VÀI
KHÍA CẠNH VỀ “TRI THỨC HOÁ” TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP
Muốn giúp
người khác “tri thức hoá” thì trước hết phải tự “tri thức hoá” chính mình. Ở thời
đại nền công nghiệp 4.0 và toàn cầu hoá, điều bất lợi cho Việt Nam là đa số cán
bộ lãnh đạo chưa theo kịp tiến bộ công nghệ. Không theo kịp tiến bộ công nghệ
thì làm hại đến sự phát triển của toàn bộ đơn vị mình quản lý. Bởi thế, “TRI THỨC
HOÁ CÁN BỘ” phải đi trước “TRI THỨC HOÁ NÔNG DÂN”.
VÀI KHÍA CẠNH VỀ “TRI THỨC HOÁ” TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP
1. NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM NẰM Ở VỊ TRÍ
NÀO TRÊN BẢNG XẾP HẠNG THẾ GIỚI?
Theo “Phân
loại Công nghiệp Tiêu chuẩn Quốc tế (ISIC- International Standard Industrial
Classification) thì nông nghiệp thuộc bộ phận 1-5 của ISIC, và bao gồm lâm nghiệp,
đánh bắt cá, cũng như trồng trọt và chăn nuôi. Theo nguồn “Dữ liệu tài khoản quốc
gia của Ngân hàng Thế giới và dữ liệu Tài khoản Quốc gia của OECD (Organization
for Economic Co-operation and Development) năm 2020, thì bảng xếp hạng thế giới
của top 10 quốc gia có tổng giá trị gia tăng về nông nghiệp cao nhất thế giới
(tính theo USD) có thứ tự như sau (https://www.indexmundi.com/.../NV.AGR.TOTL.CD/rankings).
1/. Trung
Quốc - 1,126,740,000,000 USD,
2/. Ấn Độ
- 487,238,000,000,
3/. Mỹ
-196,514,000,000 USD,
4/.
Indonesia - 145,046,000,000 USD,
5/.
Nigeria - 104,370,000,000 USD,
6/. Brazil
- 85,319,720,000 USD,
7/.
Pakistan - 60,743,920,000 USD,
8/. Nga -
54,892,330,000 USD,
9/. Nhật Bản
- 51,851,370,000 USD,
10/. Thổ
Nhĩ Kỳ - 48,097,010,000 USD.
Thái Lan
giữ vị trí tiếp theo 11 với 43,297,570,000 USD.
Việt Nam giữ vị trí 17 với 40,275,600,000 USD.
Giá trị
gia tăng là sản lượng ròng của một ngành sau khi cộng tất cả các đầu ra và trừ
đi các đầu vào trung gian. Xin lưu ý rằng, xếp hạng các nước có tổng giá trị
gia tăng nông nghiệp lớn nhất viện dẫn trên đây thì phần lớn là nhờ vào dân số
lớn và đất đai nông nghiệp rộng. Các nước đứng đầu như Trung Quốc, Ấn Độ đều là
nhờ dân số khổng lồ, đất nông nghiệp bao la, chứ không phải cậy vào năng suất
lao động cao nhất. Việt Nam hiện có dân số đứng thứ 15 trên toàn thế giới. Vị
trí thứ 17 về tổng giá trị gia tăng ngành nông nghiệp của Việt Nam có được là
nhờ không nhỏ vào dân số - với khoảng 70% của gần 100 triệu người – thuộc vào
lĩnh vực nông nghiệp.
Một chỉ số
xếp hạng tiếp theo là tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ sản phẩm thu nhập quốc
dân (GDP). Đối với các nước chậm phát triển, tỷ trọng doanh số nông nghiệp
trong thu nhập quốc dân cao. Còn ở các nước phát triển thì tỷ trọng doanh số
nông nghiệp trong thu nhập quốc dân thấp. Theo bảng xếp hạng tỷ trọng doanh số
nông nghiệp trong GDP của các quốc gia thì:
Sierra
Leone – 58,15% thứ 1, Nigeria – 36.91% thứ 5, Ấn Độ - 16,68% thứ 46,
Việt Nam –
13,96% thứ 51, Indonesia -12,71% thứ 52, Thái Lan – 8,14% thứ 79, Trung Quốc –
7,14% thứ 85, Israel – 1,13% thứ 158, Nhật Bản – 1,01% thứ 160, Hoa Kỳ - 0,92%
thứ 162, Singapore – 0,03% thứ 178 và đứng cuối cùng thứ 179 là San Marino –
0,02%.
Một chỉ số
khác nữa của nông nghiệp là giá trị gia tăng trên mỗi lao động – giá trị gia
tăng trên mỗi đơn vị đầu vào. Bảng xếp hạng thế giới về giá trị gia tăng theo đầu
lao động của 10 nước đứng đầu theo thống kê năm 2019 như sau (https://www.indexmundi.com/.../NV.AGR.EMPL.KD/rankings).
1
Argentina
2,758,231.00
2
Iceland
126,734.10
3
Canada
113,112.70
4
Singapore
110,206.90
5
Norway
108,139.70
6
Israel
102,158.60
7
United
States
100,061.60
8
Australia
86,838.25
9
Sweden
83,760.46
10
Netherlands
72,233.72
Bảng xếp hạng
tính theo tỷ giá không đổi năm 2010 của đồng đô la Mỹ. Theo bảng xếp hạng này,
trong khối các nước Asean, Việt Nam với 1,734.94 USD trên một lao động, đứng thứ
134 và xếp thấp hơn: Singapore - 110,206.90 USD, thứ 4, Indonesia – 3,600.52
USD thứ 106, Philippines – 3,530.52 USD thứ 107, Thái Lan – 3,216.55 USD thứ
111. Nhưng lại trên Campuchia – thứ 139, Myanmar – 1,389.59 USD thứ 143, Lào –
1,184.22 USD thứ 150.
Xét tổng
thể, Hoa Kỳ là quốc gia có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới. Số lao động
nông nghiệp Mỹ trung bình chỉ khoảng 1,5 triệu người, chiếm chưa đầy 1% tổng số
152,58 triệu lao động của Mỹ (2021, https://www.statista.com/.../employment-in-the-united.../...).
Nhưng giá trị xuất khẩu ngành nông nghiệp Mỹ năm 2021 đạt 172 tỷ USD và dự báo
tăng lên 191 tỷ USD vào cuối năm 2022. Nông nghiệp Mỹ (năm 2017) có khoảng 2,04
triệu trang trại, bao phủ diện tích khoảng 900 triệu mẫu Anh, trung bình 441 mẫu
Anh (178 ha) mỗi trang trại (https://en.wikipedia.org/.../Agriculture_in_the_United....).
Nền nông
nghiệp Mỹ có mức độ cơ giới hoá rất cao, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
tiên tiến ở mức hàng đầu. Lực lượng lao động nông nghiệp Mỹ vì thế sở hữu một
nguồn tri thức tiên tiến, làm cho năng suất lao động nông nghiệp luôn ở hàng
tiên phong của thế giới.
Qua các bảng
xếp hạng thế giới dẫn ra ở trên cho thấy, trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam
không nằm trong nhóm các nước phát triển. Giá trị gia tăng trên mỗi lao động
nông nghiệp Việt Nam kém xa so với các nước nhóm hàng đầu. Mức độ cơ giới hoá,tự
động hoá, trình độ ứng dụng khoa học công nghệ rất thấp. Việt Nam cần phải nâng
cao năng suất lao động để tăng giá trị gia tăng trên đầu lao động, cũng như
tăng tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp của toàn quốc gia.
2. NHỮNG NGHỊCH LÝ CỦA NÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM
Nông nghiệp
Việt Nam đang hứng chịu những nghịch lý.
a/. Là đất
nước nông nghiệp nhưng Việt Nam phải nhập khẩu nhiều sản phẩm nông nghiệp đáng
lý ra không phải nhập khẩu, hay nhập khẩu ở mức độ thấp. Chẳng hạn như, năm
2021 Việt Nam phải nhập khoảng 22,3 triệu tấn thức ăn chăn nuôi gia súc (chiếm
hơn 60%), trị giá 10 tỷ USD. Trong 10 tỷ USD thức ăn chăn nuôi gia súc phải nhập
khẩu, có 10 triệu tấn ngô, 5 triệu tấn khô dầu đậu tương. Phân bón cũng phải nhập
khẩu đến hơn 40%, năm 2021 là 1,54 triệu tấn, trị giá 1,45 tỷ USD. “Giống cây
trồng, vật nuôi cũng chủ yếu nhập khẩu” (https://vnexpress.net/viet-nam-nhap-10-ty-usd-nguyen-lieu...).
Trong khi đó xuất khẩu gạo năm 2021 (dù đứng thứ 2 thế giới), cũng chỉ được 6,2
triệu tấn, trị giá 3,3 tỷ USD (https://www.gso.gov.vn/.../phat-trien-lua-gao-theo.../....).
Tại sao
nông nghiệp Việt Nam lại không thể sản xuất ra ngô, khô dầu đậu tương để phải nhập
khẩu 10 tỷ USD thức ăn chăn nuôi gia súc? Tại sao nông nghiệp Việt Nam lại
không tự sản xuất được phân bón? Tại sao nông nghiệp Việt Nam lại không đảm bảo
được giống cây trồng và vật nuôi?
Những câu
hỏi tại sao cũng nối đuôi nhau xếp hàng trong lĩnh vực phân phối. Vì trong lĩnh
vực phân phối cũng đầy rẫy những nghịch lý. Sản phẩm làm ra không tiêu thụ kịp
thời, bị ứ đọng, phải huỷ bỏ. Năm nào hàng hoá nông sản cũng phải chầu chực dãy
dài hàng cây số suốt nhiều tuần lễ ở cửa khẩu biên giới. Trên phương diện chất
lượng, nông sản Việt Nam đáp ứng được thị trường giá trị cao chưa nhiều, làm
cho giá mua thấp, không chiếm lĩnh được thị trường. Kết quả là thu nhập của người
nông dân rất thấp.
b/. Một
nghịch lý khác nằm trong lĩnh vực áp dụng khoa học, công nghệ và kỹ thuật vào
nông nghiệp. Việt Nam có nhiều nhà khoa học nông nghiệp. Việt Nam có một số quỹ
khoa học dành cho nông nghiệp. Nhưng cơ chế quản lý đã không phát huy được năng
lực của các nhà khoa học nông nghiệp. Cơ chế quản lý cũng làm cho các quỹ khoa học
dành cho nông nghiệp hoạt động không hiệu quả. Lãng phí sức sáng tạo của các
nhà khoa học nông nghiệp là một vấn đề cấp bách mà người đứng đầu Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn phải đưa ra lời giải.
Chỉ bằng
con đường áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và kỹ thuật vào nông nghiệp thì
nông nghiệp Việt Nam mới có năng suất cao, chất lượng tốt, mới có thể chiếm
lĩnh thị trường trong nước và quốc tế, mới phát triển nhanh và bền vững. Bởi thế,
vấn đề xương sống của nông nghiệp Việt Nam là áp dụng hiệu quả tiến bộ khoa học,
công nghệ và kỹ thuật vào nông nghiệp.
3. NHỮNG CON ĐƯỜNG “TRI THỨC HOÁ” NÔNG
DÂN
Nêu ra một
số nghịch lý ở trên để thấy được những mục tiêu cụ thể phải làm. Mục tiêu cụ thể
của nông nghiệp Việt Nam là xoá bỏ những nghịch lý, chứ không sa vào những lý
luận mơ hồ.
Như ở chiến
trường cần những chỉ huy ra mệnh lệnh tức thì, nông nghiệp Việt Nam đang cần những
nhà lãnh đạo hành động giải quyết các vấn cụ thể, chứ không cần những nhà tuyên
truyền “lý luận”. Các hình thức tuyên truyền, cổ động của thập niên 1960 thế kỷ
trước đã không còn phù hợp với thời đại công nghệ mới của đầu thế kỷ 21. Những
hình thức đó không giúp gì được nhiêù cho người nông dân trên con đường làm
giàu tri thức. Thời đại công nghệ phải sử dụng các công cụ công nghệ. Dưới đây
là một số con đường “tri thức hoá nông dân” nhanh chóng và hiệu quả.
a/. Sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ
mới tiên tiến là con đường nhanh nhất để “tri thức hoá nông dân”.
Khi người
nông dân được sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ mới tiên tiến cũng chính là
lúc người nông dân - chẳng những được tiếp cận mà còn sở hữu các tri thức mới
nhất, tiến bộ nhất trong lĩnh vực nông nghiệp. Ở mặt khác, cách học trực quan
qua máy móc thiết bị công nghệ là con đường nhanh nhất và hiệu quả nhất để nắm
bắt tri thức. Thực tiễn chỉ ra, ở những nơi nào người nông dân sở hữu, máy móc,
thiết bị, công nghệ mới, thì ở nơi đó chẳng những năng suất lao động cao, sản
phẩm nhiều với chất lượng tốt, mà tri thức của người nông dân cũng rất mới và
giàu có.
b/. Áp dụng tiến bộ khoa học là “tri
thức hoá" nông dân
Khi nói đến
“sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ mới tiên tiến” là nói đến hiện tại - những
sản phẩm đã tồn tại trên thị trường. Còn nói đến “áp dụng tiến bộ khoa học” là
bao gồm cả tương lai, bao gồm cả các đầu tư nghiên cứu cho tương lai. Ở phương
diện này, tri thức của người nông dân không chỉ ở mức sở hữu các tri thức đã có
của nhân loại, mà người nông dân còn trực tiếp tham gia tạo ra những tri thức mới.
Khi nhiều người nông dân đạt đến đẳng cấp tự “tri thức hoá” ở bình diện này,
thì đó là lúc quốc gia có một nền nông nghiệp chẳng những thịnh vượng mà luôn ở
hàng đầu thế giới.
c/. Điện tử hoá, số hoá quá trình quản
lý, sản xuất, lưu thông và thương mại là “tri thức hoá nông dân”.
Khái niệm
điện tử hoá ở đây có bao gồm số hoá, tự động hoá. Nói số hoá riêng là để nhấn mạnh
tầm quan trọng và tính cấp thiết. Khi “điện tử hoá quá trình quản lý, sản xuất,
lưu thông và thương mại” đạt đến mức độ cao thì đó cũng đồng nghĩa với nền nông
nghiệp được tự động hoá ở mức độ cao. Lúc đó năng suất lao động và tri thức của
người nông dân, là hệ quả, sẽ bước lên một cao tầng mới.
d/. "Tri thức hoá nông dân"
bằng cách giúp cho người nông dân giải quyết được các vấn đề của mình.
Để người
nông dân có tri thức trong lĩnh vực nông nghiệp, hoặc là nhờ từ tác động của
các nhân tố bên ngoài, hoặc là nhờ sự tự thân vận động của người nông dân, hoặc
kết hợp cả hai. ‘Tri thức hoá’ nông dân không chỉ bằng những phương pháp cụ thể,
chẳng hạn như những biện pháp nêu trên, mà còn bằng cách giúp cho người nông
dân giải quyết được các vấn đề của mình. Trong khía cạnh này, các biện pháp đưa
ra làm ví dụ sau đây cũng là những công cụ giúp cho người nông dân tiến nhanh
trên con đường thu nhận tri thức.
- Giải quyết
vấn đề thức ăn gia súc và phân bón để không phải nhập khẩu là giúp "tri thức
hoá" nông dân.
- Giải quyết
vấn đề tiêu thụ nông sản, không để nông sản ứ đọng là giúp "tri thức
hoá" nông dân.
- Giải quyết
vấn đề giống cây trồng vật nuôi không phải nhập khẩu cũng là giúp "tri thức
hoá" nông dân …
Có thể viện
dẫn tiếp hàng loạt các biện pháp khác nữa, tưởng là không liên quan, nhưng lại
là những biện pháp thiết thực để người nông dân được nhanh chóng "tri thức
hoá". Bởi người nông dân biết học từ những biện pháp từ bên ngoài. Nghĩa
là từ ngoại biến thành nội - một sự biến hoá biện chứng của tự nhiên.
Nói đến
nông nghiệp là nói đến cây trồng vật nuôi, là nói đến năng suất, là nói đến thuỷ
lợi, phân bón, giống má, là nói đến chế biến, bảo quản, lưu thông, thương mại;
là nói đến sở hữu đất đai. Nông nghiệp Việt Nam phải được áp dụng những tiến bộ
của khoa học kỹ thuật và công nghệ trong toàn bộ các quá trình sản xuất, chế biến,
lưu thông và thương mại. Nông nghiệp Việt Nam cần phải tự chủ trong mọi lĩnh vực.
Nếu tất cả đều nhập khẩu, người nông dân Việt Nam chỉ biết lấy công làm lời,
thì muôn đời nông nghiệp Việt Nam không thoát khỏi nghèo khó.
4. VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO TRONG
“TRI THỨC HOÁ” NÔNG DÂN
Ở trên,
chúng ta đã đề cập đến một số biện pháp về "tri thức hoá" nông dân.
Nhưng còn một nhân tố khác có ảnh hưởng quan trọng đến không chỉ ‘tri thức hoá’
mà là thành quả chính của nông nghiệp: đó là vai trò quản lý. Cán bộ quản lý, ở
mọi cấp độ, đều có ảnh hưởng lên thành quả của người nông dân.
a/.Đề xuất chính sách
Không
riêng gì nông nghiệp, mà trong mọi lĩnh vực, vai trò quan trọng nhất của lãnh đạo
là đề xuất chính sách. Nhưng trong lĩnh vực nông nghiệp, người lãnh đạo phải
nhìn thấy đặc tính riêng sau đây – xuất hiện chung ở nhiều quốc gia.
- Lĩnh vực
nông nghiệp chịu nhiều bất lợi so với công nghiệp.
- Lĩnh vực
nông nghiệp chậm ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật hơn lĩnh vực công nghiệp.
- Lĩnh vực
nông nghiệp bị ảnh hưởng nhiều từ các yếu tố thiên nhiên, và thiên tai có thể
đưa đến nhiều thảm hoạ cho nông nghiệp.
- Đời sống
người dân nông thôn thấp hơn thành thị.
Chỉ với bốn
đặc thù vừa nêu, nếu lãnh đạo không có chính sách hỗ trợ tốt thì nông nghiệp
luôn tụt hậu so với công nghiệp.
Nông nghiệp
Mỹ phát triển tốt trước hết là nhờ chính sách hỗ trợ tốt. Nhiệm vụ của người
lãnh đạo là đưa ra các chính sách hỗ trợ tốt cho người nông dân. Cụ thể về các
chính sách hỗ trợ không phải là mục tiêu đề cập ở đây. Nhưng chính sách là quan
trọng nhất.
b/.Tạo môi trường cho người nông dân tự
chủ, sáng tạo, phát huy hết năng lực
Con người
giữ vai trò trung tâm trong hoạt động của xã hội loài người. Cũng như vậy,
trong lĩnh vực nông nghiệp, người nông dân là nhân tố quyết định. Chỉ trong một
môi trường sống và lao động ‘tối ưu’ người nông dân mới ‘phô diễn’ được toàn bộ
khả năng của mình. Trong tiến trình phát triển của xã hội, mội cá nhân là một
‘động cơ’. Khi mỗi cá nhân được tự thể hiện hết khả năng ‘động cơ’ của mình thì
đó là sự huy động tối đa năng lực của toàn xã hội.
c/. Tự "tri thức hoá"
Muốn giúp
người khác "tri thức hoá" thì trước hết tự mình phải "tri thức
hoá" chính mình. Trong thời đại của nền công nghiệp 4.0, nhược điểm lớn nhất
của Việt Nam là đa số hàng ngũ cán bộ không theo kịp công nghệ. Không theo kịp
tiến bộ công nghệ, thì hại không chỉ cho mỗi cá nhân mình, mà còn làm chậm sự
phát triển của toàn bộ đơn vị mình quản lý. Bởi thế, "tri thức hoá"
cán bộ phải đi trước "tri thức hoá" nông dân.
5. HỌC AI?
‘Tri thức
hoá’ nông dân không phải tuỳ tiện. Không phải tri thức đến từ đâu cũng chấp nhận
được trong quá trình ‘tri thức hoá’ nông dân. Nghĩa là phải lựa chọn nguồn gốc
của tri thức.
Việt Nam
nói chung và Nghệ An nói riêng, có nhiều hình mẫu để học tập. Học ai? là câu hỏi
rất quan trọng. Trả lời sai sẽ làm chậm bước tiến. Trong lĩnh vực nông nghiệp,
học ai? gắn liền với mục đích và lợi ích.
Ai là thị
trường nông nghiệp quan trọng nhất cho nông nghiệp Việt Nam (Hoa Kỳ, Châu Âu,
Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc…)?
Quốc gia
nào có nền nông nghiệp tiên tiến?
Từ mục
đích và lợi ích, có thể thấy nước đầu tiên Việt Nam cần phải học là Hoa Kỳ. Hoa
Kỳ đáp ứng cả hai câu hỏi vừa nêu trên. Hoa Kỳ chẳng những là quốc gia có nền
nông nghiệp tiên tiến nhất thế giới, mà còn là thị trường quan trọng nhất của
Việt Nam. Nghiên cứu Hoa Kỳ sẽ mang đến cho Việt Nam vừa khả năng tiếp cận công
nghệ tiên tiến, vừa khả năng xâm nhập mở rộng thi trường.
Thị trường
tiềm năng thứ hai của Việt Nam là châu Âu. Trung Quốc là thị trường lớn hơn của
Việt Nam so với châu Âu hiện nay. Nhưng châu Âu quan trọng hơn đối với Việt Nam
ở mặt công nghệ so với Trung Quốc. Và từ công nghệ, có thể nhìn thấy, trong
tương lai thị trường châu Âu đối với Việt Nam sẽ quan trọng hơn thị trường
Trung Quốc. Học tập châu Âu, cũng như Hoa Kỳ, vừa được tiếp cận công nghệ tiên
tiến, vừa mở ra khả năng mở rộng thị trường.
Trong số
các nước ở châu Âu, Hà Lan là quốc gia đáng để Việt Nam lựa chọn làm đối tượng
nghiên cứu, học tập. Hà Lan làm ngạc nhiên không chỉ cho Việt Nam và Nghệ An mà
toàn thế giới. Hà lan chỉ có diện tích 41 543 km2 (Việt Nam – 310 060 km2, Nghệ
An – 16 494 km2 ) với dân số 17,44 triệu người ( Việt Nam – 98,991 triệu người,
Nghệ An – 3,547 triệu người), nhưng lại là quốc gia xuất khẩu sản phẩm nông
nghiệp lớn thứ 2 thế giới. Xuất khẩu nông sản Hà Lan cấu thành từ ba lĩnh vực.
Sản phẩm nông nghiệp: 61 tỷ USD. Vật tư nông nghiệp, tri thức và công nghệ: 9 tỷ
USD. Còn thêm 24 tỷ đô la xuất khẩu hoặc tái xuất khẩu. Tổng cộng lại đạt đến
94 tỷ đô la Mỹ.
Quốc gia nữa
rất đáng để cho Việt Nam lưu tâm về nông nghiệp chính là Israel. Những cách tân
trong nông nghiệp của Israel mang đến cho người nông dân nhiều tri thức hiện đại.
Đó là các giống mới với năng suất cao, chất lượng tốt. Đó là các sản phẩm xanh,
an toàn, ít tồn đọng hoá chất. Đó là những công nghệ người máy chăm sóc cây trồng
hiện đại, cho cả trong điều kiện khắc nghiệt (https://www.israel21c.org/israeli-agricultural.../).
Hiển
nhiên, không ai ngăn chặn hay từ chối nguồn tri thức đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc và các quốc gia khác. Hãy rộng mở đón nhận. Nhưng ba quốc gia Hoa Kỳ,
Hà Lan, Israel đủ tạo nên một bộ “tam quốc” “kinh điển” để Việt Nam soi chiếu.
Chưa bàn đến
đến Hoa Kỳ, tri thức và công nghệ của Hà Lan, Israel trong nông nghiệp cũng đủ
cho thấy con đường mà nông nghiệp Việt Nam có thể chia sẻ. "Tri thức hoá"
nông dân không phải là điều xa lạ. "Tri thức hoá" nông dân là các biện
pháp cụ thể, chứ không phải là những chồng tài liệu “lý luận” viển vông nằm mối
mọt trong tủ.
Hình :
https://www.facebook.com/photo/?fbid=2721756071291139&set=pcb.2721763261290420
https://www.facebook.com/photo/?fbid=2721756391291107&set=pcb.2721763261290420
.
No comments:
Post a Comment