Nguyễn
Quốc Khải
26/06/2020
Mùa bầu cử 2020 đang sôi
động. Chỉ còn hơn bốn tháng nữa là đến ngày bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Joe Biden
sẽ là ứng cử viên tổng thống chính thức của Đảng Dân chủ. Do đó trong những
ngày gần đây những người ủng hộ Tổng thống Trump dựng lên mẩu tin rằng ông
Biden là người chống tị nạn Việt Nam vào giữa thập niên 1970 để lấy phiếu của
người Việt cho ông Trump. Vì ông Biden là một thượng nghị sĩ rất trẻ từ khi mới
30, vừa đủ tuổi tối thiểu để nhậm chức, cho nên kiểm lại hồ sơ của Quốc hội có
thể sẽ biết thực hư như thế nào. Đây cũng sẽ là cơ hội để xem lại những dự
luật về việc cứu trợ người Việt tị nạn và tin tức thời sự liên quan vào khoảng
thập niên 1970.
Cựu Phó tổng thống
Joe Biden và Nghị sĩ Kamala Harris
Đạo luật di tản và
cứu trợ người tị nạn cộng sản
Trong hồ sơ pháp luật của
Quốc hội Hoa Kỳ, tôi tìm thấy ba tài liệu chính liên quan đến việc di tản và cứu
trợ người Việt tị nạn vào 1975. Thứ nhất là dự luật S. 1484 (Vietnam Contigency
Act) được Thượng viện chấp thuận với số phiếu 75-17 vào ngày
24/4/1975. Trong
số 17 phiếu chống có phiếu của ông Joe Biden. Ngay từ khi tranh cử vào
thượng viện khi vừa 30 tuổi vào 1972 ông đã ủng hộ việc rút quân Hoa Kỳ ra khỏi
Việt Nam.
Khi chuyển xuống Ha Viện, dự luật S. 1484 bị bác bỏ chung với dự luật cũa Hạ viện H.R. 6096
(Vietnam Humanitarian Assistance and Evacuation Act of 1975) với 162 phiếu thuận
và 246 phiếu chống vào ngày 1/5/1975.
Rất tiếc tôi chì tìm thấy
một vài chi tiết giải thích những lý do những dự luật trên đây bị Quốc hội bác
bỏ. Lý do đầu tiên là chính quyền Ford muốn Quốc hội cho ông quyền sử dụng quân
đội Mỹ nếu cần thiết để bảo vệ việc di tản người Mỹ và người Việt ra khỏi Việt
Nam.
Nghị sĩ Robert C. Byrd
(Dân chủ, West Virginia) chống việc dùng quân đội Mỹ để di tản người Việt vì biện
pháp này "không thiết thực và nguy hiểm". Ông nói "Nếu chúng ta
bắt đầu làm như vậy, chúng ta sẽ nhập vào cuộc chiến trở lại".
Dân Biểu Bob Carr (Dân chủ,
Michigan) nói rằng Tổng thống Ford biết Quốc hội sẽ không bao giờ chấp thuận viện
trợ quân sự, cho nên Tổng thống cho di tản ngay những người còn ở đó và chấm dứt
chơi trò chính tri với họ".
Ngoài ra, Thư ký Báo chí
Ron Nessen của Nhà Trắng thừa nhận rằng đa số điện báo (1,125 – 443) và điện
thoại (342 – 290) gọi vào chống lại kế hoạch của Tổng thống Ford.
Chính quyền Ford chủ tâm
liên kết việc di tản người Mỹ và người Việt với khoản xin viện trợ quân sự cho
Việt Nam mà Tổng thống Ford cho là cần thiết để ổn định tình thế và nhờ vậy việc
di tản sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Sau khi bị thất bại tại Hạ
viện với dự luật H.R. 6096, Tổng thống Gerald Ford vào ngày 6/5/1975, qua Ủy
ban Ngoại giao Thượng viện, đã đệ trình Quốc hội dự luật mới có tên là
Indochina Migration and Refugee Assistance Act (S. 1661). Dự luật này được đa số
Thượng viện chấp thuận với 77 phiếu thuận và hai phiếu chống của hai nghị sĩ Cộng
hòa là Jesse Helm (North Carolina) và William Scott (Virginia). Ngoài ra
có 20 nghị sĩ không bỏ phiếu.
Dự luật của Thượng viện
S. 1661 được sát nhập vào một dự luật của Hạ viện có tên là Authorizing Funds
for Assistance to Refugees from South Vietnam and Cambodia (H.R. 6755). Dự luật
này được đệ trình Hạ viện vào ngày 7/5/1975 và đã được thông qua với 381 phiếu
thuận và 31 phiếu chống. Tổng thống Ford ký thành luật vào ngày
23/5/1975. Quốc hội Hoa Kỳ
chấp thuận cho Tổng thống Ford dành một ngân khoản là 455 triệu USD để di tản
và cứu trợ những người tị nạn từ Việt Nam và Campuchia, không kể một
ngân khoản $98 triệu để chi vào việc di tản và hỗ trợ người tị nạn. Trong
đạo luật này không có một ngân khoản nào dành cho viện trợ quân sự. Và nếu có
cũng đã quá trễ vì Saigon đã thất thủ vào 30/4/1975.
Ngoài ra, Thượng viện Hoa Kỳ có ra một nghị quyết (resolution) S. Res.
148 có tên là "Chào mừng những người tị nạn mới nhất đến đất nước chúng
tôi" (Welcome the latest refugees to our shores) vào ngày 8/5/1975 với
92 phiếu thuận trong đó có Nghị sĩ Joe Biden, một phiếu chống của Nghị sĩ
William Scott (Cộng hòa, Virginia) và bẩy nghị sĩ vắng mặt.
Buổi họp tại Nhà Trắng vào
ngày 14/4/1975
Biên bản Buổi họp tại
Nhà Trắng vào ngày 14/4/1975
Tôi cũng đã tìm thấy
trong kho hồ sơ lịch sử đã được giải mật của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ một tài liệu
về buổi họp vào ngày 14/4/1975 tại Tòa Bạch Cung giữa Tổng thống Gerald Ford,
Ngoại trưởng Henry Kissinger, Bộ trưởng Quốc phòng James R. Schlesinger và Ủy
ban Ngoại giao Thượng viện trong đó có Nghị sĩ Joe Biden và một số viên chức cao cấp trong
chính quyền.
Trong tài liệu này, tất cả
mọi người, đặc biệt là Tổng thống Ford, Ngoại trưởng Kissinger, xem ra đều đồng
thuận về hai việc quan trọng : 1) Mang người Mỹ ra khỏi Việt Nam an toàn ; 2)
Di tản khoảng 175.000 người Việt. Riêng việc viện trơ quân sự cho Việt Nam Cộng
Hòa được đề cập tới nhưng không đưa đến một quyết định nào cả.
Theo Ngoại trưởng Kissinger
kế hoạch di tản người Mỹ đã được chuẩn bị kỹ lưỡng. Di tản số người Việt lớn
lao là một bổn phận của Hoa Kỳ (obligation) sẽ phức tạp hơn, cần sự hợp
tác của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và và có thể của cả Bắc Việt. Cũng
theo ông Kissinger, "Tổng cộng số người Việt bị nguy hiểm lên đến trên
một triệu. Danh sách không thể giảm bớt là 174.000 người. Điều này không có
nghĩa là chúng ta có thể di tản hết những người ở trong tình trạng cực kỳ nguy
khốn này. Chúng ta phải tập trung họ lại ở nơi mà chúng ta có điều kiện để di
chuyển họ".
Nghị sĩ Frank Church (Dân
chủ, Idaho) góp ý rằng về mặt pháp lý rõ ràng không có khó khăn gì để di tản
người Việt cùng với người Mỹ, nhưng với 175.000 người cần có hàng ngàn quân Mỹ
bảo vệ.
Nghị sĩ Stuart Symington
(Dân chủ, Missouri) đặt câu hỏi về người Việt tị nạn sẽ định cư ở đâu, Nghị sĩ
Clairborne Pell (Dân chủ, Rhode Island) góp ý rằng "Chúng ta có thể đưa họ
đến Borneo, cùng một vĩ độ, cùng một khí hậu, và đón nhận những người chống cộng
sản".
Tổng thống Ford và
Ngoại trưởng Kissinger
Tổng thống Ford ngay lập
tức đáp lại rằng "Chúng ta đã mở cửa đón người Hung. Tôi không muốn nói rằng
tình trạng giống nhau nhưng truyền thống của chúng ta là tiếp nhận những người
bị đàn áp. Tôi không nghĩ rằng những người này nên được đối xử khác biệt với những
người khác - người Hung, người Cuba, người Do Thái từ Liên Xô".
Ý kiến của Tổng thống
Ford là quyết định sau cùng vì sau đó không ai đem vấn đề này ra bàn
thêm.
Trong buổi họp, Nghị sĩ Biden chỉ phát biểu ba lần ngắn gọn. Ông than phiền rằng Bộ Ngoại giao chưa cho
xem kế hoạch [di tản]. Ông Biden muốn tách riêng ba vấn đề đã nêu trên là di tản
người Mỹ, di tản người Việt và viện trợ quân sự. Ông muốn tập trung ngay vào việc
di tản người Mỹ vì việc này dễ dàng và đã chuẩn bị đầy đủ. Cũng như đa số ở Quốc
hội ông Biden không ủng hộ
viện trợ quân sự cho Việt Nam.
Ông Biden nói nguyên văn
bằng tiếng Anh như sau "We should focus on getting them out. Getting
the Vietnamese out and military aid for the GVN are totally different".
Vài phút sau ông nói tiếp "I don’t want to have to vote to buy it all or
not at all. I will vote for any amount for getting the Americans out. I don’t
want it mixed with getting the Vietnamese out".
Tuy nhiên Jerry Dunleavy
của báo The Washington Examiner đã bẻ quẹo lời ông Biden vừa phát biểu "Biden
said U.S. allies should not be rescued". Tại buổi họp không ai nói câu
nào như vậy.
Cũng trong buổi họp tại
White House, Tổng thống Ford tỏ ra bực tức với Nghị sĩ Clairborne Pell khi ông
này đề nghị định cư người Việt ở đảo Borneo của Nam Dương.
"Pell : We could put these people in Borneo. It
has the same latitude, the same climate, and would welcome some
anti-Communists".
"President : Let me comment on where they would
go: We opened our door to the Hungarians. I am not saying the situation is
identical but our tradition is to welcome the oppressed. I don’t think these
people should be treated any differently from any other people—the Hungarians,
Cubans, Jews from the Soviet Union".
Một cách tồi tệ, thiếu
lương tâm nghề nghiệp, nhà báo Dunleavy đã thay thế câu nói của ông Pell bằng một
phát biểu trước đó của ông Biden không liên quan gì đến nơi định cư của người tị
nạn Việt :
"I will vote for any amount for getting the
Americans Out. I don’t want it mixed with getting the Vietnamese
out".
Dunleavy muốn độc giả hiểu lầm rằng Biden không muốn di tản người Việt
và Tổng thống Ford bực tức ông Biden chứ không phải ông Pell.
Ngoại trưởng Kissinger trả
lời Nghị sĩ Biden rằng đây là một vấn đề hết sức tế nhị. Hoa Kỳ không thể di tản
những người tị nạn trong điều kiện khủng hoảng. Không ai nghĩ cần có một thời
gian dài để di tản những người này. Chỉ có 10 ngày hay hai tuần mà thôi.
Tổng thống Ford nói
"Chúng ta không muốn mang quân đội Hoa Kỳ vào nhưng chúng ta cần có đủ
ngân khoản để làm như chúng ta dự định cầm cự một thời gian… Nếu đây là một buổi
họp để chuẩn bị di tản, nó sẽ làm chính phủ Việt Nam hoảng sợ. Nghị sĩ
Jacob Javits (Cộng Hòa, New York) đề nghị nói với báo chí 200 triệu USD.
Toàn bộ buổi thảo luận tại
Nhà Trắng vào ngày 14/4/1975 có thể tìm đọc : 232.
Memorandum of Conversation
Viện trợ quân sự
Biden và Kissinger
Cũng trong buổi họp tại
Nhà Trắng vào ngày 14/4/1975, Bộ trưởng Quốc phòng James R. Schlesinger nói rằng
"Có những tiến bộ trong những ngày vừa qua. Họ [quân đội Việt Nam Cộng
Hòa] đã chiến đấu tốt tại Xuân Lộc và vùng châu thổ [sông Cửu Long] nhưng tình
trạng này là tạm bợ hay không tùy thuộc vào Bắc Việt và yêu cầu [viện trợ quân
sự] của Tổng thống. Tại vùng quân sự, Bắc Việt có tám sư đoàn, chính phủ Việt
Nam có bẩy sư đoàn. Họ chiến đấu tốt nhưng họ đang thiếu đạn dược. Nói một cách
tổng quát, nếu Bắc Việt tung hết lực lượng ra họ sẽ có ưu thế, nhưng quân đội
miền Nam biết địa thế và bị dồn vào chân tường".
Bộ trưởng Schlesinger yêu
cầu 722 triệu USD viện trợ quân sự. Trong đó 140 triệu USD để trang bị bốn sư
đoàn bộ binh, 120 triệu USD để cải tổ bốn đơn vị biệt động quân và 190 triệu
USD cho đạn dược. Tổng thống Ford nhắc tới một ngân khoản thứ hai là
300 triệu USD đã được Quốc hội chấp thuận nhưng chưa có ngân khoản.
Nghị sĩ Richard Clark
(Dân chủ, Iowa) nêu một câu hỏi về mục đích của viện trợ quân sự mà Tổng thống
Ford yêu cầu. Một lần nữa Tổng thống Ford xác nhận rằng ông muốn
dùng viện trợ quân sự để ổn định tình hình quân sự và tạo cơ hội thương thuyết
và cho phép di tản người Mỹ và người Việt.
Theo tường thuật của New
York Times vào ngày 18/4/1975, Ngoại trưởng Kissinger, tại buổi điều trần trước
Ủy ban Ngoại giao Hạ viện, tiên đoán rằng nếu không có viện trợ quân sự quân lực
Việt Nam Cộng Hòa sẽ cạn hết đạn dược vào cuối tháng 5. Tướng
Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Bộ binh cũng có một nhận định tương tự trước
Ủy ban Quân sự Hạ viện.
Sau cùng Quốc hội Hoa Kỳ đã không chấp thuận một ngân khoản viện trợ
quân sự nào cho Việt Nam Cộng Hòa theo yêu cầu của Tổng thống Ford. Ông cũng chịu chung một số phận như Tổng thống
Nixon.
Cả hai Đảng Cộng hòa và
Dân chủ trong Quốc hội Hoa Kỳ đều tiếp tay gây áp lực để ép Nixon chấm dứt chiến
tranh qua luật ngân sách quốc phòng. Hai nghị sĩ John Sherman Cooper (Cộng hòa)
và Frank Church (Dân chủ) đã đệ trình một số tu chính án cho luật ngân sách quốc
phòng để cấm Nixon chi tiền không những vào chiến tranh Việt Nam mà còn cả ở
Thái Lan, Lào và Campuchia. Có đến 73 nghị sĩ trên tổng số 100 ủng hộ, không phải
chỉ có nghị sĩ Dân chủ mà thôi.
Một tu chánh án khác do
hai nghị sĩ Mark Hatfield (Cộng hòa) George McGovern (Dân chủ) bảo trợ đòi chấm
dứt hoạt động quân sự vào 31/12/1970 và rút quân ra khỏi Việt Nam vào
31/12/1971, nhưng tu chánh án này không đạt được đa số phiếu ủng hộ
(39/55).
Tổng thống Nixon xin viện
trợ cho Việt Nam trong tài khóa 1/7/1974 đến 30/6/1975 một ngân khoản là 1,45 tỉ
USD nhưng chỉ được Quốc hội chấp thuận 700 triệu USD.
Tóm lại cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ đã bỏ rơi Việt Nam.
Hiệp định Paris
1973
Để trả lời một câu hỏi của
Nghị sĩ John Sparkman (Dân chủ, Alabama) về trách nhiệm của Hoa Kỳ theo Hiệp định
Paris 1973, Tổng thống Ford nói rằng Hoa Kỳ đã ký và ủng hộ Hiệp định Paris
1973 thiết lập do sáng kiến của Hoa Kỳ.
Ngoại trưởng Kissinger giải
thích rằng với Hiệp định Paris Hoa Kỳ không có bổn phận gì cả nhưng có thẩm quyền
đó là Điều 7. Hoa Kỳ có quyền cung cấp viện trợ và ép buộc thi hành những thỏa
hiệp.
Ông Kissinger trình bầy
tiếp rằng đối với chính quyền Việt Nam, Hoa Kỳ đã nói nếu họ để quân đội Hoa Kỳ
rút ra khỏi Việt Nam, chính phủ Hoa Kỳ sẽ có nhiều may mắn hơn để trợ giúp Việt
Nam và buộc phải thi hành Hiệp định Paris. Một vài người gọi đó là trách nhiệm
tinh thần. Tuy nhiên, Hoa Kỳ không bao giờ tự cho rằng có bổn phận, không bao
giờ nhận trách nhiệm theo Hiệp định Paris.
Điều 7 của Hiệp định
Paris nói rằng cả hai phe của miền Nam Việt Nam không được phép tiếp nhận nhận
binh sĩ, cố vấn và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên kỹ thuật quân sự, súng đạn
và vật liệu chiến tranh vào miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên đôi bên có quyền thay
thế những những vũ khi, đạn dược bị phá hủy, hư hại hay hao mòn.
Câu nói của Ngoại trưởng
Kissinger rất quan trọng. Do đó tôi chép lại nguyên văn bằng tiếng Anh như sau
:
"The Accords had not obligations but
authorities, that is, Article 7. President Nixon and others judged
that permitting the United States to extricate itself would permit the United
States to provide aid and enforce the agreements. Under the Paris Accords, we
have no obligation. To the GVN we said that if they let us get our forces out
it would enhance our chances of getting aid for them and enforcing the
agreement. It was in this context, not that of a legal obligation. We never
claimed an obligation ; we never pleaded an obligation. But some of us think
there is a moral obligation".
Không ít hội đoàn và một
số nhân vật chính trị và tôn giáo Việt Nam ở hải ngoại trên 10 năm nay bám vào
Hiệp định Paris 1973 để nuôi hi vọng lấy lại miền Nam Việt Nam, phục hồi chế độ
Việt Nam Cộng Hòa để đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa, không những nên nghiên cứu
lại nội dung của Hiệp định mà quan trọng hơn cả là nên tìm hiểu kỹ về chính giới
Hoa Kỳ trước đây và hiện nay quan niệm như thế nào về trách nhiệm của Hoa Kỳ đối
với Hiệp định này. Nếu thấy đây đã là ngõ cụt, thời nên tính chuyện
làm ăn khác.
Kết luận
Trên thực tế, tình hình
chiến sự biến chuyển rất nhanh tại Việt Nam. Chỉ hơn hai tuần sau buổi họp ở Nhà Trắng, Sài Gòn thất
thủ. Cuộc di tản người Mỹ hoàn tất. Một số người Việt làm việc với các
cơ quan của Mỹ tại Việt Nam được đưa đi cùng lúc với người Mỹ. Nhưng nói chung
cuộc di tản người Việt đã diễn ra trong hỗn loạn hầu hết bằng cách vượt biên. Khoảng hơn 120.000 người Việt
tị nạn đã đến Hoa Kỳ trong năm 1975.
Những năm sau này Hoa Kỳ
có những chương trình tị nạn cho người Việt là Humanitarian Operation (HO),
Orderly Departure Program (ODP), Resettlement Opportunity for Vietnamese
Returnees (ROVR), Amerasian Homecoming (AH) và Humanitarian Resettlement (HR).
Theo U.S. Census Bureau, dân số người Mỹ Việt là 2.104.217 vào năm 2017.
Bình tĩnh và công bình mà
nói, những tài liệu lịch sử đã được phổ biến Hoa Kỳ cho thấy một phần nào rằng
chiến tranh Việt Nam không thể thắng được ngay từ 1964. Chính Tổng thống
Johnson cũng rất do dự về việc đem quân vào Việt Nam vào 1965. Ngay sau biến cố
Tết Mậu Thân 1968, Tổng thống Johnson nhìn xa trông rộng, tuyên bố không ra
tranh cử nhiệm kỳ 2.
Vào đầu năm 1969, Hoa Kỳ
có gần 550.000 quân ở Việt Nam. Không đợi đến 1973, Tổng thống Nixon đã bắt đầu
rút quân và thực hiện chương trình Việt Nam hóa chiến tranh. Số phận của miền
Nam Việt Nam đã an bài từ khi Nixon ép Việt Nam Cộng Hòa ký vào Hiệp định Paris
vào tháng Giêng 1973, không phải vì Quốc hội không chấp thuận 722 triệu USD hay
300 triệu USD viện trợ quân sự vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa.
Chỉ có người Việt mới chậm hiểu và tiếp tục bản chất đó cho đến bây giờ,
nên đã, đang và sẽ bị thiệt thòi. Cái giá phải trả đôi khi rất cao như vài triệu
người chết trên chiến trường, vài trăm ngàn người chết chìm dưới biển cả.
Mặc dù ông bà nội là người Đức, mẹ ông là người Scottish, hai người
trong ba người vợ là người gốc Tiệp và Slovenia, Tổng thống Trump đối xử tàn
nhẫn đối với người tị nạn và cực kỳ khắt khe đối với di dân. Ông ra lệnh tách riêng và tập trung 15.000
con cái của những người di dân bất hợp pháp trong vài năm gần đây vào 9 trại
giam lỏng, thiếu vệ sinh và chăm sóc cần thiết và bị lam dụng. Ngày
26/6/2020 Tòa án liên bang tại District of Columbia đã ra lệnh cho chính quyền
Trump phải thả tất cả những trẻ em đang bị giam giữ một phần vì đại dịch
Covid-19.
Tổng thống Trump và Đảng Cộng hòa chủ trương trục xuất khoảng 650.000
di dân được cha mẹ đưa vào Mỹ bất hợp pháp từ khi còn là trẻ con. Tuy nhiên Tối cao Pháp viện Liên bang vừa bác
bỏ yêu cầu của chính quyền Trump đòi chấm dứt chương trình Defered Action
for Childhood Arrivals (DACA) do chính quyền Obama thiết lập để tạm thời cho
phép họ lưu trú tại Hoa Kỳ và được phép đi làm.
Ông Trump còn ra những
quyết định hành pháp để hạn chế số di dân vào nước Mỹ trái với luật định, đặt
thêm những điều kiện khắt khe về lợi tức, trình độ Anh ngữ, kỹ năng chuyên môn,
tuổi tác, sức khỏe và tình trạng gia đình để giới hạn số người vào Mỹ và cơ hội
trở thành người thường trú và công dân Mỹ. Những sắc dân da mầu chịu ảnh hưởng
nhiều nhất. Khoảng 49% người theo Đảng Cộng
hòa xem di dân là một gánh nặng xã hội so với 38% xem di dân là một lợi ích cho
quốc gia.
Trái lại,
ông Joe Biden và Đảng Dân chủ xem Hoa Kỳ là một nước của di dân, nên đón nhận,
đối xử nhân đạo và công bằng hơn với người tị nạn và tôn trọng những di dân hợp
pháp. Khoảng 83% số người
theo Đảng Dân chủ nghĩ rằng di dân làm cho dất nước mạnh hơn, không phải là mối
đe dọa an ninh quốc gia hay trở nên gánh nặng cho xã hội về việc làm, nhà ở và
dịch vụ y tế. Những công đoàn lao động Hoa Kỳ ngày nay cũng không còn xem di
dân là một mối đe dọa về việc làm và lương bổng mà là vấn đề quyền dân sự.
Nếu là người Việt tị nạn
hay là di dân, tôn trọng chính sách di dân công bằng và nhân đạo, chống kỳ thị
sắc tộc, ông Joe Biden là người đáng được ủng hộ trong cuộc bầu cử vào ngày 3,
tháng 11 năm nay.
Nguyễn Quốc Khải
(26/06/2020)
--------------------------
XEM THÊM
Ngày 17 tháng 6 năm 2020
.
Trần
Giao Thủy
March 3, 2020
10/11/2019
.
Người Việt
Online
Feb 6, 2017
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Published
25/09/2008
No comments:
Post a Comment