20/07/2020
Phải chăng ngày xưa đất
và nước là mạch sống của con người nên cha ông chúng ta đã gọi đất nước là tổ
quốc của mình?
Quả thật, cho đến ngày
nay, nếu không có đất và nước thì không thể có sinh thái và qua đó, không thể
có sự sống.
Những quốc gia may mắn
như Việt Nam, “rừng vàng biển bạc”, sông ngòi phì nhiêu, thường có tâm lý ỷ lại.
Nhưng chỉ ba bốn thế hệ nữa thôi, những nguồn lực thiên nhiên này sẽ cạn kiệt.
Rừng sẽ hết “vàng”, biển sẽ hết “bạc”, sông ngòi thì khô cằn hoặc ô nhiễm.
Sự phá hoại của con người
vì không biết quản lý môi trường sống, và vì lòng tham vô đáy của một số người,
thì đến một lúc nào đó chỉ là vấn đề nhân quả thôi.
Vì “hồng” hơn
“chuyên”
Vào đầu năm ngoái, Đài
Tiếng Nói Hoa Kỳ đưa bản tin về nghiên cứu mới của nhà địa vật lý
Philip Minderhoud thuộc Đại học Utrecht và Viện Nghiên cứu Deltares [1].
Minderhoud đã làm luận án tiến sĩ về đồng bằng trên các sông lớn, và hiện được
xem là chuyên gia hàng đầu về sụt đất ở đồng bằng sông Cửu Long [2]. Trước đó gần
hai năm, Minderhoud đã phổ biến bài
nghiên cứu của mình trên IOP Science,
với kết luận: “Trong 25 năm qua, việc khai thác nước ngầm đã gia tăng đáng kể,
biến vùng đồng bằng từ trạng thái thủy văn gần như không bị xáo trộn sang tình
trạng cạn kiệt tầng nước ngầm” [3].
Minderhoud luận rằng, từ
khi Việt Nam chuyển đổi vào cuối thập niên 1980 sang nền kinh tế thị trường,
đưa đến sản xuất nông nghiệp, dân số gia tăng, và đô thị hóa, tất cả đều cần đến
nước ngầm; nhưng việc bơm nước ngầm làm trầm trọng thêm vấn đề sụt đất. Nước ngầm
được khai thác từ đầu thế kỷ này, ngày nay nó
vượt quá 2,5 triệu mét khối mỗi ngày [4]. Ảnh hưởng dây chuyền của đất
bị sụt lún sẽ làm mực nước biển tăng nhanh hơn so với đất liền, như thể đồng bằng đang chìm xuống
biển. Thêm vào đó, vì hạn hán và vì nước bị chặn từ thượng nguồn nên nước
mặn ngày càng đẩy sâu hơn vào đất liền, như đã trình bày trong bài
đầu, làm cho đồng bằng đối mặt với vấn đề nhiễm mặn.
Theo nghiên cứu mới thì
nếu tình trạng như vậy tiếp diễn và thì Đồng bằng Sông Cửu Long, từng mệnh
danh là vựa lúa của Việt Nam, quê hương của 18 đến 20 triệu dân, cung cấp lương
thực cho 200 triệu người, có thể bì chìm dưới nước vào năm 2100. Với mực nước
biển gia tăng vì sự hâm nóng toàn cầu, của sự thay đổi khí hậu, thì không có
hành động nào có thể cứu vãn vùng đồng bằng ở những nơi thấp, tuy rằng nếu thay
đổi cách dùng đất có thể cứu được những nơi khác.
Cửu long, chín nhánh sông, bây giờ chỉ còn bảy, và có nguy cơ sẽ còn bốn
hay năm, theo một cố vấn chính quyền Việt Nam cho biết.
Theo VOA thì Việt Nam hiện
đang là một quốc gia xuất cảng gạo lớn thứ nhì thế giới (trong khi đó, theo nguồn khác thì
Việt Nam đang đứng thứ tư, sau Ấn Độ, Thái Lan và Mỹ), trong đó 95 phần trăm được
sản xuất tại Đồng bằng Sông Cửu Long, cũng là nơi xuất cảng 60 phần trăm các loại
cá. Năm 2016, Việt Nam bị mất 1,6 tỷ Mỹ kim vì nạn lụt lội và hạn hán đã phá
hoại 300 triệu tấn gạo tại đồng bằng.
Tóm lại, vì sự quản lý tồi
tệ, lãnh đạo thì hồng hơn chuyên, cộng với tham ô nhũng lạm tràn lan, nên chỉ
trong vòng ba thập niên nay, Đồng bằng Sông Cửu Long, đang từ vựa lúa trở thành
một tình cảnh vô cùng bi đát.
Dùng nước như vũ
khí
Vào cuối năm 2019, tiến
sĩ Osborne cũng bày tỏ sự
quan tâm sâu xa của mình đối với các đập nước đã và đang được xây bởi
Trung Quốc, cộng với hạn hán năm 2019, với mực nước thấp nhất trong vài năm
qua, tạo ra một tình huống nguy cấp tại đây [5].
Tiến sĩ Osborne nhận định
Ủy ban Sông Mekong (MRC) không có ảnh hưởng đến các đập nước như tại Lào, một
quốc gia thành viên, thì làm sao có tiếng nói gì về các đập nước do Trung Quốc
xây. Còn khung Hợp tác Mekong-Lancang (LMC) của Trung Quốc cũng chẳng quan tâm
gì đến tác hại của đập nước, khoan nói đến vấn đề giòng chảy phù sa. Chính vì
thế mà Osborne nhìn viễn ảnh tại Mekong hết sức bi quan.
Tiến sĩ Milton
Osborne là một giáo sư và chuyên gia về Đông Nam Á gần 60 năm làm việc,
kể từ năm 1959 khi ông bắt đầu phục vụ cho Tòa Đại sứ Úc tại Phnom Penh; từng
giảng dạy tại Úc, Anh, Mỹ và Singapore. Ông viết nhiều bài trên cơ quan nghiên
cứu Lowy Institute về
sông Mekong, và đã cho ra đời 11 cuốn sách giá trị.
Tiến sĩ Osborne,
trong một
bài viết khác, xác định rằng không những Trung Quốc không để cho phù sa chảy xuống hạ nguồn
mà ngược lại, một trong những lý do xây dựng đập nước cực lớn tại Tiểu Loan
(Xiaowan) là để giới hạn phù sa chỉ chảy xuống hai đập sau đó tại Mạn Loan
(Manwan) và Đại Triều Sơn (Dachaoshan) [6]. Nghĩa là không để cho phù sa chảy
xuống xa hơn nữa. Hạ nguồn ra sao thì ra!
Âm mưu của Trung Quốc
không chỉ dừng ở đó. Họ dự tính xây thêm tám đập nước khác, và như thế họ có khả
năng kiểm soát gần như toàn bộ nguồn nước trên con sông này. Nếu có xung đột xảy
ra, Trung Quốc có khả năng kiểm soát nước chảy hay không xuống các quốc gia hạ
nguồn, gây tác động sâu xa đến nền kinh tế nông nghiệp tại đây, và tạo ra sự
hao hụt thức ăn.
Theo nhà báo David Hutt
thì Trung Quốc có thể dùng sông Mekong như đòn
bẫy để trừng phạt những nước nào chống lại các chính sách bành trướng
của họ, kể cả những nước nằm trong vùng Biển Đông cũng như Sáng kiến Vành đai
Con đường (BRI) [7]. Các học giả nhận định Mekong có thể là điểm nóng giống như
Biển Đông thứ hai, dùng nước
như một thứ vũ khí, theo Brahma Chellaney, giáo sư chiến lược học tại
New Delhi. Trung Quốc có thể sử dụng mở hay tắt nước tại thượng nguồn để ép,
như trường hợp Việt Nam, phải nhượng bộ về các đòi hỏi của họ tại Biển Đông.
Thế cờ vây
Biển Đông trở thành điểm
nóng chính trị trong những năm qua. Tuần trước ngày 13 tháng Bảy, Ngoại trưởng
Hoa Kỳ Mike Pompeo khẳng
định: “Bắc Kinh tuyên bố các nguồn tài nguyên ngoài khơi trên hầu hết Biển
Đông là hoàn toàn bất hợp pháp, cũng như chiến dịch bắt nạt để kiểm soát của họ.”
[8] Đây có lẽ là lời tuyên bố mạnh mẽ nhất của Hoa Kỳ từ trước đến nay. Sau đó
một ngày, Trợ lý Ngoại trưởng David Stilwell, trong bài nói chuyện trực tuyến với
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (Center for Strategic and
International Studies), nhận
định rằng Bắc Kinh đang áp dụng chủ trương “Mạnh là(m) đúng” (Might
makes right) tại Biển Đông; rằng Bắc Kinh đang nỗ lực để phá hoại chủ quyền của
các quốc gia ven biển khác và không để họ tiếp cận các nguồn tài nguyên ngoài
khơi; rằng tài nguyên này thuộc về các quốc gia đó, không thuộc về Trung Quốc.
Stilwell tuyên bố Bắc Kinh muốn thống trị, muốn thay thế luật pháp quốc tế bằng
sự cai trị bởi sự đe dọa và ép buộc [9].
Trong khi thế giới tập
trung lo giải quyết Covid-19, Trung Quốc lại tăng cường các hoạt động của họ tại
Biển Đông. Họ không quên chiến thuật “dương đông kích tây” và tiếp tục sử
dụng các chiến lược cùng những biện pháp để xiết chặt hầu bao của các quốc
gia trung và hạ nguồn sông Mekong.
Cách đây hai năm, trong
bài Thế
Cờ Vây, tôi cũng trình bày các vấn đề này như sau.
“Điều khiển được
lượng nước chảy dọc sông Mekong có nghĩa là kiểm soát được thực
phẩm của hàng triệu người đang dựa vào mạch sống mà nó mang lại [10].
Trong 11 dự án đập nước điện hiện nay có hơn một nửa có bàn tay
Trung Quốc nhúng vào, với dung lượng dự trù hơn 15000 MW. Các đập
nước này có thể lưu trữ 23 tỷ khối nước, chiếm 27 phần trăm lượng
nước chảy của sông này giữa Trung Quốc và Thái Lan. Trung Quốc có ưu
thế của thượng nguồn sông Mekong, lại sử dụng tối đa lợi thế đó bất
kể các quốc gia trung hay hạ nguồn ra sao. Họ xem như thế cờ Dominos.
Khi muốn, họ có thể xả nước ở một hay vài đập mà không cần thông
báo trước. Các kênh đập ở dưới khi biết phải tìm cách xả nước cấp
bách qua các ngã đập tràn, mặc dầu làm như thế sẽ ảnh hưởng đến
nguồn điện lực, nhưng không có cách nào khác. Cách xả nước như thế
có nguy cơ gây lụt lội dưới hạ nguồn hoặc làm hư hại các thành đập.
Điều này đã xảy ra và các đập của Trung Quốc ihoặc không hề báo
động cho các đập phía dưới, như tại Lào. Thêm vào đó, dự án có tên
“gieo mây” (cloud seeding) của Trung Quốc tại Tianhe dự trù tăng lượng
thu hoạch nước mưa lên 10 tỷ khối nước, chiếm 7 phần trăm số lượng
tiêu dùng cho dân số Trung Quốc. Lượng nước này có thể được tiếp
liệu vào sông Mekong và các nhánh sông khác tại Trung Quốc. Điều đó
có nghĩa là Trung Quốc sẽ sử dụng để trừng phạt, chế tài hay cảnh
cáo các nước hạ nguồn khi cần. Hoạ vô đơn chí: 70 phần trăm các sông
và rạch của Trung Quốc bị ô nhiễm môi trường trầm trọng, cho nên các
nước hạ nguồn sẽ lãnh đủ.
Bằng cách phá đảo
nhỏ, gềnh và đá dọc bờ sông, Trung Quốc đã làm rộng các nhánh sông
để thuyền bè của họ đi lại dễ dàng. Họ đã biến sông Mekong thành
một ác mộng chiến lược. Ủy ban Sông Mekong, thành lập năm 1995 để
giải quyết các tranh chấp này, nhưng thái độ của Trung Quốc là câu
giờ, hống hách, trịch thượng, “cách của tôi, còn không xin miễn”. Họ
tự lập ra một cơ quan mới có tên khung Hợp tác Lancang Mekong, và sử
dụng củ cà rốt vào tháng Ba năm 2016 bằng cách xả nước cho các quốc
gia hạ nguồn đang bị hạn hán. Lấy tên là hợp tác, nhưng Elliot Brennan
cho rằng nó là tiền đề để giải quyết tranh chấp, không phải hợp
tác.”
Vài nhận định
Người Việt Nam không lạ
gì với các thủ đoạn chèn ép của giới lãnh đạo chính trị chuyên quyền tại Trung
Quốc trong mấy nghìn năm qua.
Ngày xưa khi chưa có các
phương tiện truyền thông hiện đại, mang tính đại chúng, người Việt vẫn biết các
hiểm họa lớn lao từ chủ trương bá quyền của Trung Quốc, bằng cách truyền miệng
nhau. Ở trong máu người Việt đã có tinh thần bất khuất chống ngoại xâm, không cần
ai bảo ai, và bất kể vua quan hay lãnh đạo quốc gia có lập trường ra sao.
Chỉ từ nửa thế kỷ 20 trở
đi, sự độc tôn độc quyền đã lên tuyệt đỉnh để rồi lãnh đạo chính trị phần lớn
câm như hến khi Trung Quốc dương tây kích đông và dương đông kích tây. Người
dân đi biểu tình chống Trung Quốc thì lại bị đàn áp. Lập trường quốc gia đối với
các vấn đề này thì bất nhất, hèn nhát, và không có gì rõ ràng.
Trung Quốc vẫn tiếp tục tạo
áp lực và tăng đe
dọa lên Việt Nam, bằng cách này hay cách khác, kể cả bài báo mới đây nhất cảnh
cáo Việt Nam trong việc hợp tác và phá vỡ thế cân bằng giữa Trung Quốc, Việt
Nam và Hoa Kỳ [11].
Nước, mạch sống và là nguồn
quan trọng cho kinh tế tại Việt Nam, bị Trung Quốc dùng như vũ khí xiết cổ người
dân Việt Nam và các quốc gia khác tại hạ nguồn.
Người dân Việt Nam, không
chỉ 20 triệu người sống nương tựa vào sông Mekong, mà tất cả 97 triệu dân hôm
nay, cần biết rõ, và cần được giáo dục, về mọi hiểm họa đang đến. Chỉ có thông
tin, giáo dục, khả năng biết suy nghĩ độc lập, có sáng kiến, biết tự giải quyết
vấn đề, biết khai dụng các kiến thức và công nghệ tối tân nhất, và nhất là có
tinh thần chủ động và được ủy nhiệm (empowerment), để tìm ra những phương thức
hiệu quả nhất hầu cứu vãn tình thế nguy bách đang treo sợi dây thòng lọng lên cổ
và lên toàn đất nước Việt Nam.
Nếu lòng còn thiết tha với
vận mệnh dân tộc, tất cả chúng ta đều có thể góp phần mang lại sự thay đổi này,
dù nhỏ, dù muộn và dù không thể đảo ngược tình thế hoàn toàn, nhưng “còn nước
còn tát”. Chúng ta không thể ngồi nhìn Đồng bằng Sông Cửu Long đang dần dần
biến mất, và bao nhiêu hiểm họa bao vây sinh thái Việt Nam.
Nước bẩn lấy gì rửa đây?
-------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. David Boyle, “Huge
Land Loss Predicted for Vietnam's Mekong Delta”, VOA East Asia Pacific, 16
February 2019.
2. News, “‘Soil subsidence
is a hidden assassin’”, Utrecht University, 14 February 2019.
3. P S J Minderhoud et al
2017 Environ. Res. Lett. 12 064006, “Impacts
of 25 years of groundwater extraction on subsidence in the Mekong delta,
Vietnam”, IOP Publishing, 1 June 2017.
4. Minderhoud, P.S.J.,
Erkens, G., Pham, V.H., Bui, V.T., Erban, L., Kooi, H., Stouthamer, E., 2017.
Impacts of 25 years of groundwater extraction on subsidence in the Mekong
delta, Vietnam. Environ. Res. Lett. 12. doi:10.1088/1748-9326/aa7146. “The
Mekong Delta is threatening to drown due to the pumping of groundwater”,
Knowledge journal / Edition 1 / 2018.
5. Milton Osborne, “Mekong:
When the river runs dry”, The Interpreter, Lowy Institute, 6 September
2019.
6. Milton Osborne, “It’s
not just melting glaciers that endanger the Mekong and its region”, The
Interpreter, Lowy Institute, 25 June 2019.
7. David Hutt, “Water
war risk rising on the Mekong”, Asia Times, 16 October 2019.
8. Mike Pompeo, “U.S.
Position on Maritime Claims in the South China Sea”, Press Statement, US
Department of State, 13 July 2020.
9. David Stilwell, “The
South China Sea, Southeast Asia’s Patrimony, and Everybody’s Own Backyard”,
Remarks – Centre for Strategic and International Studies (Virtual), US
Department of State, 14 July 2020.
10. Elliot Brennan, “China
eyes its next prize – the Mekong”, Lowy Institute, 5 June 2018.
11. Li Jiangang, “How close can US and
Vietnam be?”, Global Times, 16 July 2020; “Hoàn
Cầu Thời Báo: VN sẽ ‘trắng tay’ nếu đu dây Mỹ tăng cường sức mạnh ở
Biển Đông”, VOA Tiếng Việt, 16 July 2020.
No comments:
Post a Comment