Tác giả: Erling Bjøl
Dịch giả: Hoàng
Thủy Ngữ
02/07/2020
Đường đến Việt Nam
Thế mạnh của
Johnson trong chính sách đối nội lại là thảm kịch trong chính sách đối ngoại.
Không ai hiểu Quốc hội, đặc biệt là Thượng viện, hơn ông. Chân trời của ông
hoàn toàn bị che phủ bởi chính sách đối nội. Ngay sau khi nắm quyền, và từ lâu
trước khi nhúng tay vào vấn đề VN, ông đã tuyên bố rằng, ông không muốn bị kết
tội là vị tổng thống thất bại ở miền Nam châu Á.
Cố thượng
nghị sĩ Joseph McCarthy ở hậu trường vẫn diễu cợt kết tội đảng Dân Chủ đã thua
Trung Quốc. Trong mùa bầu cử 1964, chính sách của Johnson trước nhất là bỏ VN
ngoài cuộc vận động và giảm nhẹ tình trạng bi thảm để tránh báo chí và đài truyền
hình khai thác. Mặt khác, ông phải tìm cách ngăn chặn ứng cử viên đối thủ năng
nổ Barry Goldwater độc diễn trước ánh sáng sân khấu chính trị. Vì vậy Johnson
phải quyết tâm, nhưng cũng không tỏ ra quá hiếu chiến. Lá bài thuận lợi nhất
cho ông là ứng viên đối thủ muốn sử dụng bom nguyên tử. Chiến thuật của Johnson
đạt hiệu quả trong cuộc bầu cử nhưng lâu dài trở thành cái giá quá đắt.
Để chống lại
Goldwater, tháng 8 năm 1964 ông đã thành công trong việc thuyết phục Quốc hội
phê chuẩn nghị quyết cho ông quyền áp dụng mọi biện pháp trả đũa nếu quân đội Mỹ
bị tấn công. Ông không muốn lặp lại sai lầm của Truman trong chiến tranh Triều
Tiên, nhưng muốn có hậu thuẫn chắc chắn của Quốc hội như Eisenhower đã có trong
các cuộc khủng hoảng. Ông dùng quyền này ra lệnh không kích Bắc Việt sau vụ chạm
trán giữa chiến hạm Mỹ với tàu tuần tiễu Bắc Việt tại vịnh Bắc Bộ. Đồng thời,
ông cũng bảo đảm “không gửi thanh niên Mỹ ra làm những việc mà thanh niên châu
Á phải làm”.
Nhưng rồi
nghị quyết Vịnh Bắc Bộ quay lại hại ông. Dần dần Quốc hội biết đã bị lừa. Đúng
là chiến hạm Mỹ bị các tàu tuần tiễu Bắc Việt tấn công, nhưng bộ trưởng Bộ quốc
phòng McNamara đã “quên” không báo cáo là chiến hạm đã xâm nhập hải phận Bắc Việt
với mục đích thăm dò hệ thống ra-đa của miền Bắc để mở đường cho các cuộc không
kích nếu cần sau này.
Ông Johnson
cũng im lặng, không cho biết là lực lượng người nhái miền Nam đã mở những chiến
dịch chống phá miền Bắc, là Bắc Việt cho rằng các chiến hạm Mỹ có nhiệm vụ hỗ
trợ các chiến dịch này và các sĩ quan Mỹ tại hiện trường biết rất rõ diễn tiến
qua điện đài – nói khác người Mỹ không hoàn toàn vô tội như những gì Quốc hội
được biết.
Sau khi sự thật phơi bày,
McNamara và tổng thống Johnson bị mất tin tưởng. Họ bị nghi ngờ đã dàn dựng mọi
chuyện để được giao quyền quyết định. Trầm trọng nhất đối với Johnson là một
người bạn cũ, thượng nghị sĩ J. William Fulbright, đang là chủ tịch Ủy ban
chính sách đối ngoại Thượng viện, cắt đứt với Nhà Trắng khi ông biết mình bị lừa.
Chính ông đã vận động Quốc hội chấp thuận giao quyền cho Johnson. Trong thời
gian đó, nhờ nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, Johnson gửi quân sang VN.
Giới
lãnh đạo quân đội đã lên kế hoạch tiến hành chiến tranh từ thời Kennedy.
Kennedy chấp thuận tăng số cố vấn quân sự nhưng luôn chống đề nghị đưa quân
sang Việt Nam. Johnson cũng do dự trong một thời gian dài. Ông đã nghe phó bộ
trưởng Bộ ngoại giao George Ball, một nhân vật có ảnh hưởng lớn đến từ Chicago,
cảnh cáo Kennedy là cuối cùng một lực lượng quân sự với 300.000 người phải có mặt
ở VN nếu người ta bắt đầu gửi quân đến đó.
Ball là bạn
thân của Jean Monnet, người sáng lập EC (1) đã theo dõi sát diễn biến ở VN
trong giai đoạn Pháp thuộc. Johnson đánh giá cao Ball vì ông ta không thuộc giới
thành đạt miền Đông. Nhưng rồi ông lại nghe theo McNamara, người lãnh đạo có khả
năng vô cùng xuất sắc của một hãng sản xuất xe hơi (2) nhiều hơn. Theo cách diễn
tả ưa thích của Johnson, McNamara là một người can-do theo
trái tim của mình.
Mặc dù đã bắt
đầu nghi ngờ, McNamara vẫn tiếp tục nghe theo các tướng lãnh. Kể từ mùa Hè năm
1964, hai trong số các sĩ quan được kính nể nhất của Hoa Kỳ đóng trạm ở Sài
Gòn. Một người là Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ, Maxwell Taylor làm đại sứ
thay Cabot Lodge, và người khác là William Westmoreland. Ông giữ chức tư lệnh Bộ
chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ theo đề cử của Taylor.
Tuy vậy, hai
vị tướng lại gửi về Washington những ý kiến khác nhau. Trong khi Taylor muốn
dùng không lực để đánh miền Bắc VN vì ông tin rằng Hà Nội đang chỉ huy cuộc nổi
dậy ở miền Nam thì Westmoreland lại yêu cầu gửi quân. Tuy nhiên, cả hai đều đồng
quan điểm về việc Hoa Kỳ gia tăng can thiệp quân sự, với niềm lạc quan sẽ chiến
thắng Việt Cộng.
Leo thang chiến
tranh
Đối với
Johnson, việc sử dụng không lực là giải pháp tốt nhất bởi lẽ sẽ không có nhiều
rủi ro thiệt hại có thể gây xáo trộn ở quê nhà. Nhưng một biến cố xảy ra vào
ngày 6/2/1965 đã làm ông quyết định bật đèn xanh cho các trận không kích trả
đũa theo kế hoạch của Pentagon có tên “Chiến Dịch Sấm Rền”.
Trong đêm tối
của vùng nhiệt đới, vài trăm Việt Cộng mặc quần áo đen, bôi mỡ cọp lên người
khiến chó sợ hãi không dám sủa, lẻn vào một căn cứ trực thăng ở Pleiku, giết chết
9 lính Mỹ và làm bị thương 129 người. Cố vấn an ninh quốc gia của Johnson,
McGeorge Bundy, người ông lưu nhiệm từ thời Kennedy, lúc đó đang có mặt ở Sài
Gòn để làm cuộc phân tích đánh giá tình hình thực tế. Các tướng lãnh đã đưa ông
đi thăm những người bị thương nằm dưới mái che vải ở bệnh viện quân đội trong rừng
Pleiku.
Lần thăm viếng
này đã biến khoa trưởng Havard từ con chim cú thành diều hâu. Khi tướng không
quân Curtis LeMay đề nghị “ném bom để biến Hà Nội trở lại thời đồ đá”, Bundy đã
lặp lại một cách lạnh lùng là chúng nó đang sống như vậy ở đó. Nhưng rồi ông đã
gửi điện cho Johnson để tiến hành trả thù ngay lập tức. Những ngày kế tiếp bão
tố đổ ập xuống miền Bắc Việt Nam.
Bạo lực có
tính năng động riêng của nó. Khi muốn sử dụng không lực, người ta phải bảo vệ
các phi trường. Ngày 8/3/1965, một lực lượng lính Mỹ gồm 3.500 lính Thủy quân Lục
chiến đổ bộ vào Đà Nẵng. Cho đến cuối năm, 200.000 người đã có mặt tại VN, quyết
liệt truy lùng quân du kích khắp nước và gây đau thương cho các làng xã bị tình
nghi chứa chấp Việt Cộng.
Nhưng Hồ Chí
Minh chuyển thêm quân bằng những đường mòn trong rừng rậm phía Nam. Mỗi năm khoảng
200.000 thanh niên miền Bắc đến tuổi thi hành quân dịch.
Đến cuối năm 1966 đã có
400.000 lính Mỹ ở VN. Tuy nhiên cuộc chiến vẫn chưa thấy dấu hiệu chấm dứt và ở
quê nhà phong trào phản chiến gia tăng. Khi phải miễn cưỡng xác nhận Hoa Kỳ
đang lâm chiến, Johnson đã không áp dụng chế độ kiểm duyệt giống như trong chiến
tranh Triều Tiên. Các phóng viên truyền hình tha hồ đưa tin tức và những hình ảnh
nóng hổi ghê sợ từ VN chiếu mỗi đêm trên TV Mỹ.
Ném bom, có
hiệu quả đối với quốc gia kỹ nghệ như Đức, đã gần như không thích hợp để chống
lại một quốc gia kém phát triển như VN, mặc dù dần dần lượng bom ném xuống gấp
3 lần số lượng bom người Mỹ đã ném trong thế chiến thứ hai. Quân du kích không
lệ thuộc vào xăng hay đường hỏa xa, và ngoài ra Johnson tránh phá hủy các mục
tiêu kinh tế vì sợ Trung Cộng vào cuộc.
Mùa hè 1967
số lính Mỹ đã lên đến 450.000 người tại VN. Người Mỹ trực tiếp tham gia các chiến
dịch quân sự trong khi người Việt ở miền Nam phần nhiều chỉ có vai trò canh gác
và bình định. Bây giờ mỗi tháng miền Bắc tăng cường 20.000 người. Đến cuối năm,
tổng số lính Mỹ tử trận lên đến 15.000, riêng năm 1967 là 9.000.
Bộ trưởng bộ
quốc phòng Robert McNamara, người chịu trách nhiệm nặng nề vì đã lừa dối trước
tiên Kennedy, sau đến Quốc hội và cuối cùng đổ quân vào VN, càng lúc càng hoài
nghi hơn. Trong năm 1967 ông mất niềm tin chiến thắng và rời khỏi chính quyền.
Robert Kennedy muốn bỏ VN và công khai ủng hộ phong trào phản chiến. Tháng 10
năm 1967, 100.000 người đã tập trung biểu tình trước Lầu Năm góc.
Cuộc thăm dò
dư luận cho thấy Kennedy có 20% cao hơn trong kỳ bầu cử tổng thống năm 1968. Giờ
đây Johnson hoàn toàn bị cuộc chiến chi phối. Hầu như ông không còn nói đến
chuyện nào khác. Ông tự chọn mục tiêu ném bom miền Bắc VN. Ông thức giấc nửa
đêm, đi xuống phòng hành quân trong Tòa Bạch Ốc để nhận báo cáo từ mặt trận. Dần
dần, ông bị khủng hoảng mặc dù mùa Thu năm 1967 tình hình chính trị ở Sài Gòn
đã ổn định sau cuộc bầu cử và Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm tổng thống. Nhưng
đây cũng chỉ là giải pháp ngắn ngủi.
Năm định mệnh
Năm định
mệnh 1968 bắt đầu với biến cố Tết, Năm Mới theo âm lịch, vào ngày 31/1 Dương lịch.
Như thường lệ, người ta thỏa thuận ngưng bắn vào dịp Tết. Nhưng lần này cuộc
ngưng bắn bị vi phạm. Ngay ngày đầu năm Mậu Thân, Cộng sản tiến hành cuộc tấn
công quân sự lớn nhất. 70.000 quân cộng sản đã đồng loạt tấn công hơn 100 thành
phố lớn nhỏ. Lần đầu tiên họ xâm nhập, đánh vào chính Sài Gòn. Ngay tòa đại sứ
Mỹ cũng bị tấn công và được giải vây sau nhiều giờ cận chiến đẫm máu.
Người Mỹ và
đồng minh miền Nam hoàn toàn bị bất ngờ vì người Mỹ đã từng mở hai trận đánh lớn
gây tổn thất nặng cho địch quân. Tướng Westmoreland lạc quan báo cáo với
Washington là ông đã bẻ gẫy sức mạnh của kẻ thù. Ông đã đánh giá quá thấp Việt
cộng. Do đó Washington bị bất ngờ nhiều hơn Sài Gòn. Cộng sản bị thiệt hại nặng
nề trong cuộc tổng tấn công vào dịp Tết. Người Mỹ ước tính khoảng 50.000 quân cộng
sản đã tử trận. Miền Bắc xác nhận con số này sau cuộc chiến.
Tướng miền Bắc
Võ Nguyên Giáp, người lên kế hoạch tổng tấn công, không đạt được mục đích vốn
được phóng đại là cuộc cách mạng. Nhưng bù lại cuộc tổng tấn công ngày Tết lại
có ảnh hưởng không ngờ. Nó gây chấn động tâm lý ở Hoa Kỳ. Sự ủng hộ đối với
chính sách VN của Johnson từ 40% rớt xuống còn 26%. Tín nhiệm dành cho ông gẫy
đổ. Người ta viện dẫn câu nói của Lincoln: “Bạn có thể lừa bịp tất cả mọi
người trong một khoảng thời gian nào đó, và một số người suốt đời, nhưng không
thể lừa bịp tất cả mọi người mãi mãi”.
Đến tháng
11/1967 Johnson được sự hỗ trợ của một nhóm người thường được gọi là WOMS (The
Wise Old Men). Ông đặc biệt quan tâm đến ý kiến của họ. WOMS gồm một số chính
khách đầy kinh nghiệm, đa số từ thời Truman, với Dean Acheson đứng mũi chịu
sào. Acheson là một trong số ít người dám nói thẳng ý kiến của mình với
Johnson. Sau cuộc tổng tấn công vào dịp Tết nhóm này thay đổi quan điểm.
Tháng
11/1967, Clark Clifford, nhà chiến lược tranh cử của Truman, tiếp quản Lầu Năm
góc thay McNamara. Ông bị chấn động vì những lời khuyên sai lệch của các tướng
lãnh và tuyên bố không còn cơ hội nào khác ngoài việc rút lui. Trong buổi họp
ngày 25/3, Acheson và các nhà thông thái khác cũng khuyên tổng thống như vậy.
Sáu ngày sau, Johnson thông báo không tái ứng cử. Đồng thời ông cũng ra lệnh dừng
ném bom phía Bắc vĩ tuyến 21 để lôi kéo Hà Nội đàm phán theo những đường hướng
mới.
Doris
Kearns, người chống chiến tranh mà Johnson tin tưởng trong năm cuối của ông ở
Nhà Trắng, cho rằng sự thay đổi trong quan điểm của Clifford là yếu tố quyết định
(Kearns, 1976). Cả nước sôi sục. Trong vòng đề cử ứng viên tổng thống tại New
Hampshire, Johnson suýt bị Eugene McCarthy, một ứng cử viên hiếu hòa ít người
biết, đánh bại. Robert Kennedy, người mà Johnson không ưa thích, cũng lao vào
vòng đề cử. Năm 1968, Kennedy công bố tư cách ứng cử viên tổng thống của đảng
Dân Chủ và thắng 5 trong số 6 vòng bầu cử sơ bộ.
Ngày 5/6/1968
Robert Kennedy bị Sirhan B.Sirhan, một người di dân Palestine, bắn trọng thương
tại Los Angeles. Kennedy chết ngày hôm sau 6/6/1968. Ông vừa mới thắng vòng sơ
bộ quan trọng ở California.
Hai tháng
trước, Martin Luther King Jr. cũng bị giết. Chuyện này đã dấy lên một làn sóng
bạo động sắc tộc đẫm máu. Bạo loạn xảy ra ở hơn 100 thành phố. Từ Tòa Bạch Ốc
người ta có thể thấy 800 đám cháy. Lần đầu tiên sau cuộc nội chiến, quân đội đã
bố trí vòng đai chiến đấu xung quanh tòa nhà Quốc hội ở Capitol Hill. 20.000
người bị bắt và 29 người bị giết trong cuộc xung đột.
Ngay sau đó,
nước Mỹ lại bị những cơn khủng hoảng mới. Từ đầu năm đã có những cuộc biểu tình
chống chiến tranh tại hơn 100 trường đại học. Viện trưởng và khoa trưởng bị chế
nhạo và các tòa nhà bị xịt sơn viết lên những câu khẩu hiệu đầy khiêu khích.
Khi đảng Dân Chủ tổ chức hội nghị toàn quốc ở Chicago vào tháng Tám để bầu ra một
ứng cử viên tổng thống mới, từ 10.000 đến 12.000 phần tử hiếu hòa đã tràn vào
thành phố.
Ông thị trưởng
[Chicago] ra lệnh đặt hàng rào kẽm gai quanh tòa nhà hội nghị và huy động
11.500 cảnh sát và 13.000 quân đội. Lệnh giới nghiêm có hiệu lực từ 23 giờ. Hậu
quả là những trận xung đột kéo dài trong nhiều ngày giữa đám biểu tình luôn hò
hét “Hồ-Hồ-Hồ Chí Minh” và cảnh sát sử dụng lựu đạn cay và dùi cui. Đài truyền
hình chiếu đầy đủ diễn biến trên TV cho khoảng 89 triệu người xem.
Sau biến động
ở Chicago, đề tài chính trong cuộc tranh cử không còn là VN nữa nhưng là “pháp
luật và trật tự”. Ở Việt Nam, cả 2 bên đang chạy chữa vết thương sau trận chiến
vào dịp Tết. Tháng 5, tại Paris người ta thiết lập liên lạc với đại diện của Hà
Nội để điều đình.
Đảng Dân Chủ
đề cử phó tổng thống của Johnson, Hubert Humphrey, một chính trị gia béo tròn
và dễ mến từ Minnesota. Ông chưa bao giờ tỏ ra là một diều hâu, nhưng cảm nhận
sự liên đới với Johnson. Ứng cử viên đảng Cộng Hòa là Richard Nixon, người hứa
sẽ tái lập pháp luật và trật tự, và quả quyết là có một kế hoạch bí mật để chấm
dứt chiến tranh VN. Nixon thắng cuộc bầu cử với tỷ lệ sát sao 31,7 triệu lá phiếu
trên 30,9 của Humphrey.
Những người đầu tiên lên mặt
trăng
Trong khi
chiến tranh VN đang diễn tiến khốc liệt, một sự kiện bất ngờ xảy dến đã thu hút
mọi sự quan tâm của Hoa Kỳ và thế giới vào mùa hè năm 1969. Những người đầu
tiên lên mặt trăng và họ là người Mỹ.
Ngày 21/7 cả
thế giới theo dõi trên TV, hai phi hành gia Neil Amstrong và Edwin Aldrin bước
ra khỏi phi thuyền Apollo 11 và đặt chân xuống mặt trăng tại vùng Biển Tĩnh Lặng
(Sea of Tranquility). Họ đã thực hiện lời hứa với John F. Kennedy 8 năm trước,
lúc ông nói sẽ gửi người lên chinh phục mặt trăng trước khi thập niên 60 chấm dứt.
Dự án này
cũng đã từng được trình bày với Eisenhower nhưng ông bác với lý do Hoa Kỳ không
có kẻ thù trên mặt trăng. Kennedy lúc đầu cũng không thích thú lắm. Jerome B.
Wiesner, cố vấn khoa học của ông thuật lại: “Ông không quan tâm lắm đến dự
án. Ông đã nhìn thấy kinh phí dành cho dự án và đã thấy cảnh nghèo khổ ở West
Virginia. Ông nói với tôi ‘Các ông không thể tỉnh táo để tìm ra loại người khác
trên trái đất này hay sao, những người có thể làm được những gì tốt hơn’.”
Chính những
cân nhắc thuần túy về mặt chính trị cuối cùng đã khiến Kennedy quyết định:
Thách đố của Liên Xô trong lãnh vực không gian và thất bại của Hoa Kỳ ở ṿinh Con Heo.
Ngày
12/4/1961, Liên Xô đưa Jurij Gagarin, người đầu tiên lên quỹ đạo bay vòng quanh
trái đất. Ngày 12/5 cuối cùng Khrushchev đáp lời đề nghị cuộc họp thượng đỉnh
mà Kennedy đã gửi vào tháng Hai. Ngày 23/5, năm ngày trước khi đi Âu Châu để gặp
Khrushchev ở Vienna, Kennedy công bố quyết định sẽ đưa người lên mặt trăng. Quả
thật táo bạo. Đến cuối năm, Cơ Quan Hàng Không và Vũ Trụ Quốc Gia NASA
(National Aeronautic and Space Administration) cho biết, 10.000 vấn đề cần phải
giải quyết nếu muốn thực hiện lời hứa của tổng thống:
Đây là một dự
án tốn kém. Cái giá chót phải trả từ 23 đến 35 tỷ dollar. Ngay từ đầu Johnson,
người nắm Quốc hội trong lòng bàn tay, đã nhiệt tình ủng hộ. Tuy vậy, ông không
phải là người được cài hoa lên mũ. Trái lại, chương trình Apollo đã góp phần
làm suy yếu quyền lực của ông. Năm 1967, một tai nạn vô cùng thảm khốc đã xảy
ra. Phi thuyền chở 3 phi hành gia dày dạn kinh nghiệm nhất phát nổ trong chuyến
bay thử, và cả 3 đều chết. Người được hưởng lợi lại là tổng thống Richard M.
Nixon, dù chẳng làm gì cho chương trình này cả. Nhưng bù lại Nixon biết cách
khai thác nó về mặt ngoại giao vốn cũng là ẩn ý của Kennedy, mặc dù ông làm
theo cách khác với cách vị cố tổng thống đã dự định.
Việc chinh
phục mặt trăng không chỉ đem đến thuận lợi cho uy tín chính trị, nó còn cho Hoa
Kỳ một số tiến bộ kỹ thuật. Tổng cộng 300.000 người làm việc với dự án và đã tạo
cho nền công nghiệp những nhiệm vụ mà sau này người Mỹ nhận được trong cả lãnh
vực quốc phòng và dân sự. Cuối cùng các phi hành gia đem về trái đất đá và bụi
để làm niềm vui cho công việc nghiên cứu. Họ cũng đem theo từ nhà lá cờ Hoa Kỳ
có độ bền bỉ lâu như chính mặt trăng và một tấm bảng với hàng chữ: “Here men
from the planet Earth first set foot upon the Moon July 1969, A.D. We came in
peace for all mankind”. (Tạm dịch: Đây là những người đến từ Trái đất,
lần đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng tháng 7 năm 1969. Chúng tôi đến trong hòa
bình cho toàn nhân loại).
Cho toàn
nhân loại! Nhưng chiến thắng thuộc về Hoa Kỳ. Tổng thống Nixon biết cách khai
thác nó. Ông bay ra Thái Bình Dương để đón các phi hành gia trở về. Họ đáp xuống
gần đảo Guam vào ngày 25/6. Khi các phi hành gia đã an toàn, Nixon lợi dụng
ngay cơ hội để công bố những đường hướng chính trong chính sách ngoại giao ông
định thực hiện. Đoàn tháp tùng hoàn toàn bị bất ngờ, theo lời kể của cố vấn an
ninh chính trị Henry Kissinger (1996).
Ý định bí mật
của Nixon có vẻ đáng tin cậy. Rõ ràng ông đã cân nhắc thời điểm này, khi Hoa Kỳ
đang có uy tín cao độ, rất thích hợp để che giấu sự thất bại. Ngay lập tức người
ta gắn liền thông điệp này với học thuyết Nixon (3) theo đó vị tổng thống muốn
“Việt Nam hóa” chiến tranh và việc này có nghĩa là Hoa Kỳ rút quân khỏi VN. Bản
thân việc này cũng giống như những gì Kennedy đã tiên đoán. Nhưng Nixon đi xa
hơn. Trong tương lai, Hoa Kỳ sẽ không gửi quân đội trợ giúp các chế độ bị đe dọa,
trừ khi các siêu cường khác can thiệp trực tiếp, nhưng tập trung ủng hộ các chế
độ có quyết tâm và khả năng tự bảo vệ mình. Đây là sự thoái trào của thuyết
Domino mà chính ông cũng từng tin theo. Nhưng ông đã đi và lắng nghe rất nhiều,
nhất là nghe tướng Charles de Gaule. Sau này Nixon có nhiều kế hoạch cải cách
sâu rộng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
Rút quân
Nixon đã gặp nhiều vận
đen từ năm 1960 sau khi bị Kennedy đánh bại. Chuyện này đã làm ông khôn khéo
hơn, dù có lẽ không phải là người tốt hơn. Trước hết ông bị thất bại trong cuộc
bầu cử thống đốc ở California năm 1962, sau đó bị loại khỏi vòng ứng viên tổng
thống bởi ứng cử viên cực hữu Barry Goldwater năm 1964. Nhưng ông biết cách tận
dụng 8 năm giá lạnh của mình. Ông đi nhiều, thăm viếng 81 quốc gia, đọc nhiều,
tiếp xúc nói chuyện với các chính trị gia hàng đầu trên thế giới và suy nghĩ
nhiều.
Ông chuyên
tâm vào việc rút quân mà không bị mất mặt. Chắc hẳn ông đã có một “kế hoạch bí
mật”. Nhưng rồi nó cũng chẳng có tác dụng. Kế hoạch giống như Eisenhower đã có
trong cuộc chiến Triều Tiên – hăm dọa địch thủ bằng bom nguyên tử. Nixon cho rằng,
với danh tiếng là người chống cộng cực đoan như ông sẽ làm dân Việt miền Bắc phải
lo sợ. Nhưng họ đã không sợ. Thay vào đó Nixon đã leo thang theo cách khác để
Hoa Kỳ, trong cường độ căng thẳng của chiến tranh, có thể bắt đầu rút quân.
Cuối tháng
Tư, ông ra lệnh tiến quân vào Campuchia. Những cuộc biểu tình phản chiến mới lại
bùng phát và dẫn đến cái chết của những nạn nhân đầu tiên. Bốn sinh viên trường
đại học Kent State ở Ohio, trong đó có hai nữ sinh viên vô tội trên đường đi đến
giảng đường, bị bắn chết trong cuộc biểu tình. Chín người khác bị thương khi vệ
binh quốc gia bắn 67 loạt đạn trong vòng 13 giây.
Sau chiển dịch
quân sự Campuchia, Nixon tuyên bố, quân đội Mỹ không tham gia mặt trận nữa.
Quân đội miền Nam thay thế và Hoa Kỳ sẽ rút quân như đã hứa ở Guam. Khi Nixon
lên nắm quyền, có khoảng 550.000 người Mỹ ở VN. Đến đầu năm 1970, số này giảm
xuống còn 280.000. Số tử trận hàng tuần thấp nhất trong 5 năm. Đầu năm 1971, dưới
áp lực liên tục của bộ trưởng Bộ quốc phòng Melvin Laird, chỉ còn 140.000. Tinh
thần chiến đấu suy sụp. Khoảng 65.000 người nghiện ma túy. Bạch phiến lan rộng
và tin đồn thổi phồng. Khoảng 70.000 lính đào ngũ. Ở quê nhà danh sách động
viên lần lượt biến mất cùng với nửa triệu người không trình diện.
Nỗ lực đầu
tiên của quân đội miền Nam Việt Nam là cuộc tấn công vào Lào mùa Xuân 1971 bị
thất bại. Mục đích là để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, mạch tiếp tế quan trọng
nhất của cộng sản từ Bắc vào Nam. Nhưng quân đội miền Nam bị quá nhiều nội gián
nên bất cứ một kế hoạch tấn công bất ngờ nào cũng đều bị lộ.
Tuy vậy đối
phương cũng bị suy yếu vì chiến dịch Phượng Hoàng (Phoenix program). Chương
trình này do CIA soạn thảo với mục đích xác định và “vô hiệu hóa” thường dân
nào hỗ trợ Việt Cộng, bằng các phương pháp như xâm nhập, bắt giữ, khủng bố và
thủ tiêu. Khoảng thời gian từ năm 1968 đến 1972, hơn 81.000 thành viên của FNL
(4) bị “vô hiệu hóa” và trong số đó hơn 26.000 bị giết.
Hà Nội bắt đầu
chuẩn bị thêm một chiến dịch quân sự và sẽ tiến hành năm 1972 vào dịp bầu cử tổng
thống Mỹ. Cuộc tấn công lớn diễn ra vào dịp lễ Phục Sinh. Giờ đây chỉ còn
60.000 lính Mỹ tại VN trong khi Hà Nội huy động 120.000 người cùng với số lượng
lớn du kích quân Việt Cộng tấn công Sài Gòn. Nhưng lần này dân miền Nam quay
lưng và với sự yểm trợ lớn của không lực Mỹ, sau 3 tháng chiến đấu, họ đã chặn
được dân miền Bắc. Đồng thời Nixon cũng leo thang không kích Bắc Việt, ra lệnh
tấn công Hà Nội và cài đặt mìn phong tỏa cảng Hải Phòng, ngăn chặn Liên Xô tiếp
tế.
Sau lần đọ sức
quân sự này, các cuộc đàm phán do W. Averell Harriman khởi xướng từ 4 năm trước
hé lộ. Năm 1969 cố vấn an ninh của Nixon là Henry Kissinger bí mật tái lập đàm
phán nhưng tiến triển chậm chạp. Mùa Thu năm 1972, khi Kissinger nghĩ rằng một
thỏa thuận cuối cùng đã có, ông bị Nixon, người từ chối gây sức ép lên Thiệu, lừa
vào phút chót. Giáng Sinh năm 1972 tổng thống ra lệnh mở trận không kích Bắc Việt
dữ dội nhất từ trước đến bấy giờ. Ông đã đạt được một vài nhượng bộ nhỏ của Hà
Nội, và trận không kích đã làm Thiệu yên tâm đặt bút ký hiệp ước hòa bình ngày
23/1/1973.
Cái giá phải trả
Ba triệu người
Mỹ đã phục vụ ở Việt Nam. 58.000 người chết, trong số đó 21.000 tử trận sau năm
1968. Đây là trận chiến dài nhất trong lịch sử Hoa Kỳ và là lần đầu tiên quốc
gia này thất trận. Cuộc chiến đã làm sụp đổ tâm lý tự tin can-do.
Chưa bao giờ đất nước bị chia rẽ trầm trọng như vậy từ sau cuộc nội chiến. Phe
bồ câu chống phe diều hâu, thế hệ này chống thế hệ khác. Quân đội không được ưa
chuộng đến mức sau Hiệp định Paris, Nixon phải hủy bỏ lệnh cưỡng bách quân dịch
và phải tiến hành việc tuyển mộ lính mới.
Cuộc chiến tạo
ra những cơn dư chấn kéo dài trong chính sách của Hoa Kỳ. Cựu chiến binh Việt
Nam Colin Powell, tư lệnh quân đội dưới thời George W.H. Bush (cha) và là ngoại
trưởng dưới thời George W. Bush (con) nói rằng, Hoa Kỳ không nên tham gia quân
sự tại bất cứ nơi nào nếu không có mục tiêu rõ ràng, sức mạnh vượt trội và một
chiến lược rút lui. Tổng chi phí chiến tranh được ước lượng là 120 tỷ dollar
(Karnow,1984). Để so sánh, Mỹ “chỉ” chi tiêu 67 triệu dollar cho các chương
trình viện trợ vũ khí và chi phí quân sự ở nước ngoài suốt giai đoạn 1945-1965.
Đây là một hình thức chiến tranh tốn kém người ta đã tiến hành ở VN. Nguồn cung
cấp được vận chuyển xuyên Thái Bình Dương. Không quân, bộ phận quốc phòng đắt đỏ
nhất, đã được sử dụng rộng rãi, với chi phí lớn và kết quả nhỏ.
Bản thân nền
kinh tế Mỹ đủ mạnh để gánh vác các chi phí này mà không bị suy yếu nghiêm trọng.
Tuy nhiên vẫn có một chính sách tài chính khác mà Johnson không đủ can đảm để đề
xuất và dường như Quốc hội cũng không muốn thông qua. Johnson đã chọn con đường
ít trở ngại nhất bằng cách tiến hành chiến tranh theo tín dụng. Hậu quả là lạm
phát bắt đầu xáo trộn và năng suất giảm. Trong những năm 1970, Hoa Kỳ đã phải
trả những khoản tiền bằng đồng dollar sụt giá khiến vai trò lãnh đạo kinh tế thế
giới của Mỹ bị suy giảm và gây ra những cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu suốt
10 năm. Vào năm 1970, cán cân thanh toán thiếu hụt gần 30 tỷ dollar.
Tháng 8 năm
1970, Nixon nhập cuộc. Ông đình chỉ việc chuyển đổi dollar và áp dụng mức phí
nhập khẩu tạm thời là 10%. Hệ thống Bretton Woods (5) vốn là chỗ dựa cho sự thịnh
vượng của các quốc gia công nghiệp từ thời chiến tranh bị loại bỏ. Tháng 12, đại
biểu các quốc gia công nghiệp hàng đầu gặp nhau tại Viện Smithsonian ở
Washington và ký kết một thỏa ước dẫn đến lần giảm giá đầu tiên kể từ 1934. Đồng
thời, để ổn định đồng dollar ở định mức mới, Nixon kiểm soát mức giá cả và
lương bổng.
Cùng với việc
bổ nhiệm nhà tài chính bảo thủ đáng kính Arthur Burn làm trưởng ban Cục Dự Trữ
Liên Bang (Federal Reserve Board), các sáng kiến này đã phục hồi niềm tin, thúc
đẩy nền kinh tế trỗi dậy mạnh năm 1972. Triển vọng tốt đã giúp Nixon giành thắng
lợi lớn trong cuộc bầu cử tổng thống vào mùa Thu. Nhưng rồi ông đã phạm sai lầm
khi hủy bỏ việc kiểm soát giá cả và đồng lương. Đầu năm 1973, giá cả tăng vọt
lên 8% và cuối năm lên 10%.
Có nhiều
nguyên nhân đưa đến chuyện này. Ngân sách năm 1972 thâm thủng với kỷ lục mới là
40 tỷ dollar. Nó kích thích nền kinh tế nhưng giá nguyên vật liệu gia tăng.
Cùng lúc đó, với chính sách hòa hoãn, Kissinger đã vét cạn các kho ngũ cốc của
Mỹ để giúp đỡ người Nga trong năm mất mùa thảm khốc. Hậu quả là giá thực phẩm ở
Mỹ tăng lên không dưới 23% trong vòng một tháng vào năm 1973. Mùa Đông năm
1973-1974, giá dầu hỏa và khí đốt nhảy vọt lên 33% do việc khối OPEC khai thác
cuộc chiến tranh tháng Tám – Cuộc chiến Jom-Kippur – ở Trung Đông. Đồng thời vụ
bê bối Watergate khiến giới lãnh đạo chính trị tại Washington ngày càng bị tê
liệt do sự xung đột quyền lực giữa tổng thống và Quốc hội.
(Còn tiếp)
Nguồn: USA’s Historie, by Erling Bjøl, Københaven
2011, printed in Sweden
______
Chú thích của người dịch:
(1) EC (European
Community) là tên gọi trước kia của EU (European Union) từ 1967 -1993
(2) Hãng xe Ford
(3) Trong chuyến công du
các nước Á Châu năm 1965, khi ghé qua đảo Guam, ngày 25/7, Richard Nixon tuyên
bố, từ thời điểm này trở đi, ông mong đợi các quốc gia đồng minh châu Á có
trách nhiệm tự bảo vệ an ninh quân sự của mình. Tuyên bố này về sau được gọi là
học thuyết Nixon (The Nixon doctrine) hay The Guam doctrine.
(4) FNL: The National
Liberation Front, tức Mặt trận giải phóng miền Nam.
(̀5) Hệ thống Bretton
Woods: Tên gọi hệ thống tài chính bao gồm Quỹ Tiền Tệ Quốc Tê ́ (IMF), Ngân
Hàng Thế Giới (WB) và chế độ tỷ giá hối đoái cố định được xây dựng dựa trên đồng
dollar Mỹ gắn với vàng. Tháng 8 năm 1971 Nixon rút chân ra khỏi hệ thống và thả
nổi đồng tiền.
.
.
.
No comments:
Post a Comment