Khủng
hoảng việc làm và cuộc “Đại nhảy lùi” của Tập Cận Bình
Craig Singleton - Foreign
Policy
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
23/08/2022
https://nghiencuuquocte.org/2022/08/23/khung-hoang-viec-lam-va-cuoc-dai-nhay-lui-cua-tap-can-binh/
Bắc Kinh hiện
đã chẳng còn lý lẽ nào để bào chữa cho cuộc khủng hoảng việc làm tiềm tàng – và
việc tái sinh các chính sách thời Mao.
Trung
Quốc, thường được mệnh danh là “công xưởng của thế giới”, chiếm khoảng 30% sản
lượng sản xuất toàn cầu. Tuy nhiên, có một mặt hàng mà Trung Quốc không thể sản
xuất đủ nhanh: việc làm cho hàng triệu sinh viên mới tốt nghiệp đại học.
Trong
bối cảnh khủng hoảng kinh tế ngày càng trầm trọng, gần 1/5 số người ở Trung Quốc
trong độ tuổi từ 16 đến 24 hiện đang thất nghiệp, và hàng triệu người khác đang
trong cảnh ‘bán thất nghiệp.’ Một khảo sát cho thấy trong số 11 triệu sinh viên
Trung Quốc tốt nghiệp đại học vào mùa hè này, chưa đến 15% đã nhận được lời mời
làm việc vào giữa tháng 4. Trong khi tiền lương của các công nhân người Mỹ hoặc
châu Âu tăng vọt, sinh viên tốt nghiệp Trung Quốc năm nay có lẽ sẽ kiếm được ít
hơn 12% so với nhóm tốt nghiệp năm 2021. Thậm chí, nhiều người trong số này có
thể còn kiếm được ít hơn các tài xế xe tải – đấy là nếu họ đủ may mắn tìm được
việc làm.
Nói
một cách đơn giản, Trung Quốc đang có nguy cơ rơi vào khủng hoảng việc làm. Các
nhà lãnh đạo Trung Quốc biết rõ điều đó – và đã tìm cách ứng phó bằng các đề xuất
chính sách gợi nhớ về quá khứ, như gửi sinh viên thành thị đến làm việc ở nông
thôn. Vấn đề đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ngày nay là những phương
sách từ quá khứ sẽ chẳng còn mấy tác dụng, dù cho nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận
Bình có sửa chữa các chính sách gây ra cuộc khủng hoảng tài khóa của đất nước
ông nhanh đến mức nào.
Những
rủi ro từ cuộc khủng hoảng việc làm hiện hữu đang ở mức cao nhất đối với Tập,
người đang muốn tiếp tục giữ chiếc ghế tổng bí thư tại Đại hội Đảng lần thứ 20
vào mùa thu năm nay. Nó cũng là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng hệ thống kế hoạch
hóa tập trung của Trung Quốc hoàn toàn không được trang bị đủ để nuôi dưỡng,
tuyển dụng, và giữ chân những nhân tài hàng đầu, ngay cả khi Trung Quốc đã tăng
tốc đổi mới công nghệ để cố gắng vượt qua Mỹ.
Cũng
giống như nhiều quốc gia khác, Trung Quốc từ lâu đã phải đối mặt với chu kỳ
tăng trưởng và suy thoái việc làm. Trong nhiều thập niên, các nhà lãnh đạo
ĐCSTQ đã chứng tỏ khả năng vượt trội trong việc đánh bại các mối đe dọa thất
nghiệp từ rất lâu trước khi chúng lộ diện. Một vài trong số những mối nguy này
là do các chính sách kinh tế của ĐCSTQ, chẳng hạn như cuộc đàn áp ngành công
nghiệp giáo dục trị giá hàng tỷ đô la. Các đợt khủng hoảng khác bắt nguồn từ
các sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát của Bắc Kinh, như khủng hoảng tài chính
phương Tây 2008-2009 và theo sau là sự sụt giảm nhu cầu đối với hàng xuất khẩu
của Trung Quốc trên toàn cầu. Nhận thức được mối đe dọa đối với sự ổn định của
chế độ do tình trạng thất nghiệp hàng loạt ở thành thị gây ra, ĐCSTQ đã liên tục
tìm cách giải quyết sớm những thách thức này, thường đưa ra những thỏa thuận lớn
với người dân Trung Quốc để ngăn chặn thảm họa chính trị.
Chẳng
hạn, sau vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989, ĐCSTQ đã khích lệ giới trẻ bằng
cách hứa hẹn những cơ hội gần như vô hạn trong bối cảnh của đợt bùng nổ kinh tế
vĩ đại nhất trong lịch sử nước này. Những lo ngại của ĐCSTQ về tình trạng bất ổn
xã hội không dẫn tới việc hình thành một mạng lưới an sinh xã hội mạnh mẽ, mà tạo
ra một hệ thống giáo dục đại học có giá cả phải chăng, đến nỗi nợ sinh viên hầu
như không tồn tại ở Trung Quốc. Tính đến năm 2020, sinh viên tại 10 trường đại
học hàng đầu của Trung Quốc chỉ phải trả khoảng 800 đô la học phí hàng năm, so
với mức 50.000 đô la tại các trường đại học hàng đầu của Mỹ. Một thập niên sau
cú sốc Thiên An Môn, khi Trung Quốc đang đối mặt với thị trường việc làm thắt
chặt và chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, ĐCSTQ đã tiến xa hơn, luật
hóa một chương trình mở rộng tuyển sinh đại học dài hạn được thiết kế để kích
thích nền kinh tế Trung Quốc. Kết quả: tỷ lệ nhập học đại học tăng vọt 47%
trong năm đầu tiên triển khai chương trình.
Nhưng
cuộc khủng hoảng việc làm hiện tại lại khác. Nó không có nhiều điểm chung với
thời điểm lạc quan năm 1990, mà có sự tương đồng với thời kỳ Đại Nhảy vọt của
Mao Trạch Đông, lần cuối cùng nền kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng khó
khăn nghiêm trọng. Hồi đó, khi công chúng ngày càng chỉ trích các chính sách
kinh tế của ông, Mao đã triển khai chiến dịch hạ phóng (hsia-fang) khét
tiếng nhằm giảm bớt nạn thất nghiệp ở thành thị bằng cách cưỡng chế, buộc hàng
chục triệu thanh niên chuyển từ các thành phố đông đúc của Trung Quốc về vùng
nông thôn. Chiến lược của Mao bắt nguồn từ thực tế rằng mỗi năm hàng triệu học
sinh tốt nghiệp trung học sẽ đến tuổi đi làm ở các thành phố lớn nhất của Trung
Quốc, nhưng số lượng công việc chỉ bằng một nửa số lượng người tốt nghiệp. Hạ
phóng cũng cung cấp cho Mao một vỏ bọc rất cần thiết để chia tách những kẻ
chống đối tư tưởng của ông, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để tách thanh
niên Trung Quốc khỏi gia đình của họ, mà về bản chất là ràng buộc họ với đảng.
Tập, cùng với hàng triệu đồng niên của mình, đã trải qua nhiều năm vất vả ở
vùng nông thôn – mãi cho đến khi Mao qua đời, và sự phản đối kịch liệt của công
chúng dẫn đến việc chấm dứt chiến dịch hạ phóng vào năm 1980.
ĐCSTQ
sau đó đã coi các chính sách hạ phóng của Mao là một “thảm họa,” một lời
chỉ trích hiếm hoi trong lịch sử. Tuy nhiên, điều đó đã không ngăn được Tập làm
sống lại các thành tố chính sách thời Mao. Cách đây vài năm, Tập đã công bố các
chương trình mới nhằm khuyến khích học sinh ở thành thị đến làm tình nguyện ở
các vùng nông thôn trong kỳ nghỉ hè. Các chương trình tương tự dành cho sinh
viên đại học cũng sớm được thực hiện, đỉnh điểm là một nghị quyết của ĐCSTQ mới
ban hành gần đây, trong đó đề cập đến các khoản trợ cấp khởi nghiệp hưởng một lần,
các khoản vay do chính phủ hậu thuẫn, cùng nhiều ưu đãi thuế khác dành cho sinh
viên tốt nghiệp đại học khởi nghiệp kinh doanh tại nông thôn Trung Quốc. Công bằng
mà nói, những chương trình này vẫn chưa mang tính bắt buộc. Nhưng các chương
trình của Mao cũng không bắt buộc, chí ít là ở giai đoạn đầu.
Một
điểm tương đồng khác với thời Mao đó là Tập đã nhận ra quy mô của cuộc khủng hoảng
việc làm hiện nay của Trung Quốc quá trễ. Suốt nhiều năm, Tập vẫn hy vọng rằng
việc tăng cường đô thị hóa, tăng chi tiêu (bằng nợ vay) để xây dựng thêm cơ sở
hạ tầng, và các cải cách cơ cấu ít ỏi sẽ giúp hồi sinh sự tăng trưởng đang suy
yếu của Trung Quốc. Giờ đây, sau nhiều thập niên xây dựng hệ thống giáo dục đại
học nhằm đáp ứng nhu cầu chính trị thay vì nhu cầu thị trường, theo lời đối thủ
chính trị của Tập đồng thời cũng là Thủ tướng sắp mãn nhiệm Lý Khắc Cường,
Trung Quốc phải đối mặt với một thị trường việc làm “phức tạp và nghiêm trọng”,
dường như đang có nguy cơ sụp đổ dưới sức nặng của các cuộc phong tỏa
zero-Covid không hồi kết của Tập.
Cuộc
khủng hoảng việc làm của Tập đã trở nên tồi tệ hơn do cuộc đàn áp mạnh tay của
ông đối với những gã khổng lồ công nghệ của Trung Quốc, dẫn đến tình trạng sa
thải hàng loạt trong chính ngành công nghiệp mà Tập tuyên bố sẽ thúc đẩy giai
đoạn phát triển tiếp theo của đất nước. Những người tìm việc cũng sẽ không lựa
chọn lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn, vốn cũng đang là ngành sa thải
hàng loạt nhân công, khi các tập đoàn xây dựng của Trung Quốc tính đến số nợ
ngày càng tăng và việc không ai muốn mua các trái phiếu doanh nghiệp đầy rủi ro
của họ. Sau khi nhận ra rằng việc làm ở các nhà máy Trung Quốc đã đạt đỉnh từ
nhiều năm trước, những người lao động nhập cư không có tay nghề đã dần chuyển
sang các công việc thuộc khu vực dịch vụ cấp thấp, chủ yếu là trong nền kinh tế
hợp đồng thời vụ. Do các vị trí tuyển dụng trong nhà máy có lẽ sẽ không thể phục
hồi trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, tình trạng thất nghiệp trầm trọng
nhiều khả năng sẽ khiến tiền lương sụt giảm, trong lúc các công nhân đang tuyệt
vọng cố gắng cạnh tranh để giành lấy những công việc cần ít hoặc không cần kỹ
năng.
Ngày
càng có nhiều dấu hiệu cho thấy người dân Trung Quốc đang đạt đến ngưỡng chịu đựng
của mình. Tháng 7 năm nay, các cuộc biểu tình bạo lực đã nổ ra bên ngoài nhiều
ngân hàng Trung Quốc sau khi các tài khoản bị đóng băng mà không có lời giải
thích. Cùng tháng đó, các gia đình ở 24 trong số 31 tỉnh của Trung Quốc đã tẩy
chay việc thanh toán thế chấp cho các dự án căn hộ chưa hoàn thành. Kết quả khảo
sát cho thấy khoảng 10.000 người Trung Quốc giàu có, với khối tài sản khoảng 48
tỷ đô la, đang tìm cách rời khỏi nước này. ĐCSTQ đã lựa chọn một phản ứng nửa vời
đối với loạt khủng hoảng này, cho tiến hành một số cải cách. Nhưng rõ ràng là
tình trạng bất ổn vẫn tiếp diễn, và niềm tin mong manh giữa ĐCSTQ và người dân
sẽ còn rạn nứt.
Lịch
sử cho thấy rằng Tập rất có thể sẽ có một lựa chọn chính sách bất ngờ, dù những
thay đổi lớn trước đại hội đảng vào mùa thu năm nay có lẽ khó xảy ra. Về lý
thuyết, và tương tự như việc Mao củng cố ảnh hưởng của đảng-nhà nước trong cuộc
sống hàng ngày của người dân Trung Quốc, Tập có thể ra lệnh cho các doanh nghiệp
nhà nước tiến hành các chiến dịch tuyển dụng khổng lồ, tốn kém, và không hiệu
quả nhằm giải quyết bất ổn chính trị gây ra bởi đám đông sinh viên ra trường
đang thất nghiệp. Ông có thể sẽ đưa hàng trăm nghìn công nhân vào tổ hợp công
nghiệp-quân sự rộng lớn của Trung Quốc, dù việc điều chỉnh các kỹ năng không
phù hợp của nhóm công nhân mới tuyển dụng này sẽ tốn kém về thời gian và tiền bạc.
Tập cũng đã cử các phái viên cải thiện các mối quan hệ bị tổn hại nặng nề của
Trung Quốc với Liên minh châu Âu và Australia, một phần nhằm củng cố cơ sở sản
xuất của Trung Quốc, nhưng những nỗ lực như vậy khó có thể thành công nếu Bắc
Kinh tiếp tục ủng hộ cuộc xâm lược Ukraine của Moscow.
Vẫn
chưa rõ liệu Mỹ và các quốc gia khác có thể tận dụng cơ hội này để biến thặng
dư chất xám của Trung Quốc thành lợi thế cho mình hay không, có thể bằng cách sửa
đổi các quy định về di cư để thu hút những cá nhân xuất sắc nhất của Trung Quốc
đến định cư lâu dài ở phương Tây. Trong Thế chiến II và Chiến tranh Lạnh, các
chương trình tương tự đã làm suy yếu các đối thủ của phương Tây bằng cách thu
hút những bộ óc hàng đầu tìm kiếm nơi ẩn náu khỏi sự áp bức của Đức Quốc Xã và
Liên Xô, dù các chương trình và quy trình kiểm tra lý lịch mới sẽ cần được cập
nhật để đối phó với bộ máy gián điệp của Trung Quốc.
Trong
khi đó, Tập có thể sẽ sớm phải đối mặt với những giới hạn thực tế trong nỗ lực
tôn vinh di sản của Mao. Dù quan điểm chính thức của ĐCSTQ nói rằng trải nghiệm
thời kỳ hạ phóng của Tập giúp ông lưu tâm nhiều hơn đến những lo ngại
của dân thường và giúp thế hệ của ông trở thành xương sống của một nước “Trung
Quốc mới”, điều đó không chắc sẽ có thể xoa dịu giới trẻ ngày nay, khi họ phải
đối đầu với cuộc “đại nhảy lùi’ sắp tới của chính họ.
---------------------------
Craig Singleton là nghiên cứu viên cấp cao về Trung
Quốc tại Quỹ Bảo vệ các Nền dân chủ và là một cựu quan chức ngoại giao Mỹ.
Nguồn:
Craig Singleton, “Xi’s
Great Leap Backward”, Foreign Policy, 04/08/2022
No comments:
Post a Comment