Tác giả: Erling Bjøl
Dịch giả: Hoàng
Thủy Ngữ
02/07/2020
Ảnh bìa sách USA’s historie của Erling Bjøl
Thời gian bão tố
1964 – 1973
Thời gian này bắt đầu từ Eisenhower và
Kennedy. Lyndon B. Johnson rồi sẽ hứng bão. Dưới thời của ông và của Richard
Nixon, Hoa Kỳ đã lâm vào những cuộc khủng hoảng chính trị nặng nề nhất kể từ
sau cuộc nội chiến.
Không phải phong cách hay tính khí đã tạo ra
sự bi thảm ở con người Johnson. Ông vốn giản dị và thô lỗ. Tuy vậy, giai đoạn
ông làm tổng thống quả thật bi thảm. Khởi đầu, Johnson là một trong những nhà
cải cách lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, một bậc thầy không ai có thể so sánh, cả
trước đó hay sau này. Ông đã thông qua được ở Quốc hội rất nhiều dự luật, có lẽ
chỉ ngoại trừ Franklin Roosevelt mới làm được việc này trong 100 ngày đầu chấp
chánh nổi tiếng.
Năm 1964, ông đã thắng cuộc bầu cử tổng thống
với kết quả chưa từng thấy trước đó, với 43 triệu lá phiếu so với 27 triệu lá
phiếu của đối thủ. Không một tổng thống nào, kể từ Lincoln, đã làm quá nhiều
cho thiểu số người da đen như ông. Không ai đạt được kết quả nhiều hơn ông
trong việc tranh đấu cho quyền lợi xã hội kể từ thời Roosevelt.
Kennedy cũng đã từng nói đến chuyện vận động
nước Mỹ. Chính Johnson đã thực hiện việc này. Nhưng chỉ ba năm sau khi đạt được
những chiến thắng to lớn, ông đã đầu hàng năm 1968, quỵ ngã, mất ngủ, gần như
khủng hoảng tinh thần. Ông bị đánh gục vì một cuộc xung đột vũ trang ở một quốc
gia xa xôi mà ông chỉ có những kiến thức mơ hồ về nó vào năm 1960, lúc ông chấp
thuận làm ứng cử viên phó tổng thống cùng liên danh với Kennedy.
Khác với Kennedy, Johnson xuất thân là một
người dân bình thường, từ miền Tây Nam, không phải là sản phẩm của môi trường
giai cấp thượng lưu ở các tiểu bang miền Đông. Ông mang tính cách miền Tây nhiều
hơn miền Nam, mặc dù quê nhà là tiểu bang Texas, Stonewall, Blanco Country, nơi
ông lớn lên, vùng đất cũ của dân cao bồi. Ông nội ông, niềm hãnh diện của cậu
bé Johnson, là một cao bồi chính tông.
Johnson kiểm soát được ê-kíp nhân sự cốt cán
của mình. Nhưng chính sách đối ngoại và tình trạng tâm lý đã đánh gục ông.
Không ai có thể đối phó với quốc hội giỏi như ông. Nó khỏa lấp chân trời viễn
tưởng của Johnson nên ông đã thất bại khi đối mặt với thế giới bên ngoài.
Với Richard Nixon thì ngược lại. Những sai lầm
trong chính sách đối nội cuối cùng đã biến ông trở thành vị tổng thống bị căm
ghét nhất từ thời Andrew Johnson. Bù lại, dần dần ông được sự kính nể trong lịch
sử Hoa Kỳ về chính sách đối ngoại, mặc dù ông là tổng thống đầu tiên phải từ chức
để tránh bị bãi nhiệm – và dù ông đã có một chiến thắng kỷ lục trong cuộc bầu cử
Mỹ năm 1972, nhiều hơn cả Johnson, với 47 so với 29 triệu lá phiếu.
Trong cả 2 trường hợp, người ta có thể tạm
cho rằng không phải các vị tổng thống đã thắng nhưng các ứng cử viên đối thủ đã
thua đậm. Cả Johnson và Nixon đã thắng các ứng cử viên đối thủ cực đoan dễ
dàng. Barry Goldwater thuộc đảng Cộng Hòa phe cực hữu. George McGovern thuộc đảng
Dân Chủ phe cực tả. Đại đa số, “cái đa số thầm lặng” theo cách gọi của Nixon,
là nằm ở giữa.
Quyền lợi của người
da đen
Sau biến cố Birmingham (1), Kennedy được
khuyên phải thật sự nỗ lực chống lại sự phân biệt đối xử với thiểu số người da
đen. Ông yêu cầu Quốc hội chấp thuận dự luật mới để hình sự hóa việc phân biệt
chủng tộc. Trước khi guồng máy pháp luật khởi động tích cực, ông bị ám sát.
Lyndon B. Johnson là người kế vị thích hợp nhất để thông qua các đạo luật cải
thiện đời sống của người da đen.
Ngoại trừ khoảng thời gian ngắn trong những
năm 1935-1936, khi cầm đầu chương trình New Deal (2) dành cho giới trẻ ở Texas,
ông cư trú ở Washington. Năm 1931, lúc 23 tuổi, sau lần hành nghề dạy học ngắn
ngủi, ông được tuyển dụng vào làm việc trong ban tùy viên quốc hội. Nhân cuộc bầu
cử bổ sung năm 1937, ông được bầu vào Hạ Nghị Viện trong tình trạng khẩn cấp,
lúc Roosevelt đang đụng độ với Tối Cao Pháp Viện. Bằng sự trung thành vô điều
kiện, nhà chính trị trẻ tuổi là một thành viên yêu thích của FDR (3) trong Quốc
hội.
Năm 1948 ông được bầu vào Thượng Nghị Viện
và trở thành người xách cặp táp cho thượng nghị sĩ đầy quyền lực Richard
Russell của tiểu bang miền Nam Georgia, một người chỉ biết lao đầu vào công việc,
giống như chính ông. Chỉ có cuộc sống ớ Thượng Viện, một câu lạc bộ chọn lọc kỹ
nhất thế giới, là hiện hữu đối với cả hai. Johnson ít khi ngủ quá 4 tiếng đồng
hồ và thu thập không biết mệt mỏi các thông tin – sự hiểu biết về dự luật, mọi
chi tiết đáng quan tâm trong đời sống riêng tư của từng thượng nghị sĩ, những yếu
điểm và hậu thuẫn chính trị. Ông trở thành nguồn cung cấp không bao giờ cạn cả
về kiến thức hữu ích lẫn những câu chuyện mua vui tầm phào.
Đây là một phần để giải thích tại sao ông có
được quyền lực nhanh như vậy. Ngoài ra, ông có một chân ở phía Nam và một chân
từ quá khứ New Deal. Điều này đã giúp ông có được thuận lợi chiến lược trong việc
đoàn kết khối liên minh hỗn hợp nhiều màu sắc tạo thành đảng Dân Chủ. Năm 1953,
ông là trưởng nhóm và năm 1955 khi đảng chiếm đa số, ông là thành viên có nhiều
quyền lực nhất trong Thượng Nghị Viện – cùng với khả năng thuyết phục không thể
cưỡng lại trong các cuộc thảo luận tay đôi. Luật Dân Quyền từ năm 1957 của
Eisenhower phần chính là tác phẩm của Johnson.
Sau khi Kennedy chết, ông đã có thể quay trở
về sân nhà. Vụ ám sát chấn động đạo đức quốc gia đã tạo ra hoàn cảnh tương đối
đặc biệt thuận lợi cho dự luật dân quyền mới vốn là một trong những mong ước cuối
cùng của vị cố tổng thống. “Không một tượng đài, không một bài diễn văn ca
ngợi nào vinh danh tổng thống Kennedy tốt hơn là việc thông qua càng sớm càng tốt
bộ Luật Dân Quyền mới mà cố tổng thống đã tranh đấu cho nó”, Johnson
đã tuyên bố như vậy.
Tháng 7 năm 1964 ông ký bộ Luật Dân Quyền
mang linh hồn của Kennedy nhưng là tác phẩm của chính ông. Bộ luật này cấm sự kỳ
thị chủng tộc trong mọi chương trình xã hội nhận được sự hỗ trợ của
Washington, đồng thời ở tất cả các địa điểm công cộng – khách sạn, tụ điểm ăn uống
vui chơi và tất cả các dạng sinh hoạt public facilities. Các
văn phòng xã hội địa phương được thành lập để giải quyết vấn đề kỳ thị chủng tộc
và một ủy ban tư vấn bất bình đẳng ngăn chận chuyện kỳ thị chủng tộc trong thị
trường lao động. Biện lý liên bang có quyền đẩy mạnh việc hòa nhập sắc tộc
trong học đường.
Bộ luật trên đã bảo đảm số phiếu của người
da đen ở các tiểu bang miền Bắc dành cho Johnson trong kỳ bầu cử tổng thống.
Tuy vậy, ở miền Nam, người ta vẫn tránh né luật bầu cử đã có từ năm 1957. Tu
chính hiến pháp thứ 24, có hiệu lực năm 1964, cấm việc dùng thuế – poll tax –
như điều kiện để được quyền bỏ phiếu bầu cử. Nhưng người ta vẫn có thể loại những
người Mỹ gốc Phi ra khỏi đợt bầu cử vòng sơ bộ và tổng tuyển cử bằng cách gạt bỏ
họ ra khỏi danh sách cử tri. Johnson đã không biết đến chuyện này vào năm 1957,
nhưng sau khi thắng kỳ bầu cử tổng thống, ông đã đưa sự kiện này ra trở lại năm
1965.
Luật liên bang kiểm soát danh sách bầu cử được
Martin Luther King nêu ra trong cuộc xuống đường phản đối diễn ra từ Selma đến
thủ đô Montgomery, Alabama. 15.000 người da đen sống ở Selma nhưng hầu như
không người nào được ghi vào danh sách cử tri. Cảnh sát địa phương lại đàn áp
tàn bạo những người đi biểu tình cho dân quyền. Đài truyền hình khắp nước chiếu
lại các cảnh đàn áp. Johnson mặc kệ những kẻ lên cơn động kinh, ông huy động
quân đội liên bang đến tái lập an ninh trật tự. Đồng thời, ông đến Quốc hội đọc
một bài diễn văn sắc bén chống nạn kỳ thị chủng tộc mà chưa một tổng thống nào
làm được. Ngày 06/08/1965 ông ký một luật bầu cử thật chặt chẽ bảo đảm quyền đầu
phiếu cho người da đen.
Sự trả thù của xóm
nghèo (ghetto)
Năm ngày sau mối thù hận
chủng tộc đã bùng nổ dữ dội tại khu vực Watts ở Los Angeles, một quận chỉ có người
da đen sinh sống. Đây là cơn chấn động đầu tiên trong hàng loạt các chấn động sẽ
xảy ra tại các thành phố lớn ở Mỹ trong những năm sắp tới. Ngòi lửa là một chuyện
tình cờ vô nghĩa. Cảnh sát giao thông bắt giữ một người Mỹ da đen lái xe trong
tình trạng say xỉn. Anh ta chống cự lại. Lúc đó có rất nhiều người ngoài đường
trong đêm hè nóng ẩm. Hàng trăm người đã nhanh chóng bao vây các nhân viên cảnh
sát. Cảnh sát tăng viện. Họ bị chửi rủa. Môt phụ nữ da đen trẻ tuổi đã nhổ nước
bọt vào cảnh sát. Cô ta bị bắt. Cảnh sát bị tố cáo đã hành hung một người mang
bầu. Cô ta choàng lên người một cái áo tơi rộng (poncho) khiến người ta tin là
cô sắp có con. Những người da trắng lái xe xuyên qua Watts bị chận lại, lôi ra
khỏi xe và đánh đập. Lực lượng cảnh sát được tăng cường thêm. Ngày hôm sau bạo
động nổ ra kinh hoàng hơn. Cửa kính tiệm bị đập, cửa hàng bị cướp, hết căn nhà
này đến căn nhà khác bị đốt cháy trong khi đó người ta hát vang một điệp khúc
đang thịnh hành: burn, baby, burn!
Phải mất 5 ngày Watts mới yên tĩnh trở lại.
34 người bị giết và 1032 người bị thương. Matin Luther King đã đến thành phố
này. Khi ông đang đi giữa đống tro tàn, giữa những căn nhà bị đốt, một vài
thanh niên người Mỹ da đen đi tới và nói với ông: “Chúng ta đã thắng!”
Ông trả lời: “Làm sao các cậu có thể nói như vậy khi 34 người da
đen đã mất mạng, môi trường sống địa phương bị phá nát và người da trắng dùng
nó như một lời xin lỗi để không làm gì cả?”. Đám thanh
niên lặp lại: “Chúng ta đã thắng! vì chúng ta đã khiến họ phải
chú ý đến chúng ta!”
Đây là một thế hệ mới đang tìm những người
lãnh đạo mới và những phương pháp mới. Đây là cuộc chạm trán giữa dân da đen ở
các tiểu bang miền Bắc và miền Nam. Tất cả những gì King đạt được trong dự luật
mà Johnson đã thông qua ở quốc hội đều liên quan đến các tiểu bang miền Nam. Những
quyền lợi thiểu số người da đen ở miền Nam giờ đây nhận được thì những người Mỹ
gốc Phi châu ở các tiểu bang miền Bắc đã có trên giấy tờ từ sau cuộc nội chiến.
Nhưng, trong thực tế, không hề có sự bình đẳng nào cả. Đa số người da đen vẫn
phải chen chúc tập trung sống trong các xóm nghèo bẩn thỉu (ghetto) ở thành phố
lớn, càng lúc càng đông người. Họ bị chặn nhốt bởi một bức tường vô hình, âm
mưu không thể công kích của dân môi giới bất động sản, bọn đầu cơ nhà đất, ngân
hàng và chủ nhân khu phố lo sợ bất động sản bị xuống giá tại những khu vực dân
da đen dọn vào. Chuyện này dẫn đến sự xuống cấp nhà ở, giáo dục tệ hại hơn, thất
nghiệp gia tăng, gia đình đổ vỡ và các bà mẹ phải sống một mình nuôi con nhiều
hơn. Mức độ thất nghiệp năm phần trăm trên toàn quốc có nghĩa là ba mươi phần
trăm giới trẻ bị thất nghiệp ở các xóm nghèo.
Watts là khu xóm nghèo hạng sang, với những
đại lộ, những cây dừa phơ phất lá, những bãi cỏ xanh, những ngôi nhà một tầng
sơn trắng và số lượng lớn xe hơi. Nó rất khác biệt với những khu hôi hám, xuống
cấp nặng, ảm đạm của dân da đen ở Harlem và Chicago. Los Angeles là một trong
những thành phố của Hoa Kỳ có mức độ hòa nhập sắc tộc cao nhất. 650 000 người
da đen trong thành phố tương đương với 17 phần trăm dân số, nhưng đã chiếm 20
phần trăm ghế ngồi trong ban quản trị thành phố. Lực lượng cảnh sát đa sắc tộc
nhiều đến mức không thể tìm riêng một toán cảnh sát da đen để gửi đến Watts.
Trong 68 thành phố lớn ở Mỹ, không nơi nào những người da đen có lợi tức trung
bình cao hơn, môi trường học vấn tốt hơn, việc làm nhiều hơn và ít phạm pháp nhất
như L.A.
Khi Watts tiên phong bùng nổ, có lẽ là do
lòng tự tin của người da đen ở đây biểu hiện lớn hơn các nơi khác. Nhưng cuộc nổi
loạn cũng vạch ra tính cách bi đát mà nhiều thế hệ bị đàn áp cay đắng, nhục nhã
và khinh thường vốn đã hằn sâu trong tâm hồn dân da màu ở Hoa Kỳ. Alistair
Cooke, một trong những nhà quan sát sâu sắc nhất Âu Châu, chuyên về Hoa Kỳ, đã
giải thích như sau:
“Cần phải cẩn thận khi chỉ ra nguyên nhân
dẫn đến biến động xã hội. Nhưng có một nguyên nhân chính rất hiển nhiên mà
không một nhà xã hội học nào dám nêu ra. Tôi cho rằng gốc rễ của tình trạng hỗn
loạn vô chính phủ này là do những người Mỹ gốc Phi châu nghèo khổ đã ganh tỵ
người da trắng. Không phải vì quyền đầu phiếu hay học vấn của người này, nhưng
chính là những phúc lợi người này đang có và tất cả những gì anh ta được cung cấp.
Dù Watts có thiếu cái gì đi chăng nữa thì cũng không thiếu những cái ăng ten
TV. Tôi cho rằng nếu người ta phải ngồi cả ngày trong căn phòng khách nghèo
nàn, bao quanh bởi một lũ trẻ nghịch ngợm liều lĩnh và một bà mẹ mệt mỏi – 2
trong số 4 gia đình có người cha nằm nhà – và lúc nào người ta cũng thấy những
đứa con gái khôn ranh trong những chiếc xe hơi – và các mục quảng cáo thuốc lá,
những thanh niên da trắng bay bướm, những gia đình có những cái máy giặt mới và
những ngôi nhà đẹp giữa hàng cây tùng vừa mua bằng tiền vay được từ một ông
thánh có mái tóc bạch kim ở một ngân hàng hảo tâm, người ta sẽ nghĩ đó là cuộc
sống suốt ngày đêm của người da trắng. Họ có tất cả: quyền đầu phiếu, những
công việc tốt nhất, học vấn (nếu họ quan tâm), mọi điều tốt đẹp, tiền bạc và những
cô gái xinh đẹp. Một loại suy diễn đã thanh trùng, ngu xuẩn theo cách tưởng tượng
của một Âu Châu cũ là tất cả người Mỹ đều giàu có” (BBC, Mùa Xuân 1965).
Watts đã vạch ra một con đường mới: con đường
bạo lực. Con đường này đã đi vào từ thành phố này đến thành phố khác. Năm 1966,
bạo động nổ ra trước tiên ở Washington, kế tiếp là Cleveland, rồi đến Des
Moines và Chicago. Đến cuối năm, 43 thành phố đã trở thành nạn nhân của các cuộc
nổi loạn chủng tộc. Năm 1967 bạo động bắt đầu ở Omaha và đài tưởng niệm ở
Newark và Detroit. 43 người bị giết. Tổng cộng các cuộc nổi loạn đã xảy ra ở
164 nơi với 83 người chết. Toàn nước Mỹ như chìm trong biển lửa.
Giới trẻ ở các ghetto tụ họp quanh các nhà
tiên tri mới. Ủy ban hỗn hợp đen-trắng, Students Nonviolent Coordinating
Committee, hoạt động tại các tiểu bang miền Nam nhằm bảo đảm quyền đầu phiếu
cho người da đen, đã bầu lên năm 1966 một chủ tịch mới: Stokely Carmichael, người
tung ra khẩu hiệu Black Power. Người ta không cần dân da trắng nữa.
Một chủ nghĩa da đen khai triển với cảm hứng đến từ giáo sĩ đạo hồi Malcolm X
và từ một Châu Phi mới. Hầu hết các người đấu tranh dùng từ honky để
miệt thị người da trắng, một từ phản nghĩa với nigger. Ai đã giành
được các huy chương Thế Vận Hội? Anh hùng thể thao vĩ đại người da đen, nhà quyền
anh hạng nặng Cassius Clay, đã trở lại đạo Hồi và tự gọi mình là Muhammad
Ali. Black is beautiful. Người ta để tóc mọc dài theo kiểu lóng mía
Phi Châu.
Watts đã làm Johnson chấn động. Ông cảm thấy
mình đã làm nhiều cho dân da đen hơn các tổng thống khác kể từ thời Lincoln.
Đây là lời cảm ơn sao? Sau khi tự vấn, ông thú nhận là phải giải quyết nhiều vấn
đề trong ghetto. Chúng có vị trí hàng đầu trong các chương trình cải cách xã hội
to lớn mà ông tung ra với khẩu hiệu The Great Society. Tuy
nhiên, nỗ lực của ông dần bị tê liệt vì Việt Nam. Sự cấp tiến của giới trẻ
trong các ghetto cũng phải được xem xét trong bối cảnh cuộc chiến tranh càng
lúc càng ám ảnh một nước Mỹ da trắng. Bọn trẻ luôn lấy một phần cảm hứng và khẩu
hiệu từ cuộc nổi loạn của giới trẻ da trắng bắt đầu từ California, một năm trước
Watts. Mối căm thù the honkies hầu như không giảm bớt khi họ
đem Selma ra so sánh với lối hành xử của cảnh sát đối với giới trẻ da trắng nổi
loạn. Một bên thì dùng chó dữ, vòi rồng chữa lửa và dùi cui còn một bên thì
dùng găng tay bằng lụa.
Sinh viên nổi loạn
Cuộc nổi loạn toàn cầu của giới trẻ trong những
năm 1960 có khúc nhạc dạo đầu (overture) ở Nhật Bản. Nhưng, thực ra, nó bắt đầu
từ trường đại học Berkeley, nằm ngoài San Francisco, và âm điệu bị dập tắt ở
đó. Khởi đầu là một cuộc biểu tình nhỏ chống tờ báo Oakland Tribune ngày
04/09/1964. Cuộc biểu tình phản đối chủ trương kỳ thị chủng tộc của tờ báo.
Trong kỳ nghỉ hè, số sinh viên từ Berkeley đông hơn từ các trường đại học khác
đã có mặt ở Mississippi để làm việc về các vấn đề liên quan đến người da đen.
Oakland Tribune phàn nàn là cuộc biểu tình đã được tổ chức ở cổng chính Sather
Gate của trường đại học, một kiểu Hyde Park Corner, nơi người ta có thể tự do
diễn thuyết.
Sau khi nhận được khiếu nại, viện trưởng trường
đại học đã cấm việc tụ họp, chiêu dụ, khích động tại Sather Gate. 5 sinh viên bị
gọi vào gặp viện trưởng vì đã không tôn trọng lệnh cấm. Thay vào đó, 500 sinh
viên cùng đi đến, với sự cầm đầu của Mario Savio, một sinh viên ban triết 24
tuổi, con trai của một người Ý di dân. Anh là một trong những người cầm cờ. Cả
500 sinh viên đòi bị trừng phạt chung. Ban lãnh đạo đại học quyết định trục xuất
8 sinh viên. Nhưng ngày hôm sau một phần tử sách động dân quyền mới lại xuất hiện
tại Sather Gate. Cảnh sát gác trường đại học được lệnh bắt giữ anh. Nhưng các bạn
sinh viên khác đã bao quanh anh. Sinh viên ngồi vây xe cảnh sát. Họ đã học cách
bất bạo động ở SNCC (4). Chiếc xe bị giữ suốt 32 tiếng và mui xe được dùng như
diễn đàn. Cuối cùng gần 1000 cảnh sát được huy động đến để giải tỏa Sather
Gate. Tất cả là tin tức sốt dẻo ăn khách dành cho đài truyền hình.
Cuộc thương lượng giữa viện trưởng Clark
Kerr và Free Speech Movement (FSM) của các sinh viên nổi loạn kéo dài trong vài
tháng. Kerr đe dọa sẽ trục xuất Savio. Ngày 2 Tháng Mười Hai, 6000 sinh viên đã
đáp trả bằng cách bao vây và chiếm tòa nhà hành chánh Sproul House của trường.
Họ tuyên bố thành lập một đại học khẩn cấp và tự do trong
lúc ca sĩ phản kháng Joan Baez hát bản nhạc We Shall Overcome.
Sáu ngày sau, ban lãnh đạo đại học chấp thuận yêu sách của FSM.
FSM đã thắng nhưng sau Tết dương lịch lại
tìm ra một vấn đề mới khi Johnson bắt đầu gia tăng sự can thiệp của Hoa Kỳ vào
Việt Nam.Trong vòng mùa xuân 1965, khẩu hiệu Make Love Not War xuất
hiện ở khuôn viên đại học. Một cuộc vận động phản đối chính trị nhập cùng với
làn sóng cách mạng văn hóa có nguồn gốc từ dân beatbohemian (5). Tờ báo
San Francisco Chronicle gọi họ là dân hippies. Dân hippies đã tạo ra sự chú ý
qua cách phản kháng khi chữ FUCK, một từ ngữ cấm kỵ nhất trong anh ngữ, xuất hiện
trong khuôn viên đại học. Bạo động dữ dội và rất nhiều người bị bắt, mặc dù những
kẻ nổi loạn quả quyết rằng FUCK là chữ đầu viết tắt của Freedom Under
Clark Kerr.
Berkeley không xa lạ với Mecca (6) của văn
hóa beat. Các người cầm đầu cuộc nổi loạn đại học chịu ảnh hưởng một phần
văn hóa này. Trường đại học này được đánh giá là một trong ba trường đại học
nổi tiếng nhất ở Hoa Kỳ, có số lượng sinh viên vượt xa hai trường đại học
Harvard và Yale, với tổng số 25 000 sinh viên. Cao trào theo đuổi trình độ học
vấn cao hơn của đàn trẻ lớn lên trong một xã hội có sự thịnh vượng liên tục
phát triển trong những năm chiến tranh và thời kỳ hậu chiến đặc biệt nhận thấy ở
Berkeley. Khuôn mẫu bị nổ tung và đại học bị quá tải. Sinh viên không tiếp cận
được với các giáo sư nổi tiếng vốn đã thu hút họ đến với Berkeley. Các giáo sư
quan tâm đến việc nghiên cứu hơn là giảng dạy. Công việc này được giao cho các
giảng viên và các phụ tá. Sinh viên phần đông đã lớn lên trong sự an toàn che
chở của các thủ phủ mới, giờ đây cảm thấy như bị biến thành kẻ xa
lạ. Đây là ý tưởng của Karl Marx lúc trẻ, được dẫn nhập bởi các giáo sư tỵ
nạn từ Viện nghiên cứu xã hội ở Frankfurt.
Berkeley đặc biệt nổi tiếng về khoa xã hội học
và khoa vật lý nguyên tử. Trường lôi cuốn các sinh viên ưa thích việc chỉ trích
xã hội và các sinh viên đam mê khoa học. Bọn trẻ vô cùng phấn khích khi
biết các nhà nghiên cứu trong khu Berkeley đã làm được những gì với bom khinh
khí và bao nhiêu giáo sư đang bận rộn với công tác nghiên cứu cho quốc phòng và
sinh hoạt kinh tế thương mại. Kerr là nhà xã hội học về thị trường lao động.
Ông gọi trường đại học là nhà máy kiến thức chuẩn bị cho sinh
viên có một chức nghiệp trong đời sống kinh tế. Dưới mắt của những sinh viên nổi
loạn, trường đại học đã trở thành một phần của bộ máy đàn áp đầy quyền lực, đặc
biệt đối với các người da đen là nạn nhân.
Những đứa con của
Dr. Spoke
Nhưng Berkeley không phải
là trường hợp cá biệt. Diễn biến xảy ra rất nhanh. Cuộc nổi loạn của sinh viên
như một cánh đồng cháy lan sang những trường đại học khác rồi tuần tự đến các
trường cao đẳng và trung học. Phong trào chống chiến tranh Việt Nam đóng vai
trò càng lúc càng lớn. Các cuộc biểu tình tổ chức teach-ins (7),
một kiểu diễn đàn giáo dục, do đại học Michigan ở Ann Arbor bày ra vào
tháng 5/1965. Đến mùa thu, lần đầu tiên một cuộc tổng biểu tình phản chiến diễn
ra trên toàn quốc. Làn sóng chống đối tiếp tục lan rộng và trở thành The
American Way of Life, đặc biệt phát triển mạnh tại các thủ phủ ở Mỹ. Cái xã
hội phải chịu đựng sự kỳ thị và tiến hành cuộc chiến với bom xăng (napalm) ở
VN, trong mắt nhiều người trẻ, là thối rửa. Biểu tượng phổ thông nhất là chiếc
xe hơi bị luật sư trẻ tuổi Ralph Nader chỉ trích không thương tiếc. Năm 1965
anh cho ra mắt quyển sách Unsafe at any Speed tố cáo mức độ
nguy hiểm của chiếc xe Chevrolet Corvair. Năm trước đó, Stanley Kubrick cũng đã
thọc vào hông những nhà chiến lược nguyên tử với cuốn phim Dr. Strangelove.
Cái thế hệ đang học hành bây giờ đã có một
thời niên thiếu được bảo bọc tốt hơn lúc nào hết. Họ được hưởng một nền giáo dục
tự do. Người cha đi làm và người mẹ theo dõi quyển sách chống lại sự cưỡng bách
trong việc dạy dỗ con cái của Bejamin Spock (Common-sense Book of Baby and
Child Care), viết trong thời gian chiến tranh và ấn hành năm 1946 và
đã bán được hơn 22 triệu quyển. Nghiêm khắc là không tốt. Đổi lại là trong túi
có rất nhiều tiền. Chính sách giáo dục mới ở nhà trường đặt nặng tính năng
thích ứng với đời sống hơn là việc nhồi nhét kiến thức.
Trong khi vào năm 1910, hơn 83 phần trăm học
sinh trung học (U.S junior college student) được giảng dạy bằng một thứ tiếng
nước ngoài thì, trong những năm 1950, một nửa trong số đó chỉ học tiếng Anh.
Chưa bao giờ xã hội chăm lo cho con cái mình chu đáo như thế. Tuy vậy, sau vụ
ám sát ở Dallas, nhiều người trẻ đã quay lưng lại với xã hội. Năm 1963, ca sĩ
phản kháng rất được ái mộ Bob Dyland của họ đã cảnh báo một thời đại mới bằng một
sáng tác mà sau này đã trở thành bản nhạc đấu tranh của giới trẻ nổi loạn: Come
mothers and fathers Throughout the land And don’t
criticize What you can’t understand Your sons and your daughters Are beyond
your command.
Người ta vứt bỏ những nếp lề quê thói cũ và
học đòi thử nghiệm lối sống mới bằng cách để tóc dài, mặc quần áo lôi thôi bẩn
thỉu, hát nhạc rock ầm ĩ và hút say đê mê những thứ quốc cấm. Năm 1964 Bob
Dylan hát: Take me on a trip on your magic swirling ship. Tháng
Giêng năm 1966, Ken Kesey, đệ tử của Kerouac (8), tổ chức đại nhạc hội ở
Berkeley quảng cáo công khai LSD. Việc xử dụng cần sa của Mễ Tây Cơ phổ biến rất
rộng rãi trong giới sinh viên học sinh. Cũng trong năm đó, các cử tri ở
California đã trả đũa bọn trẻ nổi loạn bằng cách bỏ phiếu bầu một người cộng
hòa cực hữu, Ronald Reagan, lên làm thống đốc.
Phụ nữ vùng lên
Dần dần bọn trẻ lớn lên rời
bỏ tổ ấm và càng lúc càng nhiều bà mẹ ở ngoại ô bị xáo trộn tâm lý. Việc sử dụng
thuốc an thần nhiều hơn gấp đôi sau năm 1958 và các vụ ly dị gia tăng. Những ai
không thể ngồi yên chơi bài canasta (9) hay uống cà phê thì vùi đầu vào đọc quyển
sách The Feminine Mystique của Betty Friedan, một nhà xã hội học,
tốt nghiệp ở Berkeley, viết năm 1963. Giống như nhiều người khác, bà đã bỏ dở sự
nghiệp để hy sinh cho gia đình và con cái. Nhưng giờ đây những đứa trẻ đã rời
khỏi nhà, bà nghĩ là đã đến lúc mình cần phải “tự thể hiện bản thân”. Với cảm
nhận bị thua thiệt bỏ rơi, điều vẫn thường thấy trong các cuộc nổi loạn những
năm 1960, bà tuyên bố là các bà mẹ ở ngoại ô đã sống trong một trại tập
trung đủ tiện nghi. Người đàn bà bị nhốt trong một cái bẫy đã cản trở
việc phát huy cá tính của mình. Họ bị khóa chặt vào hoàn cảnh lệ thuộc, bị xem
thường, đã ngăn cản họ vận dụng khả năng tiềm phục.
Quốc hội bất ngờ chìa cánh tay nối dài ra
cho giới phụ nữ. Với mục đích thọc gậy bánh xe, đánh vào đạo luật bình đẳng của
Johnson, các thượng nghị sĩ miền Nam đưa ra lệnh cho phép phân biệt đối xử, cả
về chủng tộc lẫn giới tính. Họ đã tính lầm hoàn cảnh. Đạo luật được thông qua.
Nó là khí cụ pháp lý, một món quà dành cho phong trào phụ nữ mới. Dựa vào đó,
năm 1966, Betty Friedan thành lập một tổ chức nữ quyền vững mạnh, National
Organization for Women (NOW), học được từ những nỗ lực của các tổ chức dân quyền
người da đen.
Đây không phải là nguồn cảm hứng duy nhất
mà những người tranh đấu cho quyền lợi phụ nữ rút ra được từ phong trào đấu
tranh dân quyền. Phụ nữ da đen đã đóng vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh
vì tự do cho người Mỹ da đen. Lòng can đảm của những phụ nữ này trong cuộc đấu
tranh dân quyền là một khích lệ cho các chị em da trắng cùng chí hướng.
Từ phong trào tranh đấu cho dân quyền lan rộng
thành cuộc nổi loạn của phụ nữ rồi đến những tổ chức new left khác như SDS
(Student for a Democratic Sosiety) và các phong trào chống chiến tranh Việt Nam
mà nhiều phụ nữ cho là có quá nhiều nam giới. Năm 1967, một “phong trào giải
phóng phụ nữ” đã công khai cắt đứt với SDS và bắt đầu tổ chức những “buổi họp
nâng cao ý thức” ở các cơ sở văn hóa cấp cao hơn.
Người ta phản đối việc giới thiệu những công
việc dành riêng cho phụ nữ như thư ký, làm bếp, phục vụ trong tiệm cà phê và tiện
thể dành cho tình dục. Phụ nữ bị xem như đối tượng để thỏa mãn tình dục vào cao
điểm của những năm 1950, khi những ngôi sao như Marilyn Monroe và Doris Day
thay thế các diễn viên trí thức như Katharine Hepburn và Grerr Garson dưới vòm
trời Hollywood. Nhưng không phải chỉ có vai trò giới tính cần phải tránh. Vai
trò của người phụ nữ trong việc làm cũng phải nói tới. Trong những năm 1950 đã
có rất nhiều phụ nữ tham gia thị trường lao động. Phong trào phụ nữ chú tâm đào
sâu các vấn đề để đạt được sự bình đẳng cả trong việc chọn nghề nghiệp, lương bổng
và trong quyết định tại cơ quan. Lại thêm một thử thách mà Lyndon B. Johnson phải
đối mặt khi ông đang cố gắng hiện thực hóa giấc mơ The Great Society của mình.
Chiến dịch xóa đói
giảm nghèo
Kennedy bị giết ở Texas.
Tổng thống Johnson xuất thân từ Texas. Chuyện này tạo cho nhiều người cảm giác
mơ hồ, vô nghĩa là ông cũng có tội bằng cách này hay cách khác. Chính Johnson,
trong mức độ nào đó, cũng cảm thấy mình như một kẻ tiếm quyền. Ông đã tận dụng
mọi khả năng để chương trình của Kennedy được pháp luật công nhận. Nó sẽ gia
tăng quyền hạn của ông trong nước. Kết quả là đạo luật dân quyền ra đời. Đây
cũng là một trong những ước muốn cuối cùng của Kennedy trong việc thúc đẩy
nhanh hơn nền kinh tế.
Thật đáng xấu hổ khi 40 triệu người phải sống
dưới mức nghèo khó trong một xã hội mà Jon Kenneth Galbraith năm 1958 gọi là
The Affluent Society (Một xã hội giàu có). Cố vấn kinh tế của Kennedy, Walter
Heller, một chuyên gia thuế từ Minnesota, đã thuyết phục ông là USA có khả năng
để giải quyết nạn nghèo đói. Bước đầu tiên để tăng trưởng kinh tế là giảm thuế.
Kennedy đã nghe theo. Nhưng trước khi đạo luật được quốc hội chấp thuận, ông bị
bắn chết. Đối với Johnson, để đạo luật được thông qua ở Quốc hội chỉ là chuyện
nhỏ. Và rồi sau đó nền kinh tế Hoa Kỳ đã bước vào một giai đoạn phát triển tột
bực: tổng sản lượng quốc gia tăng 7% năm 1964, 8% năm 1965, 9% năm 1966 mà
không hề xảy ra lạm phát.
Trong thực tế Johnson am hiểu nền kinh tế quốc
gia hơn Kennedy. Bản thân ông đến từ hoàn cảnh sinh sống khiêm nhường hơn. Lúc
trẻ ông dạy học cho những đứa trẻ con di dân người Mễ và, trong những năm 1930,
ông phụ trách chương trình New Deal dành cho các thanh niên thất nghiệp ở
Texas. Ông dấn thân khai triển New Deal và vượt mặt người hùng Franklin
Roosevelt. Ông ̣đã thành công. Ông hầu như chưa kịp dọn vào Tòa Bạch Ốc khi
tung ra Luật Dân Quyền và đặt những bước đầu tiên trong chiến dịch xóa đói giảm
nghèo. Tiếp đến là một loạt những dự luật sau chiến thắng kỳ bầu cử năm 1964 và
ông có được đa số vững chắc trong Quốc hội. Không một Quốc hội nào trong lịch sử
Hoa Kỳ đã thông qua quá nhiều dự luật cải cách như Quốc hội lần thứ 89. Sau chiến
thắng ông không còn nhiều thời gian. “Tôi có 9 tháng, có lẽ thời hạn chỉ nửa
năm”, ông nói và tận dụng nó.
Chính phủ bắt đầu trợ cấp tiền thuê nhà,
phát phiếu thực phẩm cho người nghèo và thi hành một loạt chương trình giáo dục,
một phần để bảo đảm cho trẻ em trong gia đình nghèo có môi trường học hành tốt
hơn, một phần dành cho các học sinh kém, giúp các em đã phải nghỉ học sớm có thể
theo học ngành nghề khác. Một Office of Economic Opportunity (OEO) giúp người
nghèo tái lập cuộc sống mới. Một Community Action Program (CAP) có mục đích tạo
việc làm cho các thành phần tệ hại nhất và kéo họ ra khỏi sự lãnh đạm thờ ơ bằng
cách cho họ quyền quyết định chung. Nhiều chương trình cứu trợ dành cho những
vùng đặc biệt khó khăn, ưu tiên cho vùng đồi núi Apache. Ngoài ra, người Mỹ gốc
Phi Châu được ưu tiên hưởng lợi từ The War of Poverty (Trận chiến chống nghèo
đói). Họ chiếm đa phần trong số người nghèo. Johnson đã thú nhận là dự luật
bình đẳng tự nó không đủ để chiến thắng tật nguyền xã hội của người da đen. Cần
phải trợ giúp thêm nếu người ta muốn cải thiện hoàn cảnh trong các ghetto.
Trận chiến chống nghèo đói chỉ là một trong
những nỗ lực của Johnson để biến USA thành một xã hội hiện đại và thịnh vượng,
một Great Society. Ông ký đạo luật quỹ an sinh xã hội, Medicare,
dành cho những người trên 65 tuổi, và với Medicaid, một hỗ trợ của
liên bang cho các tiểu bang muốn giúp những người bệnh dưới 65 tuổi cần sự chăm
sóc. Như một cử chỉ kính trọng Harry S. Truman, người đầu tiên đưa ra luật bảo
hiểm công cộng, Johnson đã ký đạo luật ở Independence, Missouri, với sự hiện diện
của vị cựu tổng thống bên cạnh. Đạo luật cũng hỗ trợ việc chống lại bệnh tim và
ung thư, cải thiện tình trạng ở những bệnh viện tâm thần.
Ông đã thành công khi nhận được sự ủng hộ rộng
lớn của liên bang dành cho hệ thống giáo dục. Các đề xuất giúp đỡ trường phổ
thông trong nhiều năm bị mắc cạn vì những bất đồng trong chuyện trợ giúp các
trường công giáo. Johnson đã vượt qua không gặp trở ngại bằng cách dựa vào việc
nâng đỡ số học sinh trong các gia đình sống dưới mức nghèo đói, không phân biệt
tín ngưỡng. 24 tỷ dollar được cấp cho các học sinh trường trung học.
Quốc hội đã chấp thuận không ít hơn 40 dự luật
liên quan đến giáo dục – nhiều hơn tổng số dự luật trong toàn lịch sử Hoa Kỳ
trước đó. Kết quả là do những nỗ lực làm việc của Johnson với Quốc hội kỳ 89. Hội
thảo Quốc hội lần đầu có 89 dự luật, chỉ 2 dự luật không được thông qua. Trước
khi rời Tòa Nhà Trắng sau kỳ bầu cử năm 1968, ông đã lưu danh trong hơn 500 đạo
luật cải cách. Người ta chưa bao giờ thấy chuyện giống như vậy, và cũng không một
tổng thống cải cách nào sau này, Jimmy Carter và Bill Clinton, có quyền năng
như ông đối với Quốc hội. Dự luật về môi trường cũng được thông qua.
Trong quyển Silent Spring (Mùa Xuân câm nín,
1962), Rachel Carson đã thúc đẩy mối quan tâm về vấn đề môi trường. Giờ đây,
người ta thắt chặt quản lý sự ô nhiễm nước và không khí, khói xe và khói xả ra
từ nhà máy. 3, 6 triệu mẫu rừng được đạo luật Wilderness Act bảo vệ. Các tấm bảng
quảng cáo đặt lung tung dọc theo xa lộ và các nghĩa địa xe hơi được quy định lại.
Các phương tiện giao thông công cộng trong thành phố được trợ giúp để giải tỏa
nạn kẹt xe. Đường dành riêng cho xe buýt và xe hơi chở ít nhất 4 người là một
trong những biện pháp được áp dụng. Bộ quy hoạch thành phố và nhà cửa do một
người da đen làm sếp, ông Denis Wever, cấp giấy phép xây dựng nhà ở xã hội. Một
hội đồng quản trị nghệ thuật và nhân văn dành cho sinh hoạt của người lớn tuổi.
Luật di dân cũng thay đổi. Hạn ngạch quốc gia được thay bằng một hệ thống gọn
gàng hơn. Giới hạn là 120.000 người đến từ phia tây bán cầu và 170.000 người
còn lại từ khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên mỗi quốc gia không quá 20.000 người.
Quyền năng lôi cuốn của Johnson trước Quốc hội
dựa trước nhất vào kinh nghiệm trong thời gian ông làm việc ở đó. Ông đã học được
những sai lầm của những người tiền nhiệm. Không bao giờ ông đưa ra dự luật mà
không có sự ủng hộ trước của Quốc hội. Khả năng phán đoán của ông rất độc đáo.
Ông thành công bằng một chút pha trộn. Không bao giờ ông yêu cầu Quốc hội những
biện pháp thực sự cần thiết để xóa bỏ sự nghèo đói. Ông hy vọng sẽ làm được mà
không cần thay đổi triệt để cấu trúc lợi tức. Ông không muốn lấy của của người
giàu chia cho kẻ nghèo nhưng chỉ tìm cách làm cái bánh to lên đủ chia cho tất cả.
Ông đã thành công một phần, nhưng chỉ một phần
thôi. Chiến tranh VN đòi hỏi tăng chi công quỹ và càng lúc càng chiếm thời gian
và công sức của ông hơn. Dù có những sáng kiến và ý định tốt, càng lúc ông càng
không được ưa chuộng. Mùa Xuân 1968, cuộc thăm dò dư luận cho thấy chỉ còn 36
phần trăm là hài lòng với ông. Cách hành xử kiểu cao bồi đã làm nhiều người phải
phản ứng khi tiếp xúc với ông. Ông yêu cầu đồng nghiệp tắm trong hồ tắm của
ông, không cần mặc quần tắm và tiếp tục thảo luận trong khi ông ngồi trong cầu
tiêu không đóng cửa. Nhưng đối với đông đảo quần chúng, chiến tranh VN đã chấm
dứt sự tín nhiệm của đồng bào đối với ông.
(Còn tiếp̣)
Nguồn: USA’s Historie, by Erling Bjøl, Københaven
2011, printed in Sweden
_____
Chú thích của người dịch:
(1) Birmingham là nơi cảnh
sát đã đàn áp tàn bạo cuộc đấu tranh cho quyền bình đẳng của người Mỹ gốc Phi
châu trong những năm 1960.
(2) Chính sách kinh tế mới
(New Deal) nhằm đưa Hoa Kỳ thoát khỏi cuộc suy thoái kinh tế 1929-1933.Chính
sách này gắn liền với tên tuổi của Franklin D. Roosevelt, tổng thống thứ 32 của
Hoa Kỳ.
(3) FDR – Franklin Delano
Roosevelt
(4) SNCC – Student
Nonviolent Coordinating Committee
(5) Phong trào du mục mới
chịu ảnh hưởng tư tưởng bohemia ở Paris thế kỷ 19.
(6) Mecca là tên một
thành phố ở Saudi Arabia và là thánh địa của Hồi giáo. Đây là nơi nhà tiên tri
Muhammed sinh ra và sau nay trở thành sứ giả của Allah.Tín đồ Hồi giáo quay mặt
về Mecca khi cầu nguyện và đến hành hương ở nơi này.
(7) Teach-in: Diễn đàn
giáo dục đặc biệt ở trường cao đẳng hay đại học thảo luận về các đề tài nhạy cảm,
thường liên quan đến chính trị.
(8) Jack Kerouac là nhà
văn người Mỹ và là nhà cấp tiến hàng đầu trong phong trào beat.
(9) Canasta: Một loại bài
Tây
No comments:
Post a Comment