25-1-2013
Người lính cắm cờ Mặt trận giải phóng miền Nam trên nóc
Dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút (30/04/1975) là Bùi Quang Thận, đại đội
trưởng Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn tăng thiết giáp 203, Quân đoàn 2 cũng là
bộ đội Cộng sản miền Bắc quê ở Thái Bình phải không? Còn chuyện bà xác nhận “hai đoàn này là một” là chuyện
ai không biết? Tuy hai khuôn mặt nhưng là một “cơ thể” của đảng đẻ ra. Có khác
chăng bà là “phái nữ” còn ông Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Duy Trinh là “phái
nam”!...
*
Sự thật dối mãi rồi cũng có ngày lộ ra như trường hợp Phái đoàn của Chính phủ mang tên “Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” do bà Nguyễn Thị Bình cầm đầu tại Hội nghị Paris cách nay 40 năm.
*
Sự thật dối mãi rồi cũng có ngày lộ ra như trường hợp Phái đoàn của Chính phủ mang tên “Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” do bà Nguyễn Thị Bình cầm đầu tại Hội nghị Paris cách nay 40 năm.
“Hiệp định về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hoà bình ở Việt Nam” đã được ký
kết ngày 27/01/1973 bởi 4 bên ghi trong biên bản gồm: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH, Nam Việt Nam), Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (miền Bắc) và Chính phủ Cách
mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN), thành lập ngày
06/06/1969, tức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (MTGPMN).
Ngọn nguồn xâm lăng
Thực chất Hội nghị dài 4 năm 8
tháng 16 ngày, bắt đầu từ 13/05/1968 đến 27/01/1973, không kể các phiên họp kín
giữa Mỹ và Bắc Việt, chỉ nên coi đại diện cho 3 phe tham chiến gồm Mỹ, VNCH và
phe Cộng sản Bắc và Nam bởi lẽ tổ chức MTGPMN do đảng Lao Động Việt Nam, sau
đổi thành đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và chỉ huy từ chính trị đến quân sự
từ quyết định của Đại hội tòan quốc lần thứ III ngày 10/09/1060.
Nghị quyết “về nhiệm vụ và
đường lối của Đảng trong giai đoạn mới” được viết theo phương châm “xây
dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam”, theo đó, chính quyền miền Bắc viết: “Để
bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam giành được toàn thắng, đồng bào
ta ở miền Nam cần ra sức xây dựng khối công nông binh liên hợp và thực hiện một
mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ-Diệm lấy liên minh công nông
làm cơ sở. Mặt trận này phải đoàn kết các giai cấp và các tầng lớp yêu nước,
dân tộc đa số, các dân tộc thiểu số, các đảng phái yêu nước và các tôn giáo, và
tất cả những người có khuynh hướng chống Mỹ-Diệm. Mục tiêu phấn đấu của mặt
trận này là hòa bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh,
hòa bình thống nhất Tổ quốc. Công tác mặt trận phải nhằm đoàn kết tất cả
những lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ bất cứ lực lượng nào có thể tranh
thủ, trung lập những thế lực cần phải trung lập, thu hút đông đảo quần chúng
nhân dân vào phong trào đấu tranh chung chống Mỹ-Diệm nhằm giải phóng miền Nam,
hòa bình thống nhất Tổ quốc.”
Trước khi chủ trương thành lập một
Mặt trận mang danh nghĩa của “nhân dân miền Nam” để chống chính quyền VNCH thời
Đệ I Cộng Hòa dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm, đảng Lao động
Việt Nam ở miền Bắc thời ấy đã nói trắng ý đồ xâm lăng miền Nam từ năm 1959 khi
đưa ra chủ trương phá hoại miền Nam qua Nghị quyết Trung ương “lần thứ 15
(mở rộng) về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, thực
hiện thống nhất nước nhà”.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II)
họp tại Hà Nội từ ngày 12 đến ngày 22-1-1959 viết:
“- Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân
tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh.
- Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết
toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ
tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một
chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và
các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hoà bình,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần
bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới".
Những người Cộng sản miền Bắc cũng không giấu giếm khi
họ nói thêm rằng: “Hội nghị
Trung ương lần thứ 15 nhận định rằng hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta
lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó
tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành,
ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau, trợ lực mạnh mẽ cho nhau, nhằm phương hướng chung
là giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã
hội.” - (Tài liệu của đảng CSVN)
Cộng sản Miền Nam
Như vậy đảng CSVN và những người
Cộng sản miền Nam, trong đó có bà Nguyễn
Thị Bình, người đã được thu nạp vào đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1948 có còn chối cãi rằng họ “không
phải là Cộng sản” không?
Cùng được kết nạp vào đảng năm 1948 còn có Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch đầu tiên của Mặt trận Giải
phóng miền Nam khi thành lập ngày 10/12/1960 và Kỹ sư Huỳnh Tấn Phát, Phó Chủ tịch, Thủ tướng của Chính phủ
CMLTCHMNVN đã gia nhập đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1947.
Theo tiểu sử công khai thì Bà Bình,
tên thật là Nguyễn Châu Sa hay Nguyễn Thị Châu Sa, sinh ngày 26 tháng 5 năm 1927 tại tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp).
Tuy nhiên, nguyên quán của thân phụ bà là ông Nguyễn Đồng Hợi, lại ở Điện Bàn,
Quảng Nam.
Thân mẫu bà là bà Phan Thị Châu Lan (tục gọi là cô Mè, 1904-1944), là người con
gái thứ hai của nhà chí sĩ Phan Chu Trinh.
Bà Bình tham gia hoạt động chống
Pháp từ thời còn niên thiếu. Năm 1954, bà ra tù và tham gia phong trào hòa bình
đòi thi hành Hiệp định Genève. Năm 1955, bà được đảng điều ra Bắc tập kết và
được đào tạo thêm theo chương trình bồi dưỡng cán bộ đặc biệt.
Năm 1962, bà được điều trở lại miền
Nam với cái tên mới là Nguyễn Thị Bình, giữ chức vụ Ủy viên Trung ương Mặt trận
Giải phóng, hoạt động trong tổ đối ngoại, kiêm Phó tổng thư ký Hội Phụ nữ Giải
phóng. Cuối năm 1968, bà được cử làm Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Giải
phóng sang Paris dự Hội nghị Paris về Việt Nam, đến đầu tháng 1 năm 1969, ông Trần Bửu Kiếm
giữ chức vụ trưởng đoàn, còn bà được rút về nước để chuẩn bị cho việc thành lập
Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Sau đó đảng Cộng sản cử Bà làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cho Chính phủ này để đảm
nhận lại chức vụ Trưởng đoàn đàm phán của phe MTGPMN tại cuộc hòa đàm Ba Lê.
Những mặt trái
Trong cuộc phỏng vấn của báo điện tử đảng Cộng sản Việt
Nam phổ biến ngày 23/01/2013, bà Bình nói: “Trong 4 đoàn, đoàn Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam đại diện cho cuộc chiến đấu trực tiếp với Mỹ. Do đó theo tôi, chú ý của thế
giới tập trung vào đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; và hơn nữa, như chúng ta biết, hai
đoàn này là một, mục tiêu là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Vì
vậy, tất cả những đề nghị giải pháp đưa ra đều do Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ủng
hộ. Vì thế, vị thế của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam là rất quan trọng trong đàm phán Hiệp định Paris. Bên cạnh đó, Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam còn có vị trí quan trọng, bởi là người
trực tiếp chiến đấu, với đường lối độc lập hòa bình trung lập, nhấn mạnh
đến đường lối hòa bình, mềm dẻo đối ngoại trong đàm phán.”
Bà Bình đã “phóng đại tô mầu” văng
miệng cho vai trò “chiếc áo rộng hơn người mặc” của MTGPMN vì bà không mất tiền
mua.
Tại sao?
Bởi vì làm gì có điều được gọi là “đại
diện cho cuộc chiến đấu trực tiếp với Mỹ” của phe MTGPMN trên chiến trường
miền Nam trong 20 năm chiến tranh gọi “chống Mỹ cứu nước”?
Chắc Bà Bình quên mất hình ảnh
chiếc xe tăng đi đầu húc đổ cổng dinh Độc Lập ngày 30/04/1975 ở Sài Gòn tuy có
cắm cờ của “giải phóng” nhưng những lính trên xe là của miền Bắc đấy chứ?
Rồi người lính cắm cờ MTGPMN trên
nóc Dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút (30/04/1975), Bùi Quang Thận, đại đội trưởng Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn tăng
thiết giáp 203, Quân đoàn 2 cũng là bộ đội Cộng sản miền Bắc quê ở Thái Bình
phải không?
Còn chuyện bà xác nhận “hai đoàn
này là một” là chuyện ai không biết? Tuy hai khuôn mặt nhưng là một “cơ
thể” của đảng đẻ ra. Có khác chăng bà là “phái nữ” còn ông Bộ trưởng Ngọai giao
Nguyễn Duy Trinh là “phái nam”!
Thế rồi bà Bình còn hô hoán lên
rằng: “Nếu không có chiến thắng Mậu Thân 1968, không có những ngày chiến đấu
ác liệt bảo vệ thành cổ Quảng Trị, không có chiến thắng Điện Biên Phủ trên
không, không có sự hỗ trợ chi viện của miền Bắc thì không có Hiệp định Paris về
chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam. Và đương nhiên, nếu
không có Hiệp định Paris năm 1973 thì sẽ không có Đại thắng mùa Xuân năm 1975.”
Tòan là những chuyện “bới đống tro
tàn tìm máu đổ” và nhận công “hão”. Bà Bình nói “chiến thắng Mậu Thân 1968”
là bà đã nhục mạ lên những xác người Việt Nam vô tội của miền Nam bị lính Cộng
sản hai miền Nam-Bắc sát hại không gớm tay trong cuộc thảm sát ở Huế và ở khắp
thành thị miền Nam của năm ấy mà bà không nhớ sao?
Còn bao nhiêu xác người dân, trong
số có không biết bao nhiêu con trẻ, phụ nữ và các cụ gìa đã bị lính Cộng sản
rượt bắn tiêu diệt không thương tiếc trên đường chạy trốn để không bị bắt lại ở
đường số 1 nối liền Quảng Trị với Thừa Thiên?
Còn chuyện bà nhớ ơn miền Bắc đã “hỗ
trợ chi viện” cho miền Nam “kháng chiến chống Mỹ” và “chống Ngụy” là đầu óc
bà bắt buộc phải “có vấn đề” rồi!
Nếu miền Bắc của bà tử tế như họ
nói từ xưa đến nay thì làm gì có những câu chuyện “lính Việt Cộng miền Nam” đã
“chửi thề nguyền rủa” các đồng chí miền Bắc cướp công cách mạng của đồng bào miền
Nam sau cuộc chiến?
Quân “giải phóng” làm gì có xe
tăng, đai pháo và hỏa tiễn. Chúng là của Trung Cộng và khối Liên Sô trao cho
lính miền Bắc Cộng sản để đem vào Nam giết hại dân lành và phá họai xóm làng
đấy thôi?
Chẳng nhẽ bà đã quên câu chuyện “Câu lạc bộ truyền thống kháng chiến”
của những "Lão thành Cách mạng" và Tướng tá người miền Nam bị “khóa
miệng” từ tháng 3 năm 1989
bởi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, và một số người bị bắt giam hoặc bị qủan thúc
như các ông Tạ Bá Tòng,
Hồ Văn Hiếu, Ðỗ Trung Hiếu,
Lê Ðình Mạnh?
Những người “kháng chiến gian khổ
gấp trăm lần hơn” bà Bình không “có công” với cách mạng như bà hay sao mà họ bị
trù dập đau đớn như thế, hay chỉ vì họ đã bất đồng chính kiến và bất mãn trước
chủ trương kỳ thị và những chính sách làm nghèo đói dân miền Nam của đảng miền
Bắc sau ngày 30/4/1975?
Chắc hẳn bà cũng chưa quên những
lời oán trách bị kỳ thị và bị “vắt chanh bỏ vỏ” của bà Bác sỹ Dương Qùynh Hoa, Bộ trưởng Y tế của Chính phủ ma CMLTCHMNVN
sau ngày “giải phóng” đấy chứ?
Hay là bà Bình cũng quên nốt lời
lên án các chỉ huy quân sự miền Bắc đã “chủ ý” đẩy “lính Việt Cộng” miền Nam
vào chỗ thiêu thân trong trận tấn công Mậu Thân?
Những người Cộng sản miền Nam được
hưởng ân sủng như bà không nhiều. Nhưng bà cũng không nên quên rằng, dù bà cố
nói sai đi thì lịch sử vẫn còn ghi đậm nét những phá họai đất đai và con người
miền Nam của đảng Cộng sản Việt Nam trong hai cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
Bởi lẽ nếu 30,000 quân lính miền
Bắc không lén lút ở lại trong Nam sau Hiệp định Geneve 1954 để nuôi dưỡng chiến
tranh xâm lược và nếu ngót 200,000 bộ đội chính quy miền Bắc không được “ở
nguyên vị trí” trong Nam do nhượng bộ vì quyền lợi thiển cận phải tái đắc cử
của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon trước khi ký Hiệp định Paris năm 1973, nhờ
đó mà Bắc Việt có thể dấy lên cuộc chiến mới phá họai hòa bình để giết hại đồng
bào thì làm gì có chuyện được gọi là “Đại thắng mùa xuân 1975”, hay bị rơi vào
hòan cảnh “một triệu người vui thì cũng có một triệu người buồn” như ông
Võ Văn Kiệt đã nói?
Thế rồi người dân cũng chưa thấy bà
Bình có lời bênh vực nào cho những người biểu tình chống Trung Cộng đang xâm
chiến biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông khi họ bị công an đàn áp dã man từ Sài
Gòn ra Hà Nội?
Cũng chưa nghe bà than phiền gì về
chuyện hàng chục nghìn người dân miền Nam đã bỏ xác trên Biển Đông khi vượt
biển tìm tự do sau ngày “các đồng chí” của bà chiếm Sài Gòn?
Bà cũng im hơi lặng tiếng sau chiến
dịch đảng cướp sạch tài sản của giới thương gia Sài Gòn và phá họai nền kinh tế
phồn thịnh của miền Nam trong chiến dịch diệt tư sản năm 1977 khiến cả nước
phải mất hàng chục năm mới ngóc đầu lên được!
Những tệ nạn xã hội, văn hóa suy đồi,
luân thường đạo lý đảo ngược, truyền thống dân tộc băng họai trong xã hội ngày
nay và nạn tham nhũng đang đe dọa sự sống còn của cả nước có do Mỹ-Ngụy để lại
không hay bởi “các đồng chí Cộng sản của bà” gây ra?
Có phải đó là những “thành qủa vĩ
đại” của cách mạng không hay là những thảm họa của cái gọi là “Đại thắng mùa
Xuân năm 1975”?
Rồi bà Bình hãy ngẫm lại xem chủ
trương “hòa hợp, hòa giải dân tộc” do bà rêu rao ở Hội đàm Paris 40 năm trước
đã thực hành ra sao ở trong Nam kể từ 30/04/1975, hay lòng người Nam-Bắc từ đó
đến nay đã chia rẽ và hận thù nhau hơn bao giờ hết?
Ấy là chưa kể gần như tòan vẹn trên
3 triệu cây số vuông Biển Đông đã nằm trong tay kiểm soát của Trung Cộng.
Rồi bà phải trả lời như thế nào với
một số Trí thức Sài Gòn từng là người của MTGPMN hay cảm tình viên trong thời
chiến đã bị trù dập, bị khống chế và bị đe dọa, khủng bố trong mấy năm gần đây
chỉ vì muốn biểu tình chống xâm lăng của Trung Cộng ở Biển Đông?
Chẳng lẽ bà không biết đến những
người như Giáo sư Tương Lai, cựu Dân biều VNCH Hồ Ngọc Nhuận, Bác sỹ Hùynh Tấn
Mẫm, Luật sư Lê Hiếu Đằng v.v…?
Tại sao họ đã quay lưng lại với
đảng và nhà nước của bà thì bà phải hiểu chứ?
Những sự thật phũ phàng này không
ghi trong “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam”
nhưng đang nhảy múa trước mắt mọi người.
Chẳng nhẽ bà Bình không thấy hay Bà
biết mà không dám nói?
(01/013)
Phạm Trần
No comments:
Post a Comment