Thần
tượng mãi mãi là thần tượng
Dương Tự Lập
24/08/2022
https://baotiengdan.com/2022/08/24/than-tuong-mai-mai-la-than-tuong/
(Nhớ thời
bác Tạ Đình Đề, nhớ về bác Phùng Lê Trân)
Những đêm
hè như đêm hội của lũ trẻ Nhà hát Nhân dân, tiền thân của Cung Văn hóa
Lao động Hữu nghị Việt – Xô tại số 91 Trần Hưng Đạo, Hà Nội, chúng tôi nằm mãi
trong ký ức dù đã lùi xa hơn nửa thế kỷ trước.
Sẽ kém vui
nếu như đêm ấy trong khoảng sân trống giữa hai con sư tử lớn như sư tử thật,
tác phẩm được đúc bằng gang rất mỹ thuật do bàn tay khéo léo của người Pháp tạo
nên để lại, nơi hội tụ của chúng tôi mà vắng mặt thằng Hồ Xuân Nam. Nó có biệt
danh Nam “da cát” bởi da nó sạm như cát. Nhưng vì bố đẻ nó tên Hồ Xuân Lượng
nên sau này bọn tôi quen mồm gọi ghép lại Nam “da cát lượng”. Vô hình trung ví
nó như ông Gia Cát Lượng – Khổng Minh trong bộ sử thi Tam Quốc Diễn Nghĩa của
Tàu, nên hắn có vẻ khoai khoái, thinh thích.
Hắn hơn hẳn
chúng tôi về nhiều tài lẻ, bóng đá, bóng bàn, đá cầu, leo trèo, bơi lội, đánh vật…
mà phải nói đến là tài kể chuyện rất hấp dẫn. Trong đầu hắn có lẽ chứa cả một
kho tàng chuyện đông tây – kim cổ Việt Nam. Khi nhập cuộc chơi hắn xuất hiện bất
ngờ và cử chỉ hành động cũng bất ngờ.
– Pằng pằng
pằng…
Mọi người
quay lại nhìn đã thấy Nam “da cát lượng” làm điệu bộ chĩa hai ngón tay bắn ai
đó rồi giải thích:
– Chúng
mày có biết ông Tạ Đình Đề là ai không?
– Là ai? Cả
hội nhao nhao hỏi.
Nam trả lời
ngay:
– Là tình
báo của quân Pháp đào tạo. Chúng mày không biết đâu, có đêm bác Hồ ngồi hút thuốc
lá trước nhà, bất ngờ phát đạn từ đâu bắn đứt đầu mẩu thuốc Bác ngậm trên mồm để
cảnh cáo Bác. Vì ông Đề được gián điệp cử đi ám sát Bác. bác Hồ vẫn thản nhiên
như không có chuyện gì xảy ra nhẹ nhàng gọi: Chú Đề đấy hả? Xuống đây nói chuyện
với Bác. Bỗng từ trên nóc nhà, một người đàn ông nhanh như sóc nhảy xuống đặt
súng lục dưới chân chắp tay cúi đầu tỏ sự thán phục xin nghe theo lời Bác. Từ đấy
Tạ Đình Đề được làm cận vệ cho bác Hồ.
Nam ta ra
vẻ am tường chân tơ kẽ tóc về ông Đề. Cả bọn nhao nhao tranh nhau:
– Thế bây
giờ ông Đề ở đâu? Còn sống hay chết? Tùng “hồ” hỏi.
– Nam gân
cổ: Ông ấy làm sao mà chết được, còn sống chứ lị và được bác Hồ phong làm đại
tướng. Thằng Nam trả lời rành rọt trôi chảy.
Sau khi
nghe chuyện Nam kể về “đại tướng” kỳ tài Tạ Đình Đề, hình ảnh ông từ đó là thần
tượng ước mơ của lũ trẻ chúng tôi, trên gương mặt đứa nào cũng lộ rõ mong muốn
có ngày được tận mắt thấy ông. Ai cũng nghĩ rồi đây mình sẽ là một tay súng Tạ
Đình Đề thiện xạ, võ nghệ cao cường.
Thỉnh thoảng
cuối tuần cha đưa tôi đến chơi nhà bác Hồ Sỹ Lương người đồng hương, làm bên Tổng
cục Đường sắt. Bác ở khu nhà lợp mái giấy dầu qua đường chắn tầu Khâm Thiên. Cả
khu nhà ấy dành riêng cho cán bộ công nhân viên ngành đường sắt. Có hôm chị Thảo
Phương, con gái đầu của bác Lương gặp cha con tôi đầu ngõ, vồn vã đưa vào nhà.
Đi qua máy nước công cộng trước sân chung, chị nhìn thấy con quay nằm bên rìa
sân gọi nhỏ: Tiến ơi, em bỏ quên con quay cạnh máy nước ra lấy vào kẻo lại bị
quét gom theo rác. Thằng Tiến nhỏ tuổi như tôi chạy ra cầm lấy con quay mừng
quýnh. Chị Phương bảo nó là con ông Tạ Đình Đề cách nhà bác Lương một nhà nữa.
Nghe đến tên Tạ Đình Đề tôi ngạc nhiên hỏi: Có phải đại tướng Tạ Đình Đề
bắn súng giỏi phải không chị. Chị Thảo Phương cười bảo, bác Đề nổi tiếng bắn
súng ai cũng biết, bác làm ở Xưởng Dụng cụ Cao su Đường sắt.
Trong lòng
tôi mừng thầm kiểu gì mình cũng tận mắt thấy ông Đề trước cả bọn trẻ Nhà hát
Nhân dân. Chúng nó phải phục lăn sát đất tôi tài cỡ nào mới gặp được cao nhân.
Tôi sẽ vênh váo, phổng mũi, dương dương tự đắc với cả đồng bọn và Nam “da cát
lượng”. Thế rồi ít lâu sau chẳng hiểu sao khu nhà dầu bị cháy rụi. Các hộ gia
đình giải thể, gia đình bác Hồ Sỹ Lương chuyển về khu tập thể Mai Hương, từ đấy
tôi hết hy vọng được gặp thiện xạ Tạ Đình Đề. Tiếc quá, ý định khoe khoang mình
đã gặp ông Đề tắt ngóm trong lòng.
Vì chiến
tranh nên trường cấp 1-2 Trưng Vương chúng tôi tạm thời cho thầy trò nghỉ học tới
khi nào có thông báo mới. Cha đi làm và hàng ngày mang tôi theo tới cơ quan báo
Lao Động ở 51 phố Hàng Bồ. Những khi cha đi lấy tư liệu hay nộp bài không đem
tôi theo được thì gửi tôi nhờ bác Tần, nhà cạnh tòa báo chuyên bán sách báo,
bìa cạc tông cũ, trông và kiểm tra bài học giùm. Có lúc xao nhãng tôi chơi xa,
làm bác phải đi tìm hết hồn. Có hôm học xong ngồi chơi nghe bác kể chuyện cổ
tích thì thấy bác chào người phụ nữ ngang qua:
– Đi đâu
mà trông tất bật thế chị?
Người phụ
nữ đáp lại:
– Dạ, giỗ
ông ngoại của tụi nhỏ, em về nhà, làm mâm cơm tưởng nhớ chứ bom rơi đạn nổ thế
này bày vẽ sao được.
Người phụ
nữ chào rồi đi. Lát sau vợ bác Tần tay cầm chổi quét nhà ra hỏi:
– Vừa rồi
nhìn như chị Thọ vợ anh Đề ấy nhỉ?
– Vợ anh Tạ
Đình Đề chứ còn ai.
Nghe tiếng
Tạ Đình Đề, tôi lại giật mình nghĩ, chắc là ông Tạ Đình Đề bắn giỏi nhưng không
dám hỏi. Nhà ông Đề có lẽ liền kề đâu đây, lòng đoán thầm vậy. Ít năm sau đi với
họa sĩ Văn Len, tôi mới biết nhà bố mẹ vợ bác Tạ Đình Đề ở phố Hàng Ngang ngay
cạnh đây thật. Sợ tôi có ngày bị lạc cha viết mấy câu vần điệu cho tôi học thuộc
lòng phòng khi cha có việc bận về muộn thì tôi có thể tự một mình đi bộ về nhà.
Hàng Bồ vô
Hàng Thiếc
Hàng Thiếc liếc Hàng Nón
Hàng Nón đón Hàng Điếu
Hàng Điếu chiếu Hàng Da
Hàng Da qua Hàng Bông
Hàng Bông trông Quán Sứ
Quán Sứ cứ thẳng tới Nhà hát Nhân dân.
Nếu tôi mải
chơi xa bị lạc thì chỉ cần hỏi khách đi đường tìm vào một trong những tên con
phố trên sẽ yên tâm về được nhà.
Đang cắm
cúi đi, sắp về đến nhà thì có quả bóng lăn qua cái cổng lớn ra ngoài vỉa hè
đúng tầm chân mình. Tôi xoay người đá quả bóng ngược vào cổng đã có người mặc bộ
đồ công nhân đang đuổi theo lấy chân chặn quả bóng lại và giơ ngón tay cái tỏ ý
khen tôi. Ngước trông tấm biển treo trước cổng thấy ghi:
Tổng Cục
Đường Sắt
(Xưởng Dụng cụ Cao su Đường sắt)
65 Quán Sứ.
Cổng trống
toang hoác không có bảo vệ. Nghĩ đến lời chị Thảo Phương hôm nào, nên tôi mạnh
bạo đi vào bên trong. Nhìn khoảng sân xi măng rộng rãi dưới mấy cây bàng già thấy
kê đâu như ba, bốn bàn bóng bàn bằng gỗ đều đang có các cặp đôi chơi đấu với
nhau rất điêu luyện, điệu nghệ, đẹp mắt. Những quả giao bóng chớp nhoáng, có
người tung bóng lên cao khi rơi xuống sát mặt bàn mới lắc nhẹ tay bóng bay xoáy
giật, những cú cắt, những cú tiu, ve, đập, úp vợt, những cú vuốt bóng bàn kỹ
thuật vô cùng. Họ không phải nhà nghề mà đánh ghê như chuyên nghiệp. Nhìn mấy
người đang chơi bóng đá gôn tôm, tôi đi lại gần cái chú ban nãy khen tôi khi chạy
ra lấy bóng hỏi:
– Chú ơi
bác Tạ Đình Đề bắn súng giỏi làm ở đây phải không chú?
Chú chĩa
hai ngón tay vào tôi: Đoành đoành đoành… Chú cười hiền lành và ngoái hỏi bạn đồng
nghiệp:
– Anh Lâm
anh Lâm, hôm nay anh Đề có tới không mà em chẳng thấy. Ôi giời, cái nhà ông
gián điệp Tạ Đình Đề thoắt ẩn thoắt hiện, thoắt thấy thoắt biến, thoắt đi thoắt
về cứ như con thoi ai mà biết.
Chú quay
sang tôi:
– Mà cháu
muốn gặp bác Đề có chuyện gì cứ nói chú.
– À không
cháu chỉ muốn nhìn thấy bác ấy thôi.
Chỉ muốn
nhìn thấy, chú trợn mắt.
– Ờ, chú
hiểu rồi, thủ trưởng Đề của bọn chú nổi tiếng tốt bụng, nổi tiếng bắn súng, nên
ai cũng yêu mến, tò mò muốn được gặp bác ấy. Cháu có thỉnh thoảng đi qua đây
vào giờ nghỉ giải lao giữa ca như này của các chú, thế nào có ngày cháu cũng gặp
bác Đề.
Trong sâu
hơn có người khum hai bàn tay trước mồm báo:
– Đã hết
giờ giải lao, tất cả vào công việc.
Chú công
nhân cúi xuống nhặt quả bóng và chào tôi, chú phải làm việc rồi. Từ đấy có dịp
đi qua cổng 65 Quán Sứ, bất kể giờ giấc nào tôi cũng tạt vào hỏi xem ai là bác
Tạ Đình Đề. Với hy vọng của một kẻ mang căn bệnh mãn tính hiếu thắng trầm trọng
như tôi.
“Ngày vui
ngắn chẳng tày gang”. Mùa đông năm 1972 se sắt tái tê, giá lạnh cực ghê. Hà Nội
đã đuổi hết không tặc Mỹ về. Khoảng 8, 9 giờ tối đêm đó, Xưởng Dụng cụ Cao su của
bác Tạ Đình Đề bỗng bốc cháy khủng khiếp hơn một tiếng đồng hồ, thiệt hại khổng
lồ. Chúng tôi đứng trước cổng Nhà hát Nhân dân nhìn thẳng phố Quán Sứ, lửa tốc
cao hàng chục mét sáng rực vùng trời. Mấy xe cứu hỏa không đủ nước phun chạy
trước mặt chúng tôi qua Trần Hưng Đạo quẹo vào Trần Bình Trọng để lấy nước cấp
tốc từ hồ Ha-le (hồ Thiền Quang) trở lại dập lửa. Vì xưởng sản xuất vợt bóng
bàn nên toàn gỗ với cao su, dễ bắt lửa cháy tàn lụi.
Mấy hôm
sau đi qua, tôi thấy các mái nhà quanh đó và tường hông chùa Quán Sứ cũng như bờ
tường bên Tổng Công Đoàn Việt Nam đen thui. Chỉ có tự lòng tôi não nề, nghĩ số
mình thùi lùi như cứt chó. Gặp bác Tạ Đình Đề? Ấy vậy mà khó. Xưởng Dụng cụ Cao
su của bác Đề cũng mất hút từ đó. Chúng tôi lớn lên càng không thể lãng quên buồn
vui thuở nhỏ.
Tôi chơi
thân với Tạ Đình Hùng khi học cấp 2 ở trường Quang Trung, nằm giữa phố Quang
Trung. Thường gọi Hùng “bóng” vì chẳng biết hắn bôi gì lên đầu mà tóc lúc nào
cũng bóng mượt. Nhà Hùng trong phố chợ Nguyễn Cao. Mỗi lần vào nhà, Hùng có thể
đi được từ hai ngả đường hoặc Lê Quý Đôn hoặc Lò Đúc. Không biết có phải vì thế
mà Hùng “bóng” có lối sống chợ búa lại cộng với tính thù dai dài nhớ.
Người anh
ruột Tạ Đình Dũng của Hùng cũng dân có máu mặt một thời, làm ăn sau ga Trần Quý
Cáp. Làm ăn phi pháp thế nào mà anh bị bắt đi cải tạo. “Đi cải tạo – mất sổ gạo”
là những từ khủng khiếp trên đời của thời chúng tôi tồn tại. Anh Dũng trở về bị
cắt hộ khẩu, người bị cắt hộ khẩu đồng nghĩa như bị mất sổ gạo, sống vô đạo,
ngoài vòng pháp luật mặc dù họ rất muốn phục thiện.
Những người
bị “phốt” (tội lỗi) đừng mong hòng xin vào làm nhà nước. Nghe tin Xưởng Dụng cụ
Cao su của bác Tạ Đình Đề chiêu nạp các thành phần tốt xấu khác nhau, dẫu biết
lý lịch mình không mấy trong sạch, anh vẫn liều lao đơn vào đó với hy vọng mong
manh, có việc làm lương thiện và không ngờ được tiếp nhận dù chẳng quen biết
dính dáng họ hàng gì với nhà bác Đề. Cũng chẳng phải biếu xén quà cáp chi nhiêu
khê phiền toái.
Vừa chân ướt
chân ráo khoác áo công nhân đường sắt đầu năm 1974 thì cuối năm đó chính thủ
trưởng Đề của anh lại bị bắt. Chuyện gì vậy? Loáng thoáng như đâu “tham ô tài sản
Xã hội Chủ nghĩa”. Hai năm sau Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội đã đưa bác Tạ
Đình Đề ra xét xử. Hùng biết tin này từ anh Dũng nên tới nhà rủ tôi.
– Anh Dũng
tao bảo cả ngành đường sắt đình công không làm, để cùng nhau kéo đến dự nghe
xem phiên tòa xét xử ông Tạ Đình Đề ra sao.
Vẫn ôm mộng
thấy mặt bác Đề chỉ một lần thôi nên tôi đồng ý, mặc dù lúc này tôi đã phải lên
họa sĩ Văn Len thuê trên 76 Hàng Đường nhà của ông bà chủ Hùng – Nhàn để vẽ
tranh bờ hồ tàng tàng kiếm sống. Loại tranh lòe loẹt rẻ tiền đó được quét từ tấm
mi ca khắc sẵn phong cảnh như Tháp Rùa, Chùa Một cột, cô gái áo dài thướt tha
là lượt bên cầu Thê Húc, con thuyền độc mộc lướt nước Hồ Gươm xanh lục… quét bố
cục thành hình chính xong mình chỉ việc lấy bút vẽ chấm phá phết phẩy mầu mè
hoa hòe hoa sói để đánh lừa con mắt bình dân. Cuối tuần đem ra phơi bày bán
trên bờ Hồ Gươm, dưới chân tường Tháp Bút cho mấy người nhà quê ra tỉnh chơi,
mua về đóng đanh treo tranh Hà Nội.
Hà Nội ơi!
Mới thống nhất đất nước một năm mà đói tả đói tơi. Đói vàng con mắt, đói thắt
con tim, đói chìm mơ ước. Tổng Bí thư Lê Duẩn ơi! Ông vẽ viễn cảnh chơi vơi?
Dân tộc ta sắp bằng thời người Nhật? “Lời Anh là cả lời non nước”. Thơ của “Sáu
búa” – Lê Đức Thọ ơi! Lúc đó Thọ viết bài thơ tặng Lê Duẩn. Bọn nịnh thần bệ
nguyên câu này in đậm trên trang đầu báo Nhân Dân để bốc đít anh Ba Duẩn tới tận
trời cao khi mà vận nước vô cùng lao đao, con người mặt mũi hốc hác xanh xao.
Giữa năm
đó, tháng 6 – 1976, không ngờ phiên tòa xử Tạ Đình Đề kéo dài gần cả tuần lễ. Đời
tôi cho tới nay, cả Tây lẫn ta chưa bao giờ thấy một phiên tòa nào dữ dội như vậy.
Từ các phương trời, đoàn người ùn ùn nối nhau rủ về Thủ đô, ngày nào xử cũng
nghìn nghịt người dân đứng kín ngoài sân lân ra các phố. Phía trước Lý Thường
Kiệt, sau lưng Hai Bà Trưng, bên hông trái phố Hỏa Lò cũng độc nhất nhà tù mang
tên Hỏa Lò. Người nối vòng vo dài tới bên hông phải đống mồ tro hài cốt. Nay
tro cốt đó người ta dọn sạch hình thành phố mới “19 tháng 12”.
Tôi cùng
Hùng chỉ tham dự được hai ngày. Hùng “bóng” khôn ranh đứng tranh trước cổng Hỏa
Lò nên nhìn rõ bác Đề bị còng tay, bọn công an đẩy nhanh ngay sang Tòa án. (Cửa
tù Hỏa Lò sang cửa phụ bên hông Tòa án chỉ có mấy bước chân). Ngày cuối, tôi tới
sớm hơn nghe ngóng binh tình, thấy bảo hình như ông Đề về với ông Hoan tới đón
(Hoàng Văn Hoan Ủy viên Bộ Chính trị). Mà xe Volga đen của ông Hoan để chếch cổng
Tòa án. Tôi nhắm mình sẽ trèo lên cây cơm nguội già đầu phố Dã Tượng nhìn qua
xe Volga rất rõ nếu ông Đề đi ra hướng đó.
Tôi xin trích một trong muôn vàn câu hỏi, câu trả lời trên đây gói gần một tuần
xử của tòa thôi.
Tiếng loa
treo bên ngoài phát ra nhiều câu hỏi của tòa và trả lời của bị cáo:
– Tại sao
anh lại nhận cả những kẻ tù tội, phạm pháp, bất lương, vào làm trong Xưởng.
Tiếng ông
Đề rõ ràng:
– Họ là những
người phạm tội nên mới bị đi cải tạo vào lao tù. Mãn hạn tù và cải tạo tức là họ
đã tốt, họ được về và muốn trở thành người lương thiện. Nếu chúng ta không dành
tình thương yêu, không có lòng bao dung độ lượng, dang tay cứu họ thì ai cứu họ
đây. Tiếng vỗ tay vang cả một vùng trời.
v…v…v…
Lời cuối của
ông Tạ Đình Đề càng thêm đanh thép. “… Tính tới hôm nay gần 45 ngày tôi
không được tắm rửa. Theo Cách mạng đi kháng chiến, tôi từng bị ngồi tù thời
Pháp nhưng không đến nỗi tàn bạo thế này…” Cả một rừng người đông nghìn nghịt
đều lặng đi im phăng phắc. Sau đó lại ào ào không ngớt.
Mở đầu buổi
sáng phiên tòa cho tới hết buổi chiều phiên tòa người ta hỏi nhiều, nhiều, nhiều
lắm. Trả lời cũng nhiều, nhiều, nhiều lắm…
Tòa kết
thúc, Tạ Đình Đề trắng án. Tiếng hô dậy đất, vang trời, reo mừng dài dài không
ngớt. Phó chủ tịch Quốc hội Hoàng Văn Hoan chỉ là khách tới dự và bà Thẩm phán
Phùng Lê Trân được ngợi khen bất tận.
Chỗ này ta
phải đánh giá cho công tâm đối với nhân vật lịch sử Hoàng Văn Hoan. Trong cuốn
“Thiên Thu Định Luận”, 1994 – phả ký gia tộc của Hoàng Nhật Tân, con trai ông
Hoan có nói một đoạn. Những ngày sau phiên tòa xử Tạ Đình Đề, nhiều người của
Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội lặng lẽ tới nhà riêng, nơi Hoàng Văn Hoan ở Phan
Đình Phùng gặp gỡ rồi họ lại lặng lẽ đi. Chỉ biết từ đó Hoàng Văn Hoan bị thất
sủng, Bộ Chính trị không trọng dụng ông nữa.
Có một chi
tiết chẳng biết liên quan gì không mà ít người chú ý. Cũng vào thời điểm ấy
“con cọp thọt” Hoàng Quốc Việt, một đại công thần của Triều đình Cộng sản đang
đương kim Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, kiêm Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân
dân Tối cao. “Cây đa” Hoàng Văn Hoan mà còn bị quật như thế thì nói chi “cây khế”
Phùng Lê Trân. Bà được người dân Hà Nội lúc đó mến yêu gọi là bà “Bao Công” nước
Việt. Chấp pháp nghiêm minh, không vị nể tư tình, uy vũ bất năng khuất. Sau vụ
tòa lịch sử ấy bà suy sụp tinh thần và đổ bệnh. Bất ngờ người ta báo bà về nghỉ
hưu năm 1978. Tiếp theo, năm 1979 Hoàng Văn Hoan ôm hận bỏ nước đi theo Tàu,
lòng muôn bi sầu. Tới năm 1985 thì Tạ Đình Đề bị bắt lại và lại đưa ra tòa xét
xử nhưng vẫn trắng tội. Một kịch bản tồi thối um khó ngửi mà ông Đề hóm hỉnh gọi
đó là lần đậu “tú tài” – tái tù, tù lần hai.
Cháy,
cháy, cháy, nghe tiếng hô hoán nhốn nháo, tôi vội tuột tới nửa thân cây rồi nhẩy
xuống đất. Tổ phục vụ bán nước, bán than, củi, dầu hỏa, đầu ngõ Dã Tượng bị lửa
bắt vào táp cháy mái lợp giấy dầu. Cũng may cháy không lớn, trước sân nhào than
lẫn bùn bán theo bìa mua chất đốt hàng tháng họ có để mấy thùng nước sẵn đấy
nên mọi người kịp dập tắt. Dập lửa xong cũng là dập tắt luôn niềm hy vọng ngày
hôm nay của tôi, ngày cuối cùng khép phiên tòa những mong được gặp bác Đề không
trở về với tôi nữa.
Chiều đầu
thu 1978, tôi ngồi bán nốt số tranh ế ẩm còn lại ngoài bờ hồ Hoàn Kiếm, lòng
nghĩ tới Hùng “bóng”. Nghĩ tới số phận mỗi con người trong cuộc đời. Lúc này hắn
đã yên vị trên trại giam Tân Lập. Họa sĩ Văn Len được cha tôi nói nên ra báo
tin tôi có giấy gọi nhập ngũ. Giầu nghèo có số nếu cố cũng chẳng hơn ai, tôi
thu cuộn tranh lại ôm theo về với Văn Len. Đến đầu phố Hàng Ngang họa sĩ dừng
chân chào người phụ nữ đang đi ngược chiều. Tôi chớp chớp nhìn người này hình
như mình đã gặp ở đâu đó. Lại gần chào bác và ngắm kỹ hơn người phụ nữ vẫn còn
vương sót lại trên gương mặt, làn môi những nét pha phôi của một thời xuân sắc.
– Từ ngày
chị Thọ không phải mang cơm nuôi, tù em thấy chị trẻ ra nhiều đấy? Ừ cái tên chị
Thọ tôi nhớ ra rồi.
– Cảm ơn
chú, chú cứ quá lời khen.
– Em nói
thật vậy.
Quay sang
tôi họa sĩ Văn Len muốn để bà nghe:
– Thằng
cháu này ngày nhỏ mê tài bắn súng của anh Đề lắm, em đã hứa với nó hôm nào anh
Đề ra (lúc ấy bác Đề đang trong Nam) em vác giá tới xin được vẽ tặng anh một bức
chân dung có cho nó đi cùng. Bức chân dung người anh hùng ngành Đường sắt Tạ
Đình Đề được họa sĩ Văn Len hoàn thành ngay sau đó. Mà tôi đành phải vắng mặt,
nhanh nhanh khoác ba lô đời mưa gió lên biên cương chống giặc bạo cường phương
Bắc.
Hùng học sắp
hết cấp 2 thì bị đuổi khỏi trường vì hay “bát tiết – dạt vòm”, trốn học, bỏ nhà
là từ lóng thời chúng tôi. Hùng sống lang thang ra nhập làng dân phe phẩy. Hồi
đó chuyện buôn đi bán lại (phe phẩy) tem phiếu thực phẩm là bị nghiêm cấm và
nghiêm trị. Ai vào con đường này thì coi như người đó xã hội bỏ đi. Hùng “bóng”
chuyên quẩn quanh trước Bách hóa Tổng hợp số 5 Nam Bộ, đầu Cao Bá Quát, ga Trần
Quý Cáp, cửa Rạp Kinh Đô.
Tối ấy,
Hùng “bóng” trấn lột được đôi “đúc Tầu” (dép cao su Trung Quốc) của một thanh
niên bỏ dép ra ngoài ngồi xổm trên ghế băng ăn cháo lòng bên vỉa hè chợ Cửa Nam
ngay sát chỗ chắn ngang đường tầu hỏa. Nhìn mặt Hùng lạnh băng đang đặt tay nơi
con dao thái lòng của bà hàng, nên kẻ kia không mong hòng chống lại. Đúc Tầu,
mũ cối, quần ga, tông gan gà, những tên hàng Trung Quốc – Thái Lan ấy là xa xỉ
phẩm thời “quân khu” oanh liệt của chúng tôi nay còn đâu.
Tưởng hôm
sau sẽ có mấy đồng bạc để tiêu không ngờ Hùng “bóng” bị một đàn anh lì lợm khác
dí con lê (lưỡi lê súng) vào sườn bắt nộp lại. Bị nẫng tay trên “quả đúc Tầu”
quá đau, Hùng ẩn nấp lặng lẽ bám sau mà kẻ đó không hề hay. Hùng theo hắn về đường
Phùng Hưng và biết nhà kẻ đó ở đầu phố Nguyễn Quang Bích. Hùng “bóng” hỏi dò mấy
bà hàng quanh đấy, họ nói kẻ đó cũng tên Hùng, thường gọi Hùng “lẩn”. Bậc đàn
anh này hung hãn lắm nhưng vì tính khí thù dai dài nhớ nên Hùng “bóng” vẫn nuôi
chí trả thù khi có dịp. Thù chưa kịp rửa thì thông tin Hùng “lẩn” bị bắt xử tử
hình với đầy đủ tên họ: Phạm Đăng Hùng, can 3 tội ác giết người, cướp của, hiếp
dâm. Hùng gây án trên phố Phạm Đình Hổ.
Thêm một vụ
kinh thiên động địa mà sống ở Hà Nội từ nhỏ nhưng chưa bao giờ bọn tôi được
nghe vì kẻ này rất hung bạo, mưu mô, xảo quyệt. Hùng “lẩn” gây án xong lại đi
“đánh quả” (ăn trộm) lẻ khác trắng trợn để cố tình bị bắt vào tù coi như bịt đầu
mối tội ác kia. Mưu này của Hùng “lẩn” cao cờ chưa từng có ở thời “đầu bò đầu gấu”
chúng tôi. Hôm nghe tin Tòa án tử hình Phạm Đăng Hùng, Hùng “bóng” cũng có mặt
bên ngoài sân, tòa tuyên bố:
– Nếu tòa
không tử hình Hùng “lẩn” thì Hùng “bóng” này cũng xuống tay tiễn biệt Phạm Đăng
Hùng.
Mọi người
xung quanh nhìn Hùng “bóng” kinh hãi. Sau lời tuyên bố lạnh máu ở sân tòa đầu
năm 1978 ấy để vĩnh biệt Phạm Đăng Hùng. Hùng “bóng” dính “chưởng” (phạm tội)
khác bị đi mấy “biển” (mấy năm) lên trại giam Tân Lập – Phú Thọ.
***
Biết tôi
mê bóng đá, một tối mùa đông năm 1982, Minh “lừa” tới rủ tôi xuống phố Hàng
Cháo mua vé bóng đá cho trận đấu ngày hôm sau trên sân Hàng Đẫy. Mua qua tay
Lan “cáo”, mụ này phe vé chuyên nghiệp. Tôi cũng chẳng nhớ đội nào đấu với đội
nào. Lòng dạ đâu mà nhớ khi bụng đang réo, dạ đang teo, thất nghiệp ngồi nhà vừa
mới ra quân mốc meo rỗng túi. Đang cò kè, mè nheo giá vé trước nhà mụ Lan thì có
tiếng quát:
– Tất cả đứng
im.
Hùng
“bóng” cười ha hả với một thằng bạn của hắn nữa. Trời ơi gần năm năm rồi, Hùng
ôm lấy tôi, gật gật đầu chào Minh “lừa”. Rồi quay sang hất hàm với thằng bạn:
– Mày hỏi
nó có phải vụ xử Tạ Đình Đề tao và nó đi xem mấy ngày không?
Hùng quay
sang tôi:
– Tao vẫn
kể chuyện anh em mình mê ông Tạ Đình Đề bắn giỏi cho thằng Tâm này nghe.
Qua Hùng
tôi mới biết Tâm là con trai duy nhất của bác Thẩm phán Phùng Lê Trân, nhà hắn ở
số 7 trên tầng 3 gần đầu phố Cao Bá Quát. Chưa kịp mời nhau thì có tiếng kêu thất
thanh:
– Cháy,
cháy cháy…
Tiếng hô
hoán bất ngờ làm chúng tôi cũng hoảng loạn. Cháy từ cái nhà hàng chuyên cắt lốp
xe ô tô bắt lửa sang nhà bên, có tiếng trẻ kêu rên thảm thiết. Không có cách gì
để cứu được nữa rồi. Có nước đấy nhưng cũng đành chịu. Ác nỗi dây điện chập rơi
dính vào cửa sắt, mà cửa sắt khi đi người mẹ khóa chặt để hai đứa con trai nhỏ
bên trong. Cả phố Hàng Cháo bó tay đứng nhìn trông cái chết đớn đau tang thương
quá. Bà mẹ trẻ từ đâu chạy về ngã nhào, thét gào điên loạn. Chúng tôi chia tay
trong hốt hoảng đêm đông.
***
Chú Đinh
Văn Loan, làm ở nhà xuất bản Lao Động. Người cùng tập thể Nhà hát Nhân dân với
tôi. Về hưu chú mở một sạp bán báo trước khu nhà B Trung Tự. Chú biết sở thích
của tôi. Hôm đi qua, chú vẫy lại chìa tờ báo Tiền Phong mới trong ngày:
– Nay báo
đăng đơn khiếu nại của ông Tạ Đình Đề, rõ tội người ta trắng án tới mười lăm
năm nay (1991) mà không một ai có lời xin lỗi.
Tôi rút tiền
trả chú rồi kẹp tờ báo ở yên sau xe đạp. Tí nữa cháu đọc sau, chào chú tôi lên
xe đạp về. Dựng xe đạp để thằng cháu chục tuổi đầu, con anh trai trông cho chú.
Tôi quay ra mua mớ rau vào nấu cơm. Khi trở lại thấy nó đang cầm mảnh báo cháy
phừng phực huơ huơ chân tường đốt đàn kiến vỡ tổ. Tôi lao tới nhưng không kịp.
Nó đã xé tờ báo Tiền Phong tôi vừa mới mua, mà lại xé đúng trang có đăng đơn
khiếu nại của bác Đề, ác thế. Tôi giơ tay bạt tai nó rõ đau, bực mình ném mớ
rau vãi vung trên đất.
Mong thấy
bác Tạ Đình Đề ngoài đời cũng không xong mà mơ gặp bác trong trang báo cũng chẳng
được. Người ta bảo gặp lửa thì đỏ (vận may). Thế mà cứ mỗi lần muốn gặp bác thì
lại bị cháy. Những giai thoại cũng như hình ảnh con người đôn hậu của bác.
Không, phải nói cho chính xác của hai bác, mãi mãi là thần tượng, mãi mãi cháy
sáng trong tim lũ trẻ Nhà hát Nhân dân chúng tôi. Khép lại đây một ký ức xa vời,
song không quên cúi đầu trước hương linh hai bác Thẩm phán Phùng Lê Trân và
Giám đốc Tạ Đình Đề.
Tháng
8 – Sinh nhật bác Tạ Đình Đề
________
Một số hình ảnh:
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/08/1-35.jpg
Bà Thẩm phán Phùng Lê Trân (1921-2007). Photo
Courtesy
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/08/2-1.jpg
Ông Giám đốc Tạ Đình Đề (1917-1998). Ảnh trên mạng
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/08/1-36-696x392.jpg
Hồ Xuân Nam
“da cát lượng” (trái), ngồi với Tùng “hồ”. Nguồn: Dương Tự Lập
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/08/2-2.jpg
Một nhóm trẻ
Nhà hát Nhân dân chúng tôi thời 1972-1973 đang ngồi trên bệ cấm trước khu vực
Ban nhạc và sau lưng là hàng ghế cho khán giả bằng bê tông, hàng ngồi gần phía
cuối bằng gỗ. Nguồn: Dương Tự Lập
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/08/1-37-696x527.jpg
Em trai Dương Tự Quyết trên lưng sư tử gang
trong sân Nhà hát Nhân dân – 1973. Một ngày sau khi Hiệp định Paris được ký kết
27/1. Nguồn: Dương Tự Lập.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/08/2-3-602x420.jpg
Khu Đấu xảo – Triển lãm hội chợ (ảnh tư liệu)
tiền thân của Khu Nhà hát Nhân dân, tuổi thơ của chúng tôi.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/08/3-696x464.jpg
Tòa soạn báo Lao Động 51 – Hàng Bồ và khu phố cổ,
tuổi thơ của riêng tôi. Nguồn: Hoàng Luật
No comments:
Post a Comment