Nguyễn Văn Lục
Posted on November 17, 2019
“Chiếm được chính quyền, CS không dùng ông nữa đâu!
Ðừng mơ ước, nếu có thể, ông nên ra đi thì hơn.” — Thích Đôn Hậu.
Giấc
mơ lãnh tụ
*
TT Thích Trí Quang, Hình và
bài “Việt Nam: Tuần lễ của đại bất ổn” của Don Moser, Tuần báo LIFE, số ra ngày
15/4/1966, trang 44.
Tâm nguyện của vị Thượng Tọa ra đi vào lúc trên 90
tuổi là chết thầm lặng.
Đây là một thái độ rất có ý nghĩa. Mỗi giai đoạn Trí
Quang.
Lúc còn sống trước 1975, nhất là các năm 1963-1966.
1966-1975, 1975-2019 và lúc lìa đời. Ông ồn ào nổi bật trong vai trò lãnh đạo
tôn giáo và chính trị một thời. Tài liệu “Bạch thư” của Hòa thượng Thích Tâm
Châu đã tố cáo ông Thích Trí Quang không thể không có phần sự thật trong đó.
Nay thì ông Thích Trí Quang để lại chúc thư, mục ba:
Không bàn thờ hương khói – không thông báo – không lễ nghi phiền toái – không vòng
hoa.
Ra đi như thể không còn vướng bụi trần nữa. Hay nói
theo ngôn ngữ bây giờ là “ buông”.
Có điều gì khác biệt giữa một Trí Quang năm
1963-1966, 1975-2019 và lúc chết Đó là điều sau này cần được tìm hiểu
đến nơi đến chốn.
Ngày 31/3/1975: Nhân vật lãnh đạo Phật giáo quyền lực
nhất ở miền Nam, Thích Trí Quang (bìa trái) biểu tình đòi Tổng thống Thiệu từ
chức tức khắc. Thích Trí Quang được cho là người đã góp sức lật đổ cố Tổng thống
Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963. Nguồn: GettyImages
Nhưng vì lòng quý mến thầy mà có hai đệ
tử ruột tiêu biểu nhất, một nam một nữ, đã một thời gắn bó với ông từ thuở
tranh đấu 1963 là Cao Huy Thuần và Thái Kim Lan. Cả hai đã làm trái với
lời tâm nguyện của thầy; họ đã “tụng thầy” để người bàng quang coi là lố bịch đến
chỗ trơ trẽn.
Nói về TT Trí Quang mà không nói về hai nhân vật này
là một thiếu sót. Họ là một ban tam ca, tung hứng nhịp nhàng.
Bài này viết lại với như một nhân chứng trong giai
đoạn 1964-1970.
Năm nào tôi cũng có hơn hai tháng vào mùa hè có mặt ở
Huế. Tôi đã nghe, đã thấy, đã chứng kiến tại chỗ những biến động miền Trung –
không phải từ bên trong – mà từ dân chúng, từ những thanh niên Phật tử cầm loa
điều động dân chúng đi biểu tình.
Họ không phải là thanh niên Phật tử nữa. Họ trở
thành những kẻ xách động hăng say và mù quáng. Bước xuống phi trường trong cái
nóng rực lửa, cộng với không khí sôi động, lòng con người trùng xuống, chán nản
và buồn vì sẽ phải ở đây hai tháng ròng! Cảm nghiệm đó, nghĩ lại vẫn còn chán nản
về đất nước mình, về mảnh đất Huế nghèo nàn mà không thiếu những thành phần
xách động chính trị. Đến nay những người bênh vực ông Trí Quang có cố
tình che giấu gì đi nữa cũng bằng thừa.
Tôi xin đưa ra một bằng cớ ở Nha Trang. Lúc đó Phong
trào Nhân Dân cứu Quốc (NDCQ) từ Huế đã xuất hiện ở Nha Trang. Hai người bạn
tôi là ông Hoàng Thuyên và giáo sư sử địa, ông Tôn Thất Tuệ — hiện còn ở
cùng một nơi với tôi — hẳn đã được kết nạp vào Phong trào này đã chở nhau trên
xe Lambretta đến nhà tôi. Họ thuyết phục tôi tham gia Phong trào NDCQ. Tôi đã
thẳng thắn từ chối. Chẳng còn bạn bè gì nữa, họ đe dọa là nếu tôi không tham
gia Phong trào, khi có chuyện gì xẩy ra thì đừng trách họ. Anh Tôn Thất Tuệ nếu
có đọc bài này, có quyền lên tiếng phản biện. Nhưng bản chất anh là cực kỳ quá
khích. Tính nào tật đó, sau này, ở hải ngoại, tôi viết một bài phản bác về việc
ông Nguyễn Hữu Luyện kiện đại học Boston. Anh Tôn Thât Tuệ đã viết bài chửi tôi
bằng một thứ ngôn ngữ chợ búa.
Viết ra điều
này, tôi chỉ muốn khẳng định dứt khoát: biến dộng miền Trung sau 1964 là một biến
động chính trị, gây xáo trộn đi đến chỗ tạo thành tình trạng vô chính phủ. Và
người trách nhiệm chính, không ai khác hơn ông Trí Quang.
Vì thế, bao nhiêu lời tán tụng thầy Trí Quang là chủ
trương bất bạo động như của Cao Huy Thuần, Thái Kim Lan đối với tôi là những lời
khoác lác, che đậy, dối trá. TT Thích Tâm Châu mà phái Ấn Quang còn muốn đe dọa
giết thì bản thân những kẻ thừa hành như Cao Huy Thuần, Tôn Thất Tuệ tha ai?
Huế và chỉ có Huế là cái nôi của những biến động
chính trị mà cao điểm là từ năm 1964. Bầu khí hùng hục sôi động và chỉ cần bày
tỏ một thái độ không đồng tình có thể bị ăn đòn hội chợ của dân chúng. Những
người có dính dáng xa gần với chế dộ Đệ I Cộng Hòa như cá nằm trên thớt và chỉ
cần một lời tố cáo có thể bị đưa ra hài tội trước công chúng như một thứ đấu tố.
Ông
Cao Huy Thuần chắc cũng biết rõ tôi biết ông ta từ lâu rồi. Cả đời
ông, từ khi sau vụ tranh đấu thành công, rồi có mặt trong Hội Đông Nhân Dân cứu
quốc, một tổ chức như một thứ “phát xít” bên cạnh chính quyền Quốc gia. Cạnh đó
có tờ Lập Trường, tiếng nói của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, mà tính cách bạo lực
chẳng khác gì cung cách của cộng sản. “Lập Trường” là cung cách cộng sản
mà không có người cộng sản.
Ông làm tổng thư ký báo Lập Trường. Tôi cũng xin
thưa, tôi có đầy đủ các số Lập Trường ở đây nên điều tôi nói là dựa trên sự thật.
Cái chết của Ngô Đình Cẩn là do áp lực của Phật tử trên tờ Lập Trường. Tôi nghĩ
ông không thể nào quên được giai đoạn bạo lực sắt máu, làm mưa làm gió ngoài miền
Trung, trải dài từ Đà Nẵng đến Nha Trang. Đó là một giai đoạn vô chính phủ có
nguy cơ thành một chính quyền tự trị. Sau đó ông được đi du học.
Ai là người đứng sau những giai đoạn rối loạn này?
Không lẽ ông cứ cố tình che đậy không muốn nhắc lại?
Vậy mà sau này đối với chế độ cộng sản, mặc dù ông
chưa được hưởng một chút ơn mưa móc, ông vẫn chưa hề một lần dám mở miệng chê
trách chính quyền cộng sản. Chẳng những thế, ông còn khúm núm nịnh bợ mỗi khi về
Việt Nam. Tài nịnh bợ mỗi khi về Việt Nam thì không ai bằng ông. Tôi chẳng muốn
nhắc lại ở đây!
Phải lật tẩy tư cách con người ông như thế để cho thấy
những lời “tụng thầy” của ông chỉ là cái cớ cho người quốc gia như tôi nổi xung
lên.
Đáng lẽ, ông chỉ cần giữ im lặng, thầm lặng “tụng
kinh cứu khổ, cứu nạn” mong Phật đại xá những vọng động bạo lực đủ loại thầy đã
làm khi còn sống.
Các lời tụng sống thầy có phản tác dụng chăng? Khen
đúng, khen trung thực thì nâng thầy lên. Khen bậy, bốc thơm nhảm thì gián tiếp
hạ thầy xuống. Vì thế, đã có nhiều người lên tiếng bằng những ngôn ngữ phỉ
báng, xúc phạm nặng nề đến người đã chết. Quả thực nếu có nghiệp báo thì thầy
chết cũng không yên, dù hơn 40 năm, đã sống làm thinh dưới chế độ cộng sản!
Trên trang DCVOnline.net tôi đã thấy có bản dịch Sư chính trị (“Political
Monks: The Militant Buddhist Movement during the Vietnam War”) của tác giả Mark
Moyar. Tôi nghĩ thế là đủ. Tài liệu, sách vở đều cho thầy là một nhà sư
làm chính trị, một thứ chính trị khuynh đảo. Bênh thầy cũng bằng thừa. Sự thực
là như thế!
Lại có cả Giấc mơ lãnh tụ,
tác giả khuyết danh, có giá trị ở mức độ tài liệu với nhiều chi tiết về nội bộ
tổ chức Phật Giáo và nhất là với một văn phong, một lối nhận xét tương đối
khách quan. Nhiều người chắc đã có dịp đọc tài liệu này. Và tôi mong mỏi những
ai chưa đọc thì nên đọc một lần cho biết.
Vài nhận xét vắn vỏi về TT Trí Quang.
Sau 44 năm nhà sư hầu như diện bích kể từ 1975; ông
tuyệt đối im lặng. Vì sợ chết như gương của ông Thích Thiện Minh để lai chăng?
Thật mâu thuẫn đến nghìch lý. Trước 1975, ông mặc áo cà sa, nhưng là một nhà sư
làm chính trị, quậy phá hầu như nát miền Nam dưới thời Đệ I Cộng Hòa, thời Nguyễn
Khánh, thời Nguyễn Cao Kỳ-Nguyễn Văn Thiệu, thời Thủ tướng Trần Văn Hương. Sau
1975, ông trở thành một nhà tu, mặc thế sự, mặc cho bá tánh lầm than bị kẻ chiến
thắng dầy đạp.
Có thể nói ông chỉ làm được một việc: ông làm thinh.
Thời giờ rảnh rỗi thì dịch kinh sách. Tôi được biết là ông dịch vài cuốn kinh
như “Kim cương bát nhã ba la mật đa Kinh” (Diamond Sūtra; Sanskrit:
Vajracchedikā Prajñāpāramitā Sūtra) mà trước ông, nhiều vị, như Nhất Hạnh, đã dịch
rồi. Tôi cũng chưa bao giờ được hân hạnh nghe ông giảng giáo lý Phật dù một lần.
Hô hào và tuyên truyền thì có. Có nhiều. Sách động hơn 100 vụ biểu tình và hằng trăm vụ tự
thiêu. Tôi không rõ ông đã sáng tác được gì? Rao truyền được tư tưởng gì
về Phật học? Việc in ấn là do Thái Kim Lan thực hiện ở Muchem, bên Đức. Vừa tốn
kém cả mấy chục ngàn Đức mã, vừa mất thêm cước phí chuyên chở. Chỉ nội điều đó
thôi cho thấy chế độ đối xử với ông ra sao.
Kinh sách Phật chân truyền từ các đấng sáng lập Phật
giáo thuở nào, có chi tác hại tới đến chế độ mà bị đối xử biện biệt như vậy? 44
năm ấy, ông bị cách ly, hầu như ông đứng bên lề ra khỏi các vấn đề chính trị,
xã hội và cả tôn giáo nữa. Chính thức là từ năm 1981 khi khối Phật giáo trở
thành Phật giáo nhà nước.
Theo hồ sơ của của ông Đỗ Trung Hiếu nhan đề: Phật
Giáo thống nhất (Hồ sơ). Thống nhất Phật giáo, do Tin Pari, 1994 xuất
bản. Theo đó, người ta sau này quen gọi là Phật giáo Quốc Doanh.
“Ông Trần Bạch Đằng (Tư Ánh) gọi Trí
Quang là loại CIA chiến lược ở miền Trung. Lập Hội Đồng Nhân dân cứu quốc để đạp
sẹp khẩu hiêu của ta. Anh Út ( Nguyễn Văn Linh) giận Trí Quang lắm, và MTGPMN
chưa hề thua ai, thế mà bị Trí Quang cho đo ván ba lần.”
Đỗ Trung Hiếu, Ibid., trang 56-57.
Trong thâm tâm, tôi thiển nghĩ, đây có thể là nỗi
đau bất lực nhất ám ảnh suốt đời ông. Bởi vì cái lý tưởng đời ông phải chăng là
chấn hưng Phật giáo, trở thành ngọn đuốc soi đường chung cho Việt Nam? Cũng như
một Tuệ Sĩ, đứng nhìn trong nỗi bất lực để cho bọn “tiên tri giả” made in công
sản hoành hành, biến tăng lữ, chùa chiền thành nơi buôn thần bán thánh như hiện
nay.
Tố cáo nền Đệ
Nhất Cộng Hòa là kỳ thị tôn giáo. Vậy từ năm 1981, Phật Giáo bị quốc doanh hóa,
tại sao không một ai, từ Thích Trí Quang đến cả đám đệ tử, không một ai dám lên
tiếng chống đối, tuyệt thực, hay tự thiêu? Buồn thay! TT Thích Trí Quang đâu? Cả
ba từng gắn bó với nhau theo mọi nghĩa, giờ họ ở đâu? Họ làm gì?
Cộng sản, ngay từ đầu, đã loại ông ra khỏi danh sách
ban lãnh đạo tổ chức tăng đoàn mới. Vả lại, dù có được mời, chắc gì ông đã nhận.
Ông đã một thời uy danh lừng lẫy. Ông đâu có phải thứ dễ sai bảo!
Ông vừa qua đời ở tuổi trên 90. Nhân dịp này có nhiều
dư luận trái chiều: Khen ít, chê nhiều và phần còn lại im lặng. Lời khen nhiều
khi quá lố, đầy cảm tính xung động thành một thứ ngôn ngữ ngoài khuôn khổ với từ
ngữ mới lạ tai, nghe lần đầu. Lời chê đôi chỗ không khỏi tục tằn và xúc phạm.
Tôi không để tâm đến cả hai chiều dư luận này.
Vài dòng nhận xét về trả lời của Thái Kim Lan trên đài BBC
Người này vốn có duyên nợ thầy-trò, gần gũi nhất với
ông Trí Quang kể từ cuộc tranh đấu Phật giáo năm 1963. Trong những giờ phút
căng thẳng, phập phồng lo sợ cũng như trong cái bầu khí phấn khởi, say mê chiến
thắng đến ngút trời với những lời lẽ dâng hiến thần thánh.
Thời ấy, tôi đã đọc, thấm đẫm từng con chữ viết ra
và nhận ra rằng, có lẽ đấy là những thời khắc tuyệt vời nhất của họ.
Có thể với thời gian, trừ một giai đoạn ngắn xa
cách, nó trở thành một thứ tâm giao, thân cận, gần kề. Nhân vật này biết cặn kẽ
từng thói quen, sở thích, tính nết, ai là bạn, ai là người ông không ưa. Có những
người từng là trưởng đoàn sinh viên Phật tử, sát cánh trong tranh đấu, nay đã
quá vãng, vậy mà ông Trí Quang không ưa, thấy mặt là đóng cửa đến sầm một cái,
không tiếp.
Theo lời tâm sự của Thái Kim Lan, dáng vẻ TT Trí
Quang mảnh khảnh, nhưng đầy nghị lực và đầy nam tính, mắt sắc như dao, cái nhìn
chế ngự người khác. Giọng nói nhát gừng, rời rạc từng chữ, nhưng đầy quyền uy,
không giấu được vẻ cao ngạo. Nói đúng ra, ông có cái tư thế lãnh tụ.
Nhưng có lẽ vì tâm giao như thế mà họ hiểu được
nhau, trong giờ phút ly biệt, sự im lặng là mối giao cảm linh thiêng như một đặc
sủng dành riêng. Và tôi đã mong như vậy. Nhưng tôi đã nghĩ nhầm, Thái Kim Lan
đã lên tiếng bênh thầy một cách vụng về và thiếu thuyết phục. Kẻ lao nhao chữ
nghĩa đôi khi chỉ là vòng ngoài, gần mà hóa xa xôi. Mặc dầu trong lòng đau xót
về sự chia lìa, gạt thầm nước mắt về sự mất mát trong cõi sinh tử theo đúng
tinh thần chúc thư của vị sư già trên 90 tuổi ở khoản 3,
“Không
bàn thờ, không bát nhang, báo tang, thành phục, đưa đám, phúng điếu.”
Lời dặn của Thượng tọa Thích Trí Quang đã không được
tuân thủ đúng mức.
Chính ở sự gần kề ấy mà Thái Kim Lan không giữ được
sự khách quan cần thiết. Trả lời của bà trong cuộc phỏng vấn của đài BBC chỉ là
ngoa ngôn, vọng ngữ, mơ hồ, tụng ca đến không biết ngượng, không cần biết đến sự
thật.
Trước đây tôi đã từng nhận xét về Thái Kim Lan là bà
ấy chỉ có một thứ “văn chương phúng điếu” mỗi khi có ai qua đời. Thật cho đến
bây giờ, nhận xét của tôi vẫn không sai. Mà nó còn trở nên như một thứ “bùa mê
thuốc lú”. Hay vì Thái Kim Lan đã già? Xin trích dẫn, chỉ vài đoạn làm bằng.
“Ông ta là một vị tỳ kheo nghiêm túc, nhất mực
hành đạo khi tụng kinh cũng như là khi đi theo Phật Chưa ai có thể vượt
qua ông về cách tu chứng…Tôi nghĩ Hòa thượng Trí Quang trong hoạt động về mặt
xã hội cũng như về văn Hóa, đối với xã hội, đối với lịch sử, đối với Phật học,
ông luôn luôn bảo vệ đời sống của người Phật tử bằng sự dấn thân cuả ông.
Đó là vai trò lịch sử của Thích Trí Quang và với vai trò này, có thể nhiều người
phê phán, nhưng theo tôi, tôi thấy nếu Việt Nam chỉ thực hiện một nguyện vọng
của Trí Quang, thì có thể Việt Nam có thể vượt được nhiều khổ nạn. Tôi
nghĩ trước hết là cần phải tôn trọng sự thật, cần phải nhìn nhận lịch sử trong
từng giai đoạn. Có thể là chúng ta phải có ý muốn làm thế nào để giữ sự thật,
bảo vệ sự thật lịch sử… Trong lúc đó lịch sử bây giờ đối với tôi, những trang lịch
sử mà được viết về phong trào Phật Giáo cũng như là về Hòa thượng Thích Trí
Quang của người Mỹ hay của người Việt Nam, những khảo cứu tôi nghĩ chưa
nói hết được hay là một cách trung thực cái ý nghĩa mà Thích Trí Quang đã đóng
góp.Luôn luôn phải tâm nguyện là không có bạo động, chỉ tuyệt thực theo đó
yêu cầu thực thi chứ không phải là cưỡng bức thực thi. Nghĩa là khi Trí
Quang tuyệt thực 100 ngày thì cũng ở trong tinh thần đó.”
Thái Kim Lan | Quốc Phương “Hòa thượng Thích Trí
Quang – ‘người chấn hưng Phật giáo thời chiến'”, BBC Việt ngữ
Tôi xin để độc giả tự mình rút ra những nhận xét về
ngoa ngôn của bà tiến sĩ “dởm” này.
Và hy vọng rằng sau này có một trí thức Phật Tử viết
được một cuốn sách có kích thước, khả tín về Trí Quang một cách thẳng thắn và
nghiêm túc. Mà tại sao không phải là Thái Kim Lan nhỉ? Tôi viết ra đây như một
thách thức!
Ông sống đã nhiều thị phi và lúc chết còn hơn thế nữa,
như chưa hết cái nghiệp. Nhưng ít ra ông chọn cái chết như thế, theo tôi, cũng
là đẹp. Cuộc dấn thân vào đời của vị tu sĩ này chỉ tính từ những ngày tháng
tranh đấu năm 1963 trở đi, không tính về trước làm gì. Rất có thể, lúc ban đầu
cuộc tranh đấu Phật giáo do ông lãnh đạo chỉ là những đòi hỏi thuần túy đạo
giáo, nhưng với những cuộc xuống đường rầm rộ, hăng say và nổ bùng ra như dòng
“thác lũ cách mạng”. Hình ảnh ông đứng trên chiếc xe Jeep mui trần sẽ có nhiều
người không muốn quên.
Thái độ phản kháng của ông trở thành “bạo lực” đi đến
những manh nha là phải lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm và được Quân đội và người Mỹ
đứng đằng sau bảo trợ. Khi ra Huế phát động chiến dịch chống đối, thay vì ở
trung tâm Saigon, vì ông thừa hiểu rằng Huế sẽ là cái nôi của cuộc cách mạng Phật
giáo mà không ở nơi nào khác. Ông thẳng thừng trách móc như lên án tất cả các
nhà sư khác còn rụt rè, những người không có can đảm đứng trong hàng ngũ do ông
khởi xướng. Thế họ là răm rắp tụ tập lại đứng sau lưng ông.
Nhất là từ khi lật đổ xong chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa,
tính từ ngày 4-12, khi ông bước chân ra khỏi tòa Đại sứ Mỹ. Ông nhận thức ra
vai trò của mình và biết mình phải làm gì, dần tách rời khỏi quỹ đạo người Mỹ.
Ai tưởng là ông là con cờ của người Mỹ. Nhầm lớn.
Và từ năm 1964 đến 1966, đó là những phong trào quần
chúng do ông đứng đằng sau phát dộng, hình như nó như bản sao của cộng sản, mặc
dầu vị tu sĩ này không phải là người cộng sản. Ai bảo ông là cộng sản. Nhầm nữa.
Phần Lý Chánh Trung gọi đó là ba năm xáo trộn.
Robert J. Topmiller, “The Lotus Unleashed: The
Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964–1966”. Lexington, KY: University
of Kentucky Press, 2002. 214 pp. Trong chương mở đầu, trang 1 với nhan đề
Vietnamese Buddhist as a potical Force, 1963-1965.
Đáng lẽ việc lật đổ xong ông Diệm, vai trò của Phật
giáo kể như đã xong. Các vị tu sĩ tự động rút lui về Chùa sớm tối lo việc kinh
kệ thì đẹp biết là bao! Việc còn lại để cho những chức việc từng tham gia đảo
chánh đảm đương. Rất tiếc điều đó đã không xảy ra như thế.
Đó là cái lỗi lầm thứ nhất của ông. Và cũng là cái
nhầm của nhiều người. Ông là người có óc lãnh tụ.
Nhưng người mà có khả năng hiểu rõ những nguyên động
lực bên trong của phong trào Phật giáo, hiểu rõ ngọn nguồn từng chi tiết và với
một độ chính xác, như người trong cuộc, không phải người Mỹ, mà là một tác giả
khuyết danh qua bài viết rất dài tựa đề, “Giấc mơ lãnh tụ”.
Ai chưa đọc thì tìm đoc, ai đọc rồi thì đọc lại.
Cứ như văn phong thì tác giả này phải là người nẳm
trong nội bộ tổ chức Phật giáo, có vai trò phải ở cấp lãnh đạo.
Phần TT Trí Quang, ông hiểu hơn ai hết; ông hiểu cái
uy tín của ông một phần không nhỏ nằm trên tấm áo cà sa mà ông mặc! Cửa vào
chính trị nay phải đi qua cổng chùa.
Cái nhầm thứ hai của ông là tưởng rằng hay, nhưng nó
thế tục hóa đạo Phật với những giá trị trần thế khiến người có tấm lòng đạo hạnh,
bất bạo động bắt đầu nghi ngại. Phải chăng nó mở đầu cho việc chia rẽ giữa Ấn
Quang - Quốc Tự đi đến chỗ dùng bạo lực đe dọa nhau, bôi nhọ nhau như trong Bạch
thư của TT Tâm Châu sau này. Phần TT Thích Tâm Châu phải tạm vội ẩn mình ở Vũng
Tàu. Cái nguyên nhân chia rẽ này, phần lớn trách nhiệm là nơi TT Thích Trí
Quang.
Cho nên, việc xáo trộn ngoài miền Trung sau này —
cho dù lý luận cách nào đi nữa như chống chiến tranh thì vấn đề là vẫn không đủ
lý lẽ để biện minh. Giữa hai thế lực sống còn, chống chiến tranh nằm ở phía
nào? Hay chỉ là cái cớ để người ta lợi dụng? Và vô hình chung, ông trở thành cơ
hội cho sự chụp đủ thứ mũ.
Dưới mắt chính quyền miền Nam và người Mỹ, ông là một
thứ con bài được nặn ra nay trở thành một thứ quấy rối, quậy nát miền Nam đáng
nguyền rủa. Phần lớn những người hận oán ông hiện nay lên tiếng nguyền rủa ông
chỉ vì họ cho rằng ông là một trong những tác nhân đưa đến sự sụp đổ miền Nam
Việt Nam vào tay cộng sản sau này.
Thật sự, ông không thể nào gánh cái trách nhiệm nặng
nề ấy một mình. Nhưng dư luận đã biến ông thành một con dê tế thần khó tránh khỏi
búa rìu dư luận. Cuối cùng thì ông trở thành đối tượng oán ghét của nhiều phía.
Phần người Mỹ đã không còn thấy con bài Phật giáo
còn cần thiết cho họ sau khi đã ủng hộ vật chất cũng như tinh thần cho các
phong trào Phật giáo nữa. Lúc này mới thấy bộc lộ sức mạnh của Phật giáo thực sự
nằm ở chỗ nào? Như nhận xét của Top Miller,
“Then Buddhist leader did not understand the new
American attitude toward his movement.”
Top Miller, Ibid, trang 123.
Và màn chót của tấn bi kịch này là Mỹ bật đèn xanh
cho Nguyễn Cao kỳ ra “dẹp loạn” bàn thờ xuống đường tại Huế. Ông có thể lật đổ
ông Diệm và cả chế độ VNCH. Nhưng ông đã thua một tay mơ chính trị, chỉ cần một
ngày, cảnh sát của Nguyễn Ngọc Loan quét sạch phong trào của ông. Nguyễn Cao Kỳ
tự nhận là con của Phật, Buddha child’s. Chiêu bài đàn áp Phật giáo trở thành
vô nghĩa, vô hiệu quả.
Trước đây, thời ông Diệm, người ta đã tin như thế,
nay thì không ai tin nữa.
Thích Trí Quang bị bó tay và bị dẫn độ về Sài Gon, nửa
như một tên tội phạm, bị giam lỏng tại Dưỡng đường Duy Tân của bác sĩ Nguyễn
Duy Tài.
Không một cuộc biểu tình, không một cuộc xuống đường
như người ta mong đợi như một đàn áp trắng trợn, đàn áp vị lãnh đạo tối cao của
Phật giáo. Nếu có cuộc thăm dò dư luận như bây giờ thì liệu ông được bao nhiêu
người ủng hộ?
Tạị nơi đây, TT Trí Quang đã làm một bài toán thử cuối
cùng trong một cuộc tuyệt thực 100 ngày với tấm hình tuyệt thực và dòng chữ viết
tay của ông như sau:
TT Trí Quang tuyệt thực. Nguồn: OntheNet
“Tôi nguyện đem xương máu của mình
trang trải cho Phật Pháp và nếu chết là chết như cái chết của Chân Lý trước Bạo
Lực, chứ không phải Bạo Lực này chết vì kém bạo Lực Khác.”
TT Thích Trí Quang, Bệnh Viện Duy Tân 1-9-1966.
Lời nguyền chết cho chân lý đã không xảy ra và trở
thành tấn hài kịch cho Nguyễn Cao Kỳ. Bởi vì, ông đã chơi một lá bài tẩy, tuyệt
thực tháu cáy 100 ngày mà vẫn sống, điều không thể xảy ra từ trước đến giờ trên
thế giới. Ông Kỳ là tay chơi xì phé có hạng, dám nghĩ, dám nói, dám làm, trên
cơ Ngô Đình Diệm cộng với Ngô Đình Nhu.
Kỳ viết với giọng diễu cợt đôi chút xỏ lá Bắc Kỳ:
“I had to be careful with Tri Quang
since I did not want to create a martyr, so I decide on a compromise, and
confined him to house arrest in a Saigon hospital. Knowing the sort of tricks
he would be up to, I deliberately chose a hospital in which one of the doctors
was the friend of Tri Quang’s. Tri Quang stayed in the hospital “recuperating”
for several months but almost immediately on entering it announced that he was
going on a hunger strike.
Just what I expected. But, despite all
the newspaper stories of his impending death, Tri Quang never seemd to lose
weight. Each time the American advisers asked me when he would die, but Tri
Quang is a politician and his doctor friend is feeding him secretely. Don’t
worry, for a politician death is the end. Tri Quang must survive if he wants to
carry on his politician career.”
Nguyen
Cao Ky, Twenty Years and Twenty Days. Stein and Day/
Publishers/Newyork, 1976, trang 98.
Không thể nào còn có nỗi nhục và cay đắng hơn sự diễu
cợt một cách chua cay của Nguyễn Cao Kỳ trong đoạn văn chót kể trên. Kể từ đây,
cuộc đời làm chính trị của TT Trí Quang trở thành mây khói.
Nhưng cũng phải nói thêm, bàn tay của Hoa Kỳ quả là
kỳ diệu!
Sau 1975, TT. Trí Quang hơn ai hết biết thân phận
mình. Ông đã làm thinh cho đến khi lìa đời!
Thái độ trên liệu có thể chấp nhận được không khi Phật
giáo lâm vào tình cảnh bị quốc doanh thành giáo hội nhà nước? Hơn lúc nào hết,
người ta cần ông như một vị cứu tinh cho con thuyền Phật giáo trôi trên biển cả
bị vập dùi. Ông có lẩn trốn trách nhiệm không? Ông đã để bá tánh rơi vào sự
khuynh loát của đảng cộng sản cầm quyền.
Thắng Diệm,
thua Kỳ, thua Mỹ chỉ là chuyện nhỏ. Lần này là ông kéo cờ trắng đầu hàng cộng sản
không điều kiện.
Nếu ông thực sự là một người Phật tử trung kiên và
quyết tâm, ông đã không dễ dàng buông xuôi như vậy. Cái tuyên bố quyết tâm sẵn
sàng hy sinh đổ máu vì đạo trước khi tuyệt thực vẫn chỉ là lời nói xuông chưa
được thực chứng. Một lần nữa, nó cho thấy ông hoàn toàn bất lực trước cộng sản
mà không một dấu hiệu phản kháng nào, dù thật nhỏ nhoi. Mặc dầu, ông đã nhiều lần
là nhân chứng thúc đẩy cho những cuộc tự thiêu của nhiều vị đã tử vì đạo!
Nghĩ đến đây, thật tiếc cho chúng ta không có được một
người lãnh đạo Phật giáo như Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng. Bao giờ Phật giáo
Việt Nam lấy lại được bản lai chân diện của mình?
Cầu mong một đấng Missi ra đời chấn hưng Phật giáo.
Có nhiều người vội vã đến vô ý thức khi cho rằng Thích Nhất Hạnh nổi tiếng thế
giới, chỉ đứng sau Đức Lạt Ma.
Nói như thế là xúc phạm đến vị Lạt Ma mà còn xúc phạm
đến toàn thể Phật Giáo đồ.
Cuối cùng, TT Trí Quang đã thế, như rắn mất đầu, nên
không có một Phật tử nào trong suốt 44 năm có đủ can đảm có một lời lên tiếng
như Rainer
Hoess đã làm.
Cái mạnh của Phật giáo trước 1975 và cái yếu của Phật
giáo sau 1975 nó nằm ở chỗ nào?
Tuy nhiên, trước khi chấm dứt phần này, tôi có một lời
nói thẳng là TT Thich Trí Quang không phải là người của cộng sản.
Khi miền Nam sắp sửa chấm dứt. Một trí thức miền Nam
có tên tuổi đã đến thăm TT Trí Quang.
Sau đây, xin ghi lại nguyên văn lời của TT Trí
Quang:
“Tôi với anh đã hết thời rồi. Thời của
chúng mình đã qua. Chúng ta cần chuẩn bị cho một tình huống mới mà tương lai
anh cũng như tôi không biết thế nào khi sống với người cộng sản. Nếu anh ngại đến
an ninh cho mình thì anh có thể lên ẩn náu trên chùa này, vì dù sao hy vọng chốn
tu hành may ra chúng cũng kiêng nể hơn!”
TT Trí Quang, sau 30 tháng 4, 1975
Ít lâu sau, vị trí thức này lại ghé thăm TT Trí
Quang. Và đây là lời của TT. Trí Quang nói:
“Anh đừng lên thăm tôi thường xuyên nữa
rồi có thể bị rắc rối họa lây. Chúng nghi ngờ cả anh và cả tôi nữa. Trong chùa
này, tất cả các tăng sinh ở đây đều là người của họ. Bề ngoài mang tiếng làm phục
vụ, nhưng bên trong là chúng kiểm soát kẻ ra người vào, bá cáo tất cả đấy. Tôi
sống 24/24 dưới sự canh chừng của họ mặc dầu tôi chẳng đụng đậy gì. Thích Thiện
Minh nông nổi nên chết uổng. Một năm, anh chỉ nên gặp tôi vào ngày mồng hai tết.
Vì ngày ấy rất đông người lên cúng chùa, kẻ ra người vào tấp nập, chúng lơ là
kiểm soát. Vả lại, ngày tết, nhà chùa có nhiều Phật tử cúng hoa quả, thức ăn
ngày tết dư thừa. Tôi sẽ nói họ để dành cho anh vài túi mang về làm quà cho chị
và các cháu ăn tết.”
TT Trí Quang, sau 30 tháng 4, 1975
Hiểu hoàn cảnh của vị thượng tọa đã từng làm rúng động
nước Mỹ nay trở thành con tôm con tép, sinh mang nằm trong tay bọn công sản. Số
phận của TT Trí Quang là số phận của một người tù không bản án trong suốt 44
năm ròng!
Nghĩ mà thương ông nhiều hơn giận ghét. Nay thì ông
đã thật sự được “giải phóng”, thoát khỏi kiếp lưu đầy, chiếm trọn hầu như nửa
cuộc đời còn lại.
Ông sống đến 2019 mà như thể đã chết từ năm 1975.
© 2019 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
*
Nguồn: DCVOnline hiệu đính và minh họa.
[1] Xem thêm bài viết của Cao Huy Thuần, “Thầy Trí Quang – Một
trang lịch sử”.
No comments:
Post a Comment