muốn họ ra một tuyên bố. Nhưng chúng tôi
không quá khó tính”. Marcovich: “Có lẽ là một việc ngừng ném bom trên thực tế,
không tuyên bố”. Phạm Văn Đồng: “Chúng tôi không khó tính về điểm này. Điều chủ
yếu là ngừng không điều kiện. Chúng tôi sẽ không nói chuyên dưới sự đe doạ của
bom đạn”. Marcovich nhắc lại điều mà một năm trước đó Sainteny đã nói: “Hoa Kỳ
không muốn chịu mất thể diện. Kissinger đã nói với chúng tôi: làm thế nào giúp
họ rút đi” (Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ -
Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 218).
(220)
Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger
tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 228.
(221)
Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger
tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 228-229.
(222)
Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 42
(223) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”,
báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(224)
Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(225)
Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(226)
Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(227)
Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008.
(228)
Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(229) Theo Vũ Kỳ: “Hai Bác cháu lại ngồi im
lặng bên nhau, nghe tin tức, ca nhạc và nghe ngâm thơ Tết, chờ đón giao thừa.
Thời gian trôi đi chầm chậm. Thấy vẻ Bác trầm ngâm đượm buồn… Từ ngày Bác trở
về nước sau hơn ba mươi năm xa tổ quốc, có năm nào mùa Tết đến mà Bác không đến
với đồng bào và chiến sĩ đâu… Chỉ có xuân này Bác phải xa tổ quốc. Bác bảo tôi:
chú mở cái băng gì vui vui cho Bác nghe với. Tôi biết Bác thương nhớ nhất các
cháu nhỏ nên tôi chọn một băng có nhiều bài hát thiếu nhi mở cho Bác nghe. Khi
một giọng hát ngây thơ của một em bé hát bài “Bé bé bồng bông… em đi sơ tán,
mai về phố Đông”, tôi thấy Bác mỉm cười. Có tiếng pháo nổ ran tiễn Đinh Mùi đón
Mậu Thân. Cùng lúc, từ chiếc đài bán dẫn, lời chúc Tết của Bác Hồ vang lên sang
sảng:
Xuân
này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng
lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam
Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về
ta!
Tiếng
Bác Hồ ngân vang. Trong căn phòng vắng chỉ có hai người”. Bài thơ trên đây được
Hồ Chí Minh làm trong gần ba tháng khi đang ở Bắc Kinh và đã được thu thanh khi
ông về Hà Nội hồi cuối tháng 12-1967 (Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”,
báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998).
(230)
Đặng Kim Giang là một trong bốn chỉ huy quan trọng nhất của chiến dịch Điện
Biên Phủ, với vai trò chủ nhiệm cung cấp của mặt trận, ông đã đảm bảo mỗi ngày
năm mươi tấn gạo cho chiến dịch. Năm 1958, ông được phong quân hàm thiếu tướng.
Năm 1962, ông ra làm thứ trưởng Bộ Nông trường.
(231)
Ông Nguyễn Kiến Giang, người bị bắt giam sáu năm và quản chế ba năm, nói: “Cho
đến bây giờ tôi cũng không biết là tôi có tội gì nữa. Người ta bảo là tôi phản
động, tay sai nước ngoài, thì cũng nghe nói thế thôi, chứ còn trên thực tế, bị
giam ở xà lim mấy năm, thêm mấy năm quản chế, khoảng gần mười năm, cho đến khi
trở về Hà nội với tư cách là một người công dân, tôi cũng không biết là tôi có
tội gì. Cho tới nay cũng không ai nói với tôi là tôi có tội gì nữa”.
(232)
Ngày 27-1-1972, Ban Chấp hành Trung ương mới ra nghị quyết tước quân hàm trung tướng
của ông Nguyễn Văn Vịnh, khai trừ đảng tịch ông Vịnh, ông Ung Văn Khiêm, Bùi
Công Trừng và Lê Liêm. Ngày 13-10-1977, sau khi giữ đảng tịch, giữ quân hàm
thiếu tướng cho tướng Vịnh, Quyết định số 255 do chính Lê Đức Thọ ký, viết:
“Đồng chí Nguyễn Văn Vịnh biết Đặng Kim Giang là phần tử xấu có quan điểm chống
lại Nghị quyết 9 của Đảng vẫn quan hệ trao đổi một số quan điểm sai trái về
đường lối chống Mỹ, tiết lộ những tin tức cơ mật về quân sự, chính trị với
Giang. Giang đã sử dụng những tin ấy để hoạt động chống Đảng và cung cấp cho
người nước ngoài. Nhưng tác hại không lớn. Đồng chí Vịnh không có quan hệ về tổ
chức và hành động với nhóm chống Đảng của Đặng Kim Giang và không biết Giang
hoạt động chống Đảng có tổ chức như sai lầm của 3 uỷ viên Trung ương: Ung Văn
Khiêm, Lê Liêm, Bùi Công Trừng”.
(233)
Từ năm 1973, ông Phạm Văn Hùng là thư ký ông Võ Văn Kiệt.
(234)
Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Lê Duẫn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 39.
(235)
Theo ông Nguyễn Nhật Hồng, trưởng phòng B29, một phòng đặc biệt phụ trách chi
viện cho miền Nam: Trong năm 1967, Trung ương cho in 10.000 hòm tiền “Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam”; vì số tiền này dự định phát hành trong năm 1968
nên có mật danh là “hàng 68”. Khi ấy, ở Trung ương Cục cũng đang tồn 14.000 hòm
tiền “Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam”, mật danh là “hàng 65”. Dự
kiến, tuỳ theo tình hình, giải phóng ở cấp độ nào thì dùng “hàng” ở quy mô ấy.
(236)
tướng Giáp phát biểu với các tướng lĩnh làm công tác Tổng kết chiến tranh ngày
9-2-1999 - Theo tướng Lê Phi Long.
(237)
Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 14, tháng 12-1967: “Muốn thắng nó,
làm sập nó dữ, không phải đánh thường thường như bây giờ, mà phải chuyển qua
một giai đoạn mới, giai đoạn đó là chuyển qua tổng công kích, tổng khởi nghĩa”.
Ông giải thích: “Tổng công kích, tổng
khởi nghĩa… (theo) quan niệm của Lênin: khởi nghĩa ở đô thị là một cuộc cướp
chính quyền, là giai đoạn đầu tiên của chiến tranh cách mạng, không có cuộc khởi
nghĩa nào rồi là xong đâu, như ta làm Cách mạng Tháng Tám rồi, ta phải kháng
chiến chín năm nữa”. Nhưng, ông nhấn mạnh: “Cuộc khởi nghĩa ta nói đây là một
giai đoạn cuối cùng, không phải giai đoạn đầu, không phải là một cú, mà là một
giai đoạn… Ta có lý luận quân sự,… có những lực lượng quân sự khá mạnh, những
chủ trương lớn và những mũi nhọn khá mạnh đánh ngay vào tim nó; vùng dậy cả về
quân sự, chính trị trong một thời gian. Ở đây ta có nhảy vọt lên, nó có nhảy
vọt xuống, ghê gớm lắm, không lường thế nào cho hết đâu. Nếu Sài Gòn bị sập một
cái, nửa triệu người, vài ba chục vạn người cầm súng cho ta đánh nó thì lắm vấn
đề lớn lắm, không lường hết được” (Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008).
(238
Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008.
(239)
Đại tá Tư Chu giải thích: “Theo kế hoạch chiến đấu Đợt Một Mậu Thân thì các đơn
vị Biệt động có nhiệm vụ xung kích, cố giữ các mục tiêu trong vòng một giờ, sẽ
có các tiểu đoàn bộ binh mũi nhọn của các phân khu tiến vào tiếp ứng để đánh
chiếm toàn bộ mục tiêu, tiêu diệt cơ quan đầu não của Mỹ-Nguỵ, đồng thời có
binh biến của một số đơn vị nguỵ quân, có nổi dậy của hàng vạn thanh niên và
quần chúng ở các quận nội đô để giành quyền làm chủ các địa bàn, mục tiêu ta
chiếm được. Trên thực tế, không có binh biến cũng như nổi dậy, bộ đội chủ lực
thì có nơi không vào kịp, hoặc không vào được, chỉ có các đơn vị biệt động đánh
vào 5 mục tiêu một cách đơn độc, có đơn vị phải chiến đấu cho đến người cuối
cùng”.
(240)
Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 39.
(241) Ở Huế: Khoảng 2:40, một tiểu đoàn đặc
công người Huế, 2 trung đoàn bộ binh người miền Bắc và một tiểu đoàn hoả lực
tràn vào chiếm Thành. Trong 6 ngày đầu của cuộc tấn công, Đại tá Tỉnh trưởng
Thừa Thiên Phạm Văn Khoa phải trốn trên xà nhà của một bệnh viện. Quân Giải
phóng đã trụ được 26 ngày và một số ngày trong khoảng thời gian này, cờ xanh -
đỏ - sao vàng đã được kéo lên cột cờ cao nhất ở Huế. Nhưng, Huế đã bị tàn phá
nặng nề bởi bom đạn của cả đôi bên: 14.000 thường dân chết; 24.000 dân thường
bị thương, chưa kể gần 3.000 lính Sài Gòn và lính Mỹ; 627.000 người dân mất nhà
mất cửa. Có nhiều người Huế đã bị bắt đi, bị thủ tiêu. Huế, đã trở thành một
biểu tượng khiến cho khi nói về Mậu Thân, người dân miền Nam đã nghĩ ngay đến
màu tang tóc. Ở miền Tây, theo Đại tướng Phạm Văn Trà: “Tiểu đoàn chúng tôi,
ngày xuất quân với 7 đại đội đủ quân, xấp xỉ một nghìn tay súng, sau khi kết
thúc đợt 1, chỉ còn trên một trăm cán bộ, chiến sĩ. Có tiểu đoàn, khi đánh vào
Cần Thơ bộ đội ngồi chật cả trăm xuồng, khi ra chỉ vài chục chiếc, mỗi chiếc
chở vài ba anh em. Đành rằng, trong chiến tranh, không phải lúc nào cũng lấy việc
‘đếm xác’ của hai bên trên chiến trường để kết luận sự thắng bại; nhưng để tổn
thất lớn là điều chúng ta phải trăn trở, suy nghĩ; đặc biệt đối với chúng tôi
là những người cầm quân trên chiến trường… Tôi nhớ khi đó anh em trong đơn vị
đã truyền nhau mấy câu lục bát:
Vòng
cung đi dễ khó về
Đạn
chen bom kề hố bom;
Hay
là:
Tưởng
là lên lộ đi xe
Ai
ngờ trở lại không ghe, không xuồng.
Chủ
nhân của mấy câu lục bát ấy, một phong viên mặt trận, bị phát hiện và chịu nhận
hình thức cảnh cáo”(Phạm Văn Trà, Hồi ký Đời Chiến sỹ, Nhà Xuất bản Quân đội
Nhân dân 2009, trang 142-143). Trên thực
tế chiến trường, Cuộc Tổng công kích và khởi nghĩa đã bị nghiền nát. Tài
liệu kiểm điểm của Khu uỷ Khu IX, nơi ông Võ Văn Kiệt làm Bí thư từ năm 1970,
viết: Do“chăm bẵm vào khả năng giải phóng hoàn toàn”, Khu uỷ đã tập trung toàn
lực, tấn công vào đầu não đô thị. Quân đội Mỹ và Sài Gòn, nhân cơ hội ấy, tiến
hành “Bình định đặc biệt”,“Bình định cấp tốc” ở vùng nông thôn, gom dân vào ấp,
cán bộ đảng viên bị dạt ra khỏi dân. Quân đội Sài Gòn đóng thêm 1000 đồn bốt.
Trong số 250 xã Miền Tây Nam Bộ, cuối năm 1968, có 50 xã, đảng viên phải ly
hương; 40 xã khác, chỉ còn một hoặc hai đảng viên. Các trung đoàn chủ lực cũng
bị đánh dạt sâu về Trà Vinh, U Minh. Trong khi số lượng du kích sụt, tân binh
lại không tuyển được ngay cả trong những “xã giải phóng”… Trong Chiến dịch Mậu
Thân, ông Võ Văn Kiệt đã vào sâu tận nội thành Sài Gòn, chiều mùng Một Tết, ông
đã có mặt ở một xóm nhỏ gần đình Bình Đông, Quận Tám. Tiền phương của Sài Gòn
cũng nhận được những lệnh liên tiếp tập kích vào đô thị để “giành thắng lợi tối
đa”. Những người trực tiếp ở chiến trường như ông đã phải chứng kiến sự hy sinh
quá lớn. Ông nói: “Lúc đó tôi đau đến mức nhiều lần bật khóc”. Hơn 11 vạn quân giải phóng đã hy sinh trên
toàn chiến trường, còn thương vong của dân chúng thì không thể nào tính được. Phần
lớn căn cứ địa Quân Giải phóng ở nông thôn đã trở thành “đất trắng”. Chưa bao
giờ quân Giải phóng ở trong tình trạng như vậy, có những sỹ quan chỉ huy cấp sư
đoàn cũng chịu không nổi, phải ra đầu hàng chính quyền Sài Gòn. Ngày 9-2-1999,
khi nói chuyện với các tướng lĩnh làm Tổng kết chiến tranh, tướng Giáp nói: “Có
đồng chí chỉ huy gửi điện cho tôi nói rõ tình hình bộ đội tan tác, ẩn nấp trong
rừng mặn ngập nước ở phía Đông Nam Sài Gòn, tướng không chỉ huy được quân nữa.
Ở Huế, anh Trần Văn Quang gửi tôi một bức điện dài 16 trang, xin rút. Tôi đồng
ý và viết điện trả lời. Sáng hôm sau giao ban thấy bức điện vẫn để nguyên trên
bàn, tôi hỏi tại sao chưa gửi thì anh Văn Tiến Dũng trả lời: ‘Việc này hệ trọng
phải đem ra bàn bạc trong tập thể Quân uỷ đã, mình anh quyết định sao được’.
May mà lúc đó ở dưới, anh em đã rút. Đồng chí Tư Chu, chỉ huy Biệt Động Sài
Gòn, cũng có kể cho tôi nghe thực cảnh bộ đội sau năm 1968. Thiệt hại to lớn
quá. Giá đắt quá! Về Huế thì anh Đặng Kinh, khi ấy là phó tư lệnh Mặt trận,
biết quá rõ. Sau này anh ấy ra Bộ báo cáo và để lại nhiều tài liệu quan trọng.
Những băn khoăn về Mậu Thân còn dai dẳng, thời gian cũng không thể che lấp
được. Lịch sử đang đợi những người còn sống phải làm rõ, nhất là những người có
chức, có quyền”.
(242)
Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 47
(243) Sách đã dẫn.
(244)
Sách đã dẫn.
(247)
Sách đã dẫn, trang 54.
(245)
Xem Phụ lục: Đánh & Đàm.
(246)
Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa xuân Đại thắng, Nhà Xuất bản Chính trị
Quốc gia 2000, trang 48-49.
(248)
Sách đã dẫn, trang 55.
(249)
Sách đã dẫn, trang 55.
(250)
Sách đã dẫn, trang 55.
(251)
Sách đã dẫn, trang 55.
(252)
Mật danh của Khu IX.
(253)
Các tướng lĩnh cho rằng Trần Quỳnh đã bịa đặt khi viết trong Hồi ký: “Mọi việc
quân sự, Lê Duẩn trực tiếp làm việc với Bộ tổng tham mưu, có khi làm việc trực
tiếp với Cục tác chiến. Nơi làm việc có khi là trong Bộ Quốc phòng, có khi tại
nhà riêng của Lê Duẩn, có khi tại khu nhà khách Trung ương Quảng Bá, có khi là
khu nghỉ mát Đồ Sơn. Sau đó anh em ở Bộ tham mưu, Cục tác chiến làm đề án trình
Quân uỷ, rồi Quân uỷ trình ra Bộ chính trị quyết định. Cách làm việc của Lê
Duẩn có tính cách gia đình, không biên bản không ghi âm. Lê Duẩn nói, anh em
ghi chép. Chính cách làm việc này để lại hậu quả là kẻ có dã tâm nhận ý kiến
của Lê Duẩn làm của mình”.
(254)
Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa xuân Đại thắng, Nhà Xuất bản Chính trị
Quốc gia 2000, trang 67.
(255)
Trần Văn Trà, Hồi ký Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm, Nhà Xuất bản Văn Nghệ
TP HCM 1982.
(256)
Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 493
(257)
Quân lực Việt Nam Cộng hoà lúc đó ở trong tình trạng: “Không đủ để thay thế các
thiết bị hư hỏng hoặc mất mát; Giảm 50 phần trăm hiệu năng của số máy bay đã hạ
cánh thuộc 11 phi đội hàng đầu; Giảm 30 phần trăm sự hoạt động của các tầu biển
và 82 phần trăm đối với các tầu sông; Quân nhu y tế sẽ sử dụng hết vào cuối
tháng Năm năm 1975; Nhiên liệu cho lục quân sẽ cạn kiệt vào cuối tháng Tư năm
1975; Vào cuối năm tài khoá 1975, Quân đội sẽ chỉ có một phần tư số dự trữ đạn
dược tối thiểu cần thiết để đối phó một cuộc tấn công lớn; Các máy bay và thiết
bị mặt đất không dùng đến sẽ bị hư hỏng nhanh chóng” (Henry Kissingger, Ending
the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 496).
(258)
Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa Xuân Đại Thắng, Nhà Xuất bản Chính trị
Quốc gia 2000, trang 93.
(259)
Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong Đại thắng Mùa Xuân, Nhà Xuất bản Chinh trị
Quốc gia 2000.
(260)
Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2002, trang 664.
(261)
Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2002, trang 665.
(262) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia
2002, trang 666.
(263)
Tiền thân là Mặt trận Quảng Đà, gồm Quân đoàn II, Quân đoàn IV, Sư 3 và Quân
khu V. Ngày 16-4-1975, lực lượng của “Cánh quân Duyên Hải” đã đánh vào Bộ Tư
lệnh Quân đoàn III Sài Gòn ở Phan Rang, bắt sống Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
và Chuẩn tướng Không quân Phạm Ngọc Sang và lúc bấy giờ đã đánh vỡ tuyến phòng
thủ Sài Gòn từ xa, đưa một đạo quân gần bốn vạn người, cùng với 2.500 xe pháo
các loại trong đó có gần l00 xe tăng thiết giáp, 250 xe kéo pháo vào khu vực
tập kết. 264 Điện ngày 7-4-1975 của tướng Giáp gửi Lê Trọng Tấn: “Mệnh lệnh
1-
Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ từng
phút xốc tới mặt trận, giải phóng Miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.
2-
Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ. Văn”
(265)
Trong cuốn Tổng tập Lê Duẩn, cả ông Lê Hữu Đức và bà Diệu Muội đều nhầm là ngày
29-4-1975.
(266)
Trong chiến tranh, Cục Tác chiến là cơ quan trực tiếp báo cáo tình hình chiến
trường và chuẩn bị các tài liệu, kể cả soạn thảo các nghị quyết cho Quân uỷ và
Bộ Chính trị, và các bức điện ký tên các nhân vật trong Bộ Chính trị. Theo
Trung tướng Cục Trưởng Tác chiến Lê Hữu Đức, trong suốt 55 ngày đêm của Chiến
dịch Hồ Chí Minh, chỉ có bức điện ngày 9-3-1975 là do chính tay ông Lê Duẩn
viết, “Tất cả những bức điện ký tên Anh Ba khác đều do cơ quan Tác chiến chúng
tôi dự thảo, anh duyệt và ký tên, cơ quan Tác chiến chuyển qua Cục Cơ yếu điện
đi”.
(267)
Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 667.
(268)
Cũng năm ấy, ông Phạm Hùng được cử thay thế Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn;
Nguyễn Cơ Thạch chính thức làm Bộ trưởng Ngoại Giao thay thế Nguyễn Duy Trinh;
ông Tố Hữu được cử làm Phó Thủ tướng đặc trách kinh tế.
(269)
Khi ấy là uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị.
(270)
“Vụ án Chống Đảng” mà Lê Đức Thọ tiến hành được trợ lý của Tổng bí thư Lê Duẩn,
ông Trần Quỳnh, kể: “Đặng Kim Giang khai, linh hồn của tổ chức là Võ Nguyên
Giáp. Họ liên lạc với Đại sứ Tchecbakov”. Đại sứ Tchecbakov được coi là một “sĩ
quan tình báo” của Liên Xô. Theo Trần Quỳnh thì đích thân Lê Đức Thọ và Trần
Quốc Hoàn đã báo cáo với Lê Duẩn về “vai trò của Võ Nguyên Giáp trong tổ chức
chống Đảng này”. Trần Quỳnh viết: “Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đề nghị kỷ luật
những người cầm đầu: Khai trừ ra khỏi Đảng, cách chức, quản thúc một số, nhưng
cho hưởng nguyên các chế độ đãi ngộ… Riêng về Giáp kỷ luật được đề nghị là khai
trừ khỏi Bộ chính trị, Lê Duẩn không đồng ý. Lê Duẩn nói rằng chúng ta đang cần
đến sự giúp đỡ của Liên Xô trong công cuộc xây dựng Miền Bắc và nhất là trong
sự nghiệp giải phóng Miền Nam. Giáp là người của Liên Xô, nếu kỷ luật Giáp sẽ
động đến Liên Xô ảnh hưởng không nhỏ đến sự viện trợ của Liên Xô. Tôi đề nghị
cứ để Giáp ở lại trong Bộ chính trị. Ta sẽ có cách làm việc với Giáp làm cho sự
ở lại và có mặt của Giáp không gây ra những hậu quả có hại”.
(271)
Chỉ có tờ Tổ quốc, cơ quan của Đảng Xã hội Việt Nam, vào dịp 7-5-1984 vẫn phát
hành một số đặc biệt nói về Điện Biên Phủ, trong đó ca ngợi tài năng và, lần
đầu tiên nói đến quyết định “kéo pháo ra” của tướng Giáp. Tuy tờ Tổ quốc là của
Đảng Xã hội, nhưng tổng biên tập, ông Hàm Châu vẫn là một đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam, nên việc ca ngợi tướng Giáp đã khiến ông Hàm Châu bị Ban Tuyên
huấn của Đảng Cộng sản Việt Nam nhắc nhở. Theo ông Hàm Châu: Ông Phan Quang, vụ
trưởng báo chí của Ban Tuyên huấn Trung ương, gọi ông lên hỏi: “Vì sao đã có
chỉ thị không nhắc tên cá nhân anh Giáp mà Tổ quốc vẫn đưa?”. Chủ trương không nhắc
tên Võ Nguyên Giáp trong các bài kỷ niệm ba mươi năm chiến thắng Điện Biên Phủ
là một “chỉ thị miệng” chỉ được Lê Đức Thọ truyền đạt tới ba cơ quan báo chí
lớn: Nhân Dân, Quân đội Nhân dân và Thông tấn xã Việt Nam. Trong cuộc gặp này,
Lê Đức Thọ nói: “Từ nay đừng bao giờ nhắc đến tên cái ông tướng đội mũ phớt
nữa”. Ông Hàm Châu nói: “Thậm chí, Lê Đức Thọ còn định lấy ngày thành lập đội
du kích Bắc Sơn, 14-2-1941, thay vì ngày thành lập Đội tuyên truyền giải phóng
quân 22-12-1944 làm ngày thành lập quân đội”. Cho dù “chỉ thị miệng” này ngay
sau đó được các đồng nghiệp ở báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân truyền
đi. Nhưng, về lý thì không thể kỷ luật những người không nhận được lệnh này một
cách trực tiếp. Phan Quang chấp nhận giải trình của Hàm Châu. Ông Hàm Châu nói:
“Thâm tâm, chính Phan Quang cũng không đồng ý với chỉ thị của ông Lê Đức Thọ”.
(272) Nhân sinh nhật lần thứ 75 của Tổng bí
thư Lê Duẩn, báo Nhân Dân số ra ngày 7-11-1982 đăng bài “Sáng tạo, một
tấm gương lớn” của Thép Mới viết về cuộc đời của Tổng bí thư Lê Duẩn. Sau khi
nhắc đến Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Thép Mới coi “Đề cương cách mạng miền Nam”
như một loại sách “Bình Mỹ” mà Lê Duẩn đã “thai nghén từ Biên bạch tới Sài Gòn”
để sánh với sách “Bình Ngô” mà Nguyễn Trãi ngồi ở “góc thành Nam, lều một gian”
viết 600 năm trước. Dẫn lại một nhận xét về Lê Duẩn của Hoài Thanh: “Mỗi lần
anh phát biểu ý kiến, chúng ta đều thấy có gì mới và sâu, soi sáng rất nhiều
cho chúng ta”, Thép Mới viết: “Có sức nghĩ của những con người là chỗ dựa cho
mạch nghĩ của cả một thế hệ và là điểm tựa chắc chắn cho cả mai đây”. Từ năm
1984, Ban Bí thư cử một nhóm viết tiểu sử và hồi ký cho Tổng bí thư Lê Duẩn,
nhóm gồm ba người: Thép Mới, Bùi Tín và Đống Ngạc, thư ký riêng của Lê Duẩn.
Nhóm được ông Lê Duẩn trực tiếp kể về mình tại nhà nghỉ Hồ Tây hoặc tại Đồ Sơn.
Cùng nghe có ông Hoàng Tùng, Bí thư Trung ương Đảng. Đến buổi thứ 5 thì Bùi Tín
xin rút. Loạt bài, Thời Thắng Mỹ (đăng 17 kỳ liên tiếp mỗi tuần từ số báo Nhân
Dân ra ngày 21-1-1985), về sau xuất hiện trên báo Nhân Dân chỉ đứng
tên Thép Mới.
(273)
Trong phần nói về cuộc tập kết năm 1955, Thép Mới viết: “Đến giờ kéo neo tàu
chạy, anh Ba nắm tay anh Sáu (Lê Đức Thọ): ‘Anh ra thưa với Bác là tất cả đồng
bào, đồng chí trong này ngày đêm mong Bác sống lâu, mạnh khỏe. Anh cho tôi gửi
lời chào Bác, anh Trường Chinh và tất cả các anh ngoài đó. Tình hình này thì dễ
đến mười tám, hai mươi năm nữa, anh em ta mới lại gặp nhau”. Lịch sử Nam-Bắc
sau đó đã bị phân chia đúng 20 năm: 1955-1975 như… “tiên tri” của Lê Duẩn.
(274)
Thép Mới, Thời Thắng Mỹ, đăng 17 kỳ liên tiếp mỗi tuần từ số báo Nhân Dân
ra ngày 21-1-1985.
(275)
Thép Mới, sách đã dẫn.
Nguồn: Vnthuquan thư
viện Oline
Người đăng: mọt sách
Thời gian:
21/01/2013 4:47:28 SA
No comments:
Post a Comment