Dịch giả: Song Phan
07/11/2019
Bài phỏng vấn chung của CEIAS và IIR do Alfred
Gerstl (AG) và Rudolf Fürst (RF) thực hiện với Bill Hayton, nghiên cứu
viên thuộc Chương trình châu Á-Thái Bình Dương tại Chatham House.
---------------
Alfred
Gerstl : Tranh chấp
lãnh thổ và biển ở biển Đông có dính dáng tới năm thành viên ASEAN – Brunei,
Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam – cũng như Trung Quốc (TQ) và Đài
Loan. Hai bên sau có yêu sách không xác định đối với các đảo và các quyền khác
trong một khu vực rộng lớn trên biển Đông, được minh họa bằng cái gọi là đường
chín vạch hoặc đường chữ U được đánh dấu trên bản đồ. ASEAN (Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á) đã cố gắng đàm phán Bộ quy tắc ứng xử (COC) với TQ từ năm 1996
nhưng cho đến nay cả COC lẫn các tranh chấp vẫn chưa được giải quyết. Hayton,
ông có thể cung cấp cho chúng tôi một cái nhìn tổng quan ngắn gọn về các sự
kiện mới nhất ở biển Đông?
Bill
Hayton: Khi nghiên cứu những phát triển hiện tại ở biển
Đông, nói chung chúng ta chỉ nghe những gì các chính phủ liên quan muốn nói với
chúng ta. Tuy nhiên, công nghệ mới, bao gồm hình ảnh vệ tinh và dữ liệu theo dõi
tàu, đã cho chúng ta các công cụ mới để hiểu những gì đang diễn ra.
Ngay bây giờ, vào tháng 9 năm 2019, hiện có hai khu
vực đối đầu: một giữa TQ và Việt Nam tại một khu vực được gọi là bãi Tư Chính
(Vanguard bank), và một khu vực khác giữa TQ và Malaysia của bờ biển Sarawak.
Cả hai khu vực đều nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) tương ứng của Việt
Nam và Malaysia. Vương Nghị, bộ trưởng Ngoại giao TQ, nói với các đồng nhiệm
ASEAN rằng TQ coi các khu vực này là “đang có tranh chấp” nhưng ông không giải
thích cơ sở pháp lý cho yêu sách của TQ đối với các khu vực trên biển này.
Đầu tháng 5 năm 2019, một giàn khoan hoạt động theo
giấy phép của Malaysia đã bắt đầu khoan dầu ngoài khơi Sarawak gần một nhóm các
rạn san hô được gọi là Luconia. Breakers. Khoảng một tuần sau, một tàu Cảnh sát
biển đặc biệt của TQ, Haijing 35111 (Hải cảnh 35111), đã đến hiện trường. Vài
ngày sau, nó bắt đầu quấy rối giàn khoan và các tàu tiếp tế. Vào giữa tháng 6,
cũng tàu này đã di chuyển đến bãi Tư Chính và bắt đầu quấy rối hoạt động
khoan khí đốt của Việt Nam diễn ra tại một khu vực biển được gọi là lô 06-01. Kể
từ đó, các tàu khảo sát của TQ, được các tàu cảnh sát biển và dân quân bảo vệ
đã thực hiện các cuộc khảo sát địa chấn trong EEZ của Việt Nam và Malaysia.
Các kế hoạch khoan ngoài khơi của Việt Nam từng chịu
áp lực của TQ trước đây. Các nguồn tin trong ngành dầu khí nói với tôi rằng,
trong cả hai năm 2017 và 2018, chính phủ TQ đã đe dọa Việt Nam phải gánh chịu
hậu quả nếu cho phép công ty năng lượng Tây Ban Nha Repsol khoan ở rìa EEZ của
nước này. Cả hai hoạt động khoan đã bị hủy bỏ. Hiện tại có tin đồn về việc
ExxonMobil sẽ rút khỏi một dự án khí khổng lồ được gọi là ‘Cá Voi Xanh’ ngoài
khơi miền trung Việt Nam. Mỏ khí này được cho là cung cấp năng lượng cho VN
trong 20 năm. Nó nằm trong vòng 50 hải lý của bờ biển Việt Nam, gần Đà Nẵng và
ngay bên ngoài đường chín đoạn của TQ. Tuy nhiên, tin đồn chưa được xác nhận và
nếu Exxon rời khỏi Việt Nam thì lý do có nhiều khả năng là về thương mại hơn
là chính trị, theo cái nhìn của tôi.
Alfred
Gerstl : Gần
đây, cũng có những căng thẳng mới giữa TQ và Philippines xảy ra – mặc dù Tổng
thống Duterte có quan hệ nói chung là thân thiện với Bắc Kinh.
Bill
Hayton: Philippines phải đối mặt với một vấn đề lớn. Malampaya,
mỏ khí lớn nhất của họ mà từ đó họ tạo ra 1/5 tổng số cung cấp điện cho đất
nước, dự kiến sẽ bắt đầu cạn kiệt vào năm
2024 hoặc không lâu sau đó. Được biết có một mỏ thay thế nằm bên dưới bãi
Cỏ Rong (Reed Bank), xa bờ biển Philippines hơn. Vấn đề là TQ đã khẳng định
yêu sách đối với mỏ này, dù cũng không đưa ra cơ sở pháp lý nào. Vào tháng 5
năm 2017, Tổng thống Duterte đã nói công khai rằng chính Chủ tịch Tập Cận
Bình đã nói rằng sẽ có ‘chiến tranh’ nếu Philippines cố khai thác khí đốt ở
bãi Cỏ Rong mà không có sự đồng ý của TQ.
Vào tháng 11 năm 2018, Philippines và TQ đã ký Bản
ghi nhớ cùng phát triển mỏ khí đốt này. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu
Philippines có đang mời ‘cùng khai thác’ thật sự, trong đó hai nước cùng chia
sẻ các quyền chủ quyền hay không, hay chỉ đơn giản là một ‘liên doanh’ theo một
thỏa thuận thương mại giữa hai công ty, hoạt động theo luật pháp Philippines.
TQ muốn ‘cùng khai thác’, nhưng điều đó sẽ vi phạm hiến pháp và luật về tài
nguyên quốc gia của Philippines.
Alfred
Gerstl : Mục tiêu của Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa ở biển Đông là gì?
Bill
Hayton: TQ chỉ bắt đầu quan tâm ở biển Đông vào đầu thế kỷ
20 và yêu sách lãnh thổ của họ được phát triển trong các cuộc khủng hoảng đặc
biệt vào năm 1909, 1933 và 1946. Trước hết, TQ quan tâm tới việc yêu sách
các đảo nhỏ là một phần của lãnh thổ quốc gia. Một số quan chức đã hy vọng rằng,
các đảo này có thể giàu có về kinh tế, nhưng tình cảm yêu nước ‘đầy xúc cảm’
là một lý do mạnh mẽ hơn để theo đuổi các yêu sách. Mãi đến thập niên 1970, các
chính phủ mới biết rằng có thể có các mỏ dầu và khí đốt quanh rìa biển Đông. Điều
đó dẫn đến sự quan tâm mới ở TQ, nước này lần đầu tiên chiếm cứ các thể
địa lý ở quần đảo Trường Sa vào năm 1988. Trong khi lãnh thổ và tài nguyên vẫn
là động lực chính của các hành động của TQ, một động lực khác đã xuất hiện kể
từ khi TQ phát triển tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân. Dường
như ngày càng có nhiều khả năng TQ muốn xây dựng một ‘pháo đài’ an toàn để che
giấu rào chặn hạt nhân.
Alfred
Gerstl : TQ theo đuổi loại chiến lược
nào?
Bill
Hayton: Một chiến lược ‘pháo đài’ như vậy đòi hỏi phải
có sự kiểm soát gần như độc quyền vùng trung tâm của biển Đông, và do đó, loại
bỏ các nước đòi chủ quyền khác và hải quân bên ngoài. Đây là lý do tại sao nhiều
người nghĩ rằng TQ muốn xây dựng một đảo nhân tạo khác trên bãi cạn
Scarborough, nằm cách đảo Luzon của Philippines khoảng 200 km. Vị trí này sẽ tạo
thành điểm thứ ba của một ‘tam giác chiến lược’, cho phép TQ tung sức mạnh trên
toàn bộ biển Đông. Chiến lược này cũng sẽ đòi hỏi các nguồn cung cấp điện được
đảm bảo trên các căn cứ đảo để cung cấp năng lượng cho việc khử muối và việc
dùng máy tính công suất cao, nhất là cho chiến tranh chống tàu ngầm (ASW). Đây
có thể là lý do tại sao chúng ta đang thấy truyền thông TQ bàn về sự phát triển
của các trạm phản ứng hạt nhân nổi. Việc triển khai các trạm này cũng sẽ là một
rào chắn các hành động quân sự: Ai muốn mạo hiểm ném bom một lò phản ứng hạt
nhân?
Tôi thấy một tương lai rất gập ghềnh phía trước, vì
Hoa Kỳ và Nhật Bản kiên quyết duy trì sự hiện diện của họ trên biển và quyền Tự
do lưu thông qua đó và hoàn thiện các kỹ năng săn tàu ngầm của mình.
Alfred
Gerstl : ASEAN có thể đóng vai trò gì trong việc giải
quyết hoặc ít nhất là làm trung gian cho tranh chấp biển Đông?
Bill
Hayton: Năm quốc gia ASEAN có liên quan trực tiếp đến các
tranh chấp ở biển Đông: Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam đều
có các khác biệt với TQ về tài nguyên biển. Singapore cũng lo ngại về bất cứ điều
gì có thể làm gián đoạn giao thương khu vực và sự thống trị của luật pháp quốc
tế. Bốn quốc gia ASEAN khác ít quan tâm đến vấn đề này và đặc biệt là Campuchia
đã trở thành tay trong của TQ về các vấn đề biển Đông trong tổ chức này. Người
ta có thể nói rằng Campuchia đối với ASEAN giống như Hungary đối với Liên minh
châu Âu! Trong những năm gần đây, Campuchia đã ngăn chặn sự đồng thuận mạnh mẽ
xuất hiện bên trong ASEAN về biển Đông. Điều khiến mọi thứ trở nên phức tạp hơn
là các nước Đông Nam Á có yêu sách đã không giải quyết được tất cả các tranh
chấp trên biển của họ với nhau. Nếu họ đã làm việc đó thì họ sẽ ở một vị thế
mạnh mẽ hơn nhiều trong việc thể hiện một bộ mặt thống nhất với TQ.
Trong năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành Chủ tịch ASEAN
và có khả năng sẽ dấn tới vấn đề biển Đông, cố gắng thúc đẩy sự đồng thuận về Bộ
Quy tắc ứng xử. Một mục tiêu khác có thể là đạt được sự chấp thuận cho các cuộc
tập trận hải quân ASEAN tiếp với Mỹ. TQ có thể giữ thế đứng ngoài trong thời
gian Việt Nam làm chủ tịch chờ nhiệm kỳ chủ tịch kế thân thiện với TQ hơn. Nói
chung, chúng ta không thể mong đợi những thay đổi lớn về ảnh hưởng của ASEAN với
tư cách là một diễn viên ở biển Đông.
Alfred
Gerstl : Theo quan điểm của ông, tranh chấp
ở biển Đông có thể giải quyết như thế nào?
Bill
Hayton: Hiện trạng ở biển Đông không phải là một tình huống
quá tồi tệ. Có một sự ổn định nào đó, ít nhất là về các tranh chấp lãnh thổ.
Sức mạnh quân sự của TQ vượt trội so với các nước đòi chủ quyền khác ở Đông
Nam Á. Câu hỏi mà các nhà lãnh đạo TQ phải trả lời là, liệu họ có ý định sử dụng
sức mạnh đó để đẩy các yêu sách lãnh thổ của họ tiến tới hay không. Các bên yêu
sách Đông Na m Á không có lựa chọn quân sự này, nhưng quan trọng hơn, họ đã nói
rõ rằng họ không có ý tìm cách đẩy các bên khác ra khỏi đảo nhỏ và rạn san hô
mà các bên này hiện đang chiếm giữ. TQ cũng nên làm như vậy.
Để giải quyết tranh chấp, có thể dùng các công cụ luật
pháp quốc tế hiện có. Năm 2008, Tòa Công lý Quốc tế đã có thể quyết định quyền
sở hữu các thể địa lý đang tranh chấp ở eo biển Singapore. Dựa vào bằng chứng lịch
sử, toà phán rằng Pedra Branca, nơi Singapore có xây một đèn biển, thuộc về
Singapore và Middle Rocks thuộc về Malaysia. Hai thể địa lý này chỉ cách nhau một
kilomet. Biển Đông không khó khăn hơn về mặt pháp lý nhưng không nước nào
trong số các nước đòi chủ quyền sẵn sàng đưa các yêu sách lãnh thổ của họ ra thử
thách tại một tòa án quốc tế.
Tôi sẽ lập luận rằng, về tổng thể, lợi ích chiến lược
rộng lớn hơn của TQ nằm ở mối quan hệ hòa bình và ổn định trong khu vực lân cận
họ và những lợi ích đó bị tổn hại do việc họ theo đuổi yêu sách lãnh thổ đang
tranh chấp. TQ sẽ có được mối quan hệ tốt hơn với Đông Nam Á nếu họ nói rõ rằng
họ sẵn sàng thỏa hiệp về các tranh chấp lãnh thổ. Nói một cách đơn giản, nếu mỗi
nước có yêu sách đồng ý giữ các thể địa lý mà họ hiện đang chiếm giữ và ngưng
yêu sách các thể địa lý khác thì tình huống có thể được giải quyết tương đối
nhanh chóng.
Rudolf
Fürst : Ý kiến của ông về việc quân sự hóa biển
Đông là gì?
Bill
Hayton: Chà, khi từ ‘quân sự hóa’ này lần đầu được sử dụng,
nó có một ý nghĩa rất cụ thể. Nó đề cập đến các đảo mới của TQ, bảy đảo mà TQ tạo
ra ở phần phía nam của biển Đông, ở Trường Sa. Do vậy, Tập Cận Bình đã cam kết
là không quân sự hóa các thể địa lý mới này. Nhưng kể từ đó, chúng ta đã thấy
một số loại thiết bị quân sự được đặt ở đó, tên lửa và v.v… Thế thì điều
tranh cãi là định nghĩa quân sự hóa ra sao. Người TQ sẽ nói, “chúng tôi đã
lắp đặt các hệ thống phòng thủ ở đó và chúng tôi không xem đó là quân sự hóa”.
Quân đội các nước Đông Nam Á, bây giờ thấy mình trong tầm bắn của các tên lửa
đó, tất nhiên sẽ không đồng ý, Mỹ và Nhật Bản cũng vậy. Tất nhiên, biển Đông
nói chung được quân sự hóa theo nghĩa mà ta thấy các tàu hải quân đi ngang qua
và các cuộc tập trận quân sự và tất cả các hành động loại này.
Điều duy nhất mà chúng ta chưa thấy là máy bay tấn
công của TQ đậu trên các đường băng mới được xây dựng. Mọi thứ dường như đã sẵn
sàng ở đó để việc này xảy ra –nhưng chưa xảy ra thôi. Đây sẽ là một bước to
tát nếu TQ làm điều đó.
Rudolf
Fürst : Theo bất kỳ giá nào, không gian
của biển Đông là một vấn đề an ninh cấp bách. Ông có tin rằng Liên minh châu Âu
nên đồng lòng có một thái độ chung hay môt tuyên bố chung nào không?
Bill
Hayton: Tôi nghĩ rằng có nhiều cách khác nhau mà tôi nghĩ
điều này ảnh hưởng đến lợi ích của EU. Câu hỏi lớn, không may là khá mơ hồ, là
tình hình ở biển Đông có nguy cơ làm suy yếu trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.
EU về cơ bản là một tổ chức dựa trên luật lệ: Tổ chức này tìm kiếm sự công
bằng và cởi mở trong cách các quốc gia cư xử với nhau. Tất cả các quốc gia
liên quan đến tranh chấp biển Đông đã phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật
Biển (UNCLOS), tuy nhiên chúng ta thấy hành vi gần đây của TQ đối với Việt Nam
và Malaysia rõ ràng vi phạm các quyền của quốc gia khác theo UNCLOS. Vì vậy,
tôi nghĩ, điều quan trọng là EU phải đẩy xa hơn là chỉ nói rằng họ ủng hộ
UNCLOS và các tranh chấp cần được giải quyết theo UNCLOS. Tôi nghĩ, bây giờ họ
nên điểm mặt chỉ tên nước thực sự vi phạm UNCLOS, và trong trường hợp này
thật ra chính là TQ. Tôi không có bất kỳ kỳ vọng nào rằng EU sẽ cùng với
nhau, chẳng hạn, tổ chức một loại hiện diện hải quân hoặc cảnh sát biển nào
đó ở biển Đông, mặc dù tôi nghĩ rằng một số nước thành viên có thể làm điều
đó. Nhưng tôi nghĩ có nhiều cách mà EU có thể đưa ra quan điểm về những yêu
sách nào đối với tài nguyên năng lượng và cá tôm ở biển Đông là hợp pháp và
giúp các nước ven biển quản lý các tài nguyên đó. EU thậm chí có thể quan tâm
đến việc thực hiện một sứ mệnh nào đó kiểu như quan sát theo dõi rồi
công bố các vi phạm UNCLOS.
Tôi nghĩ, EU cần phải nhận ra rằng theo nhiều
cách, họ đã can dự. EU mua rất nhiều cá từ các quốc gia này và cần phải suy
nghĩ về tính bền vững của nguồn cá đó, những gì đang được thực hiện để quản lý
và bảo vệ nguồn cá đó. EU thực hiện nhiều giao thương với khu vực này và các
tàu buôn của họ chạy ngang qua biển này. Nhiều nước châu Âu, chẳng hạn như
Anh, Pháp và Hà Lan, có mối quan hệ lịch sử lâu dài với các nước này. Vì vậy,
châu Âu đã can dự vào phần này của thế giới. Việc duy trì tổng thể hòa bình
và ổn định quốc tế đòi hỏi EU phải để mắt đến những gì đang xảy ra ở đó.
------------------
Bill
Hayton là nghiên cứu viên của Chương trình châu Á-Thái
Bình Dương tại Chatham House, thành viên của Hiệp hội Địa lý Hoàng gia và là một
nhà báo toàn thời gian của BBC News ở London. Năm 2006-2007, ông là phóng viên
của BBC tại Việt Nam và năm 2013, ông đã dành một năm để cố vấn cho đài truyền
hình nhà nước Myanmar về cải cách truyền thông. Ông là tác giả của “Vietnam:
Rising Dragon” (Việt Nam: con Rồng đang trỗi dậy) (Yale, 2010), “The South
China Sea: the struggle for power in Asia” (Biển Đông: cuộc tranh giành quyền lực
ở châu Á (Yale, 2014) và “The invention of China” (Yale, sắp xuất bản). Ông viết
về sự phát triển chính trị và khu vực ở Đông Nam Á và gần đây đã nhận được bằng
tiến sĩ từ Đại học Cambridge.
Alfred
Gerstl, Marie Sklodowska-Curie thành viên nghiên cứu cá
nhân tại Khoa nghiên cứu châu Á, Đại học Palacký, Olomouc và Chủ tịch Viện
nghiên cứu châu Á Trung Âu.
Rudolf
Fürst, trưởng Trung tâm EU-Châu Á, IIR, Prague.
No comments:
Post a Comment