Gần đây trên mạng xuất hiện một số tư liệu mới về
phong trào Nhân văn – Giai phẩm. Tiểu luận mang tên “Vụ Nhân văn – Giai phẩm từ
góc nhìn một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành”
của nhà văn Lê Hoài Nguyên, nguyên đại tá Cục An ninh Tư tưởng Văn hóa Bộ Công
an (A 25), là một tư liệu quan trọng góp phần vào lịch sử đấu tranh dân chủ của
nước Việt Nam hiện đại. Trong tiểu luận trên, tác giả xếp vụ án “Về Kinh Bắc”
1982[1] vào mục “Hậu Nhân văn”. Chính điều này đã gợi hứng cho tôi quyết định
viết về vụ “Về Kinh Bắc” với tư cách người trong cuộc, mong góp thêm phần hoàn
chỉnh tư liệu về phong trào lịch sử này.
th_-hoàng-c_m-lá-diêu-bông
Một trang trong tập bản thảo “Về Kinh Bắc”
Một trang trong tập bản thảo “Về Kinh Bắc”
Vụ án “Về Kinh Bắc” chắc đã được khởi động từ quãng
giữa năm 1982, khi anh Nguyễn Mạnh Hùng, TS Kinh tế, GS đại học ở Canada, cũng
là nhà văn Việt Nam hải ngoại có bút hiệu Nam Dao, đang làm việc/thăm chơi ở Hà
Nội, xin nhà thơ Hoàng Cầm một bản chép tay tập thơ Về Kinh Bắc (VKB) để đem về
Canada. Nguyễn Mạnh Hùng được chính quyền Việt Nam coi là “Việt kiều yêu nước”,
đã đóng góp tích cực cho phong trào ủng hộ miền Bắc, chống Mỹ và chính quyền miền
Nam từ khi còn là sinh viên ở Canada. Sau khi đất nước thống nhất, anh đã nhiều
lần về nước, có tham gia tư vấn cho chính phủ về kinh tế. Mặt khác, anh lại
quan hệ thân thiết với các nhà văn trong nhóm Nhân văn – Giai phẩm, đặc biệt với
nhà thơ Hoàng Cầm mà anh yêu mến.
Việc Hoàng Cầm cho Nguyễn Mạnh Hùng một bản chép tay
VKBchẳng có gì cần bí mật, khi chưa hề có văn bản hay chỉ thị miệng của cấp thẩm
quyền nói rằng tập thơ bị cấm lưu hành. Vả lại, ở cái quán rượu 43 Lý Quốc Sư
mà Hoàng Cầm sống nhờ vào đó từ nhiều năm, lúc nào cũng chật khách trầm ngâm
say và âm u khói thuốc, trong đó hầu hết là những người yêu văn nghệ “ngoài luồng”,
và không ít “đặc tình” (cộng tác viên, nói nôm na là chỉ điểm của CA), “cá
chìm” (tiếng lóng để chỉ trinh sát công an thường phục), thì có gì liên quan đến
ông Hoàng “thơ chui” này mà giữ kín được! Nhưng muốn hiểu vì sao có vụ án “Về
Kinh Bắc”, phải ngược thời gian lên mười năm trước, khi một số bài trong bản thảo
VKBbắt đầu được truyền tay hơi rộng trong giới yêu thơ, trong đó ba bài “Cây
tam cúc”, “Lá diêu bông”, “Quả vườn ổi”(thường được gọi là bộ ba cây-lá-quả) được
mến mộ nhất – phần quan trọng vì chúng được xì xầm diễn giải như lời oán trách
của “em” (văn nghệ sĩ) với “chị” (Đảng), đại khái “em” yêu “chị”, nhưng “chị”
đã lừa “em”, cho “em” ăn toàn “quả rụng”, rồi bỏ mặc “em” bơ vơ để đi lấy chồng…
Theo Hoàng Cầm kể, thì năm 1974, CA Hà Nội có kêu tác giả lên răn đe về việc
lưu truyền những bài thơ “có nội dung xấu” ấy. Hoàng Cầm phải ngưng, nhưng sau
1975, với không khí hào hứng của những ngày “miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận
hàng”, VKB lại có thêm độc giả ở miền Nam, và đến 1979, sự giao lưu với nước
ngoài bắt đầu được cởi mở hơn, một số Việt kiều đã có được một số bài thơ chép
tay của nhà thơ, trong đó dĩ nhiên “bộ ba cây-lá-quả” vẫn đứng đầu bảng. Hoàng
Cầm có kể đích danh một nữ bác sĩ xưng tên là Cần Thơ ở Pháp đã xin ông gửi cho
một số bài thơ, sau này bà cho biết bà là đệ tử của thiền sư Thích Nhất Hạnh ở
Làng Mai. Trong khi xét hỏi bản thân tôi, một sĩ quan CA cho biết: VKB bắt đầu
thành vấn đề nghiêm trọng chính là vì mấy bài thơ này được in trên một tờ báo ở
Pháp kèm theo lời bình mang tính chống đối chính trị. Theo Hoàng Cầm thì CA có
đọc cho ông nghe bài viết ấy trên báo Đất Mẹ (Quê Mẹ?)[i]
Tóm lại, chậm nhất là vào mùa thu 1982, một chuyên
án VKB đã được mở ra, với mục đích ngăn chặn việc đưa bản thảo này ra nước
ngoài và bắt tội tác giả của nó, hoặc đơn giản chỉ là mượn cớ việc chuyển bản
thảo này ra nước ngoài để trừng trị tác giả cho bõ ghét. Theo Hoàng Cầm thì khả
năng 2 là chính, ông nhất định cho rằng chính Tố Hữu là người chủ trương, vì
căm ghét Hoàng Cầm đã dám chê thơ ông ta (vụ phê bình tập Việt Bắc năm 1956),
chưa kể đã “dám nổi tiếng” hơn ông ta trong kháng chiến! Và cũng theo Hoàng Cầm,
để làm việc này, Tố Hữu đã sử dụng một số “CA riêng” của mình.
Thế là trong lúc một cái lưới đang giăng ra xung
quanh quán rượu Hoàng Cầm ở 43 Lý Quốc Sư, thì tôi ở Sài Gòn ra, vô tình chui
vào đó, trở thành con cá to (?) cuối cùng để CA cất vó!
Vì sao định mệnh lại chọn tôi làm con cá oan nghiệt
kia? Suốt mấy năm trời trong trại giam tôi vẫn tự hỏi, vì xét theo logique, tôi
chẳng thể nào hình dung mình có ngày “ách giữa đàng đâm quàng vào cổ” như thế.
Bởi lẽ thứ nhất: từ khi Hoàng Cầm hoàn thành VKB
(mùa Xuân 1960) cho đến tháng 8 năm 1982, đã có hàng trăm bản chép tay của nó
được lưu truyền, mà không thấy ai làm sao, cũng không ai phổ biến lệnh cấm dù
chỉ là lệnh miệng. Lý lẽ này tôi lặp đi lặp lại trong các buổi hỏi cung, tôi
còn vặn lại người cán bộ xét hỏi: “Để một tài liệu ‘phản động’ tự do lưu truyền
trong 20 năm như thế thì trách nhiệm của cơ quan an ninh ra sao?”. Tất nhiên họ
không trả lời được. Và hậu quả của sự “cứng đầu” cộng với ngây ngô của một anh
nhà-giáo-nhà thơ-đi-làm-báo tưởng rằng trên đời có thứ gọi là công lý, là tôi
phải nhận đến 39 tháng tù trong khi “đầu vụ” chỉ có 16 tháng!
Lẽ thứ hai là quan hệ của tôi với tác giả VKB vốn
không có gì mật thiết. Là một trong số những nhà thơ trẻ nổi bật của “thế hệ chống
Mỹ”, nhưng vì “trót” đọc được tiếng Pháp, tôi sớm giác ngộ về “Chủ nghĩa xã hội
với bộ mặt người” qua những sách báo tiếng Pháp ở ngay trong Thư viện Quốc gia
(Nhà nước cho rằng rất ít người biết tiếng Pháp nên không kiểm duyệt bỏ những ấn
phẩm tiếng Pháp “nhạy cảm” được nhập vào đó theo con đường viện trợ, trao đổi).
Đó là thuyết “chủ nghĩa hiện thực không bờ bến” của Roger Garaudy, một nhà lãnh
đạo Đảng Cộng sản Pháp, những tư tưởng “xét lại” của George Lukács, nhà lãnh đạo
cộng sản Hungary, tiểu thuyết Docteur Jivago của B. Pasternak, các tài liệu về
Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX, về những biến động ở Hungary, Tiệp Khắc…
Những sách vở ấy cộng với thực tế nhiều phũ phàng mà tôi va chạm trong mấy năm
dạy học và “đi thực tế sáng tác” ở vùng công nghiệp Hải Phòng, Quảng Ninh, cộng
với sự đổ vỡ niềm tin chiến thắng sau Tết Mậu Thân và cái chết của “Bác”, khiến
tôi ngày càng hoài nghi sự đúng đắn của chế độ. Tất nhiên tôi cũng nhìn lại
phong trào Nhân văn – Giai phẩm bằng con mắt hoàn toàn khác những gì Đảng dạy.
Vì thế, cuối năm 1969, khi đã viết một số bài thơ “ngoài luồng” không thể công
bố, tôi tìm đến làm quen với anh Văn Cao qua dịch giả Dương Tường. Chính Văn
Cao là người đã khuyến khích tôi tiếp tục lối thơ “bàng thống” mà tôi đang bước
vào. Anh trở nên thân thiết với tôi, và đã đứng chủ trì buổi tiếp bạn bè văn
nghệ trong ngày cưới của vợ chồng tôi đầu năm 1975. Với Hoàng Cầm thì khác.
Không chỉ “có vấn đề” về tư tưởng, ông còn tai tiếng là con nghiện (thuốc phiện)
và chủ quán rượu chui. Tôi – một nhà thơ trẻ đang được ưu ái, lại là nhà giáo
và nhà báo của ngành giáo dục (BáoNgười Giáo viên Nhân dân), cũng thấy ngại dây
dưa! Mãi sau khi đã chuyển vào Sài Gòn công tác, tư tưởng ngày càng “diễn biến
hòa bình” do tác động của cuộc sống và sách vở tàn dư của chế độ Sài Gòn, trong
một lần ra Hà Nội vào cuối những năm 1970 hay đầu 1980, tôi mới tìm đến Hoàng Cầm,
cũng do Dương Tường đưa dắt. Chính lần ấy, tôi được nhà thơ khoe một bản thảoVKB
do ông chép tay chữ rất đẹp, bay bướm uyển chuyển, có mấy phụ bản tranh của Bùi
Xuân Phái vẽ các cô gái quan họ. Đó là tập bản thảo mà ông đã bán cho ông Lâm
chủ quán cà phê chuyên sưu tầm tranh của các hoạ sĩ nổi tiếng ở Hà Nội, nay ông
mượn lại, có lẽ để khoe với những người bạn mới, có thể là Việt kiều chăng?
Nhân dịp, tôi đã xin nhà thơ chép cho ba bài Cây – Lá – Quả đem về Sài Gòn khoe
vài người bạn văn nghệ “chui” vốn là dân Sài Gòn cũ (trong đó có anh Phương Kiến
Khánh, sau trở thành nhà thơ Chân Phương ở Mỹ).
Trong chuyến ra Hà Nội tháng 8 năm 1982, định mệnh
xui khiến tôi lại đến với Hoàng Cầm ngoài chủ ý. Một bữa tôi gặp Dương Tường
trên phố, anh sốt sắng bảo tôi đến an ủi Hoàng Cầm vì nhà thơ vừa trải qua một
bi kịch: con gái yêu của ông là nữ diễn viên kịch Hoàng Yến chết đột ngột –
nghe đâu là tự tử. Tôi đến chơi, lại nghe ông than là vừa bị mất tập bản thảo
VKB mượn lại của Lâm cà phê (chắc hẳn CA đã lấy đi làm hồ sơ cho vụ án VKB đang
chuẩn bị). Ông tỏ ra rất tiếc xót, vì khó có cơ hội làm lại một tập đẹp như thế.
Tôi hứng lên, nói sẽ làm lại cho ông một tập đẹp hơn thế. Ông bảo tôi đến gặp
Trần Thiếu Bảo ở phố Bát Đàn, nhờ ông này mua giấy và bút bi loại tốt để ông
chép. Trần Thiếu Bảo nhận lời ngay. (Chỗ này, nhân thể nói bài nghiên cứu của
tác giả người Đức Heinz Schütte công bố trên talawas 31/7/2010 có chỗ lầm: ông
cựu giám đốc NXB Minh Đức sau khi ra tù không bị chỉ định cư trú ở Nam Định cho
đến chết, ông đã được về lại Hà Nội từ lúc nào đấy, và vào năm 1982, ông đang
chuẩn bị mở quán ăn để sinh sống tại số 5 (?) Bát Đàn. Thế là việc chép tay VKB
tiến hành. Tôi đồng thời đến xin Văn Cao một phác hoạ làm bìa tập thơ VKB, và
xin Bùi Xuân Phái mấy phụ bản. Ít ngày sau, tôi vui sướng có trong tay một bức
hoạ mấy cái lá bay (chắc là “lá diêu bông”) của Văn Cao và 4 phụ bản màu nước của
Bùi Xuân Phái vẽ những cô gái quan họ nón quai thao áo tứ thân. Có một chi tiết
mà những ngày đó tôi đã bỏ qua. Trong thời gian này, tôi hầu như ngày nào cũng
đến quán rượu Hoàng Cầm để giục nhà thơ chép cho xong tập thơ. Một tối, tôi
trông thấy trong quán có một người quen, anh nguyên là giáo viên cùng dạy học với
tôi ở Hải Phòng, nhưng đã chuyển về Hà Nội, nghe đâu làm ở Bộ Công an, vì anh
là cháu ruột ông tướng CA nổi tiếng Nguyễn Công Tài. Thấy tôi, anh cất giọng lè
nhè như của người say rượu bảo: “Cái ông Hưng này đến là rách việc”. Tôi hồn
nhiên không để ý, chỉ cười rồi đi ra. Sau khi bị bắt tôi mới đoán rằng anh bạn
đồng nghiệp cũ có lòng tốt cảnh báo để tôi khỏi sa bẫy. Nhưng lúc đó tôi hoàn
toàn ngây thơ và tự tin việc xin thơ Hoàng Cầm chẳng có vấn đề gì mà phải đề
phòng!
bia-tho222-2_Page_2
Bìa tập thơ “Về Kinh Bắc” do Trần Thiếu Bảo vẽ
Bìa tập thơ “Về Kinh Bắc” do Trần Thiếu Bảo vẽ
Ngày Hoàng Cầm hoàn thành việc chép VKB, tôi muốn
nhân đó có một cuộc liên hoan nhỏ với các bậc đàn anh để ăn mừng và cũng là để
chia tay lên đường vào lại Sài Gòn. Ông Trần Thiếu Bảo đề nghị làm ngay tại nhà
ông ấy, như cũng để khai trương quán của ông. Đầu bếp là Phan Tại, nhà viết kịch
và cũng là đồng phạm của ông trong vụ xử án “gián điệp phản động Nhân văn –
Giai phẩm” năm 1960. Trong bữa ăn vui vẻ tình cảm dạt dào giữa những người cùng
tâm sự (có Hoàng Cầm, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại; tôi tuy
vong niên nhưng được các đàn anh cư xử như kẻ ngang hàng), ông Bảo khoe mọi người
hai cái “bìa” cho tập VKB và tập thơ của tôi mà ông trình bày theo lối siêu thực
(Trước đó ít lâu, tôi có khoe một tập bản thảo thơ “chui” của mình cho một số bạn
văn nghệ ở Hà Nội, trong đó có Nguyễn Thuỵ Kha, tập thơ gây ấn tượng khá mạnh
vì sự phá cách của nó. Ông Bảo xin mượn ít hôm). Sau liên hoan, ông Bảo đề nghị
tôi cho ông mượn tiếp tập ấy cùng với tập VKB vừa mới hoàn thành.
Những ngày sau đó, tôi lo chuẩn bị để lên đường, nên
định bụng trước khi đi mới đến nhà ông Bảo lấy lại hai tập thơ. Không hiểu sao
ông Bảo rất sốt ruột, ngày nào cũng đến nhà bà chị tôi (là nơi tôi ở nhờ trong
thời gian lưu lại Hà Nội) thúc giục tôi tới lấy! (Sau mới ngã ngửa ra là Trần
Thiếu Bảo bị CA khống chế, phải làm chỉ điểm cho họ, ít ra là trong vụ VKB này.
Nếu vì lý do gì đó mà tôi không đến lấy hai tập bản thảo, thì vụ án bị hẫng
to!)
Hoá ra họ đã sắp xếp rất chu đáo để “cất vó” VKB mà
tôi là một con cá hẩm hiu ở đâu đến chui đầu vào lưới. Sau này một anh CA quen
thân với gia đình anh cả tôi còn cho biết họ đã bí mật theo dõi, quay phim tôi
suốt nửa tháng trời mà tôi không hề để ý!
Chiều 17/8/1982, sau khi sắp xếp xong hành lý để đi
chuyến tàu tối xuống Hải Phòng và sáng hôm sau đi tàu biển vào Sài Gòn, tôi đến
nhà Trần Thiếu Bảo lấy lại 2 tập thơ. Vào trong quán, tôi thấy hai người đàn
ông đang ngồi uống nước. Sau vào trại giam đi “cung” mới biết đó là ông Khổng
Minh Dụ ở A25, sau này sẽ là Thiếu tướng Cục trưởng và cũng là “nhà thơ”, và
anh Thuận, trợ lý của ông, sau này sẽ là Cục phó Cục chống Bạo lọan. Tôi cứ hồn
nhiên cầm tập thơ đi ra, lên xe đạp phóng. Được một đoạn, bỗng có hai anh thanh
niên đèo nhau xe gắn máy ép tôi vào lề đường. Hai anh nhảy xuống, giữ tôi lại,
bảo: “Cái xe đạp anh đang đi là xe của chúng tôi bị mất cắp”. Tôi kinh ngạc, vì
tôi đang đi chiếc xe của bà chị ruột. Đang cãi qua cãi lại, thì một công an mặc
sắc phục ở đâu tiến tới, nói: “Các anh lộn xộn gì thế, mời về đồn giải quyết”.
Đồn CA gần đấy là đồn Hàng Bạc. Vào trong đồn, anh CA xưng là đồn trưởng, yêu cầu
tôi bỏ hết các thứ trong túi xách ra. Thấy tập bản thảo của Hoàng Cầm, anh ta hỏi:
“Cái gì thế này? Thơ à? Thơ của ai đây?”. Tôi đáp: “Của Hoàng Cầm.” “Hoàng Cầm
là ai? Anh ngồi đây đợi, cái này tôi phải xin ý kiến cấp trên”. Tôi ngu đến mức
vẫn chưa biết đây chỉ là một màn bi hài kịch dàn dựng sẵn.
Sau khoảng 20 phút chờ đợi, anh đồn trưởng bước vào,
bảo: “Đây là ý kiến cấp trên”. Anh giở ra một tờ giấy, đọc: “Lệnh bắt và khám
xét khẩn cấp” vì tội “lưu truyền văn hoá phẩm phản động”. Thế là nhanh như cắt,
hai anh thanh niên “mất xe đạp” lúc nãy hiện nguyên hình là CA, áp giải tôi lên
xe bịt bùng, đưa về… Hoả Lò!
[1] Lê Hoài Nguyên nhớ nhầm là năm 1983
[2] Tôi chỉ còn nhớ vài đoạn, đại khái như sau:
… Các anh bảo chúng tôi
Đi chiến đấu cho ngày mai tươi đẹp
Chúng tôi đi
Vì không sợ chết
Chúng tôi chết
Vì sợ sống hèn
Nhưng sẽ ra sao cái ngày mai ấy?
… Chúng tôi đấy
Đều ngoan ngoãn cả
Anh vừa lòng chứ ạ?
Vâng, chúng tôi cứ khoanh tay nhắm mắt ngồi nhìn
Sự nặng nề ngu độn của các anh
Cứ chầm chậm dìm con tàu xuống biển
bia-tho222-2_Page_1
Phác thảo bìa thơ Hoàng Cầm do Văn Cao vẽ cho Hoàng Hưng
Phác thảo bìa thơ Hoàng Cầm do Văn Cao vẽ cho Hoàng Hưng
http://www.talawas.org/?p=24264 (18/9/2010)
------------------------------------------------
Ngày 20/8/1982 thì đến lượt Hoàng Cầm bị bắt. Còn
Nguyễn Mạnh Hùng, khi ấy đang ở Sài Gòn chuẩn bị bay về Canada. May được Dương
Tường kịp báo hung tin, anh gửi ngay tập bản thảo VKB cho Cao Xuân Hạo giữ, ra
sân bay vô tang. (Tuy nhiên, khi khám xét hành lý của tôi, CA thu được một bức
thư Hoàng Cầm nhờ tôi đưa cho Nguyễn Mạnh Hùng khi vào Sài Gòn, thư dán kín nên
tôi không biết nói gì trong đó). Hùng bị cấm cửa về Việt Nam trong suốt 20 năm.
Chuyến anh trở lại Việt Nam sau 20 năm ấy, lần đầu tiên hai người “đồng phạm” bất
đắc dĩ chúng tôi mới gặp nhau.
Sau khi tôi và Hoàng Cầm bị bắt, tin đồn lung tung,
có cả tin tôi bị bắt vì mang thuốc phiện lậu! Theo nhà báo Trần Đức Chính, TBT
tờ báo của Hội Nhà báo VN, thì có tờ báo hồi ấy đăng tải cả một chuyện vụ án
mang tên “Vụ án hai ông Hoàng” với nhiều tình tiết ly kỳ! Gần đây, một số sách
báo ở nước ngoài và trên mạng vẫn viết là Hoàng Hưng bị bắt vì âm mưu chuyển tập
thơVKB vào sứ quán Pháp! Mới biết trí tưởng tượng của người ta phong phú thật!
Kết cục của vụ án tóm tắt như sau: Hoàng Cầm sau mấy
tháng bị giam thì kiệt sức vì bị khủng bố tinh thần liên tục mà lại không có
nàng tiên nâu trợ lực, phải nhận tội phản động, chống Đảng, chống chủ nghĩa xã
hội, chống chế độ, để mong sớm được ra.
Tôi không thể nào quên cái buổi sáng ấy trong Hỏa
Lò. Sau mấy tháng không thuyết phục được tôi thừa nhận VKB là “phản động”, CA để
tôi nghỉ một hơi dài. Rồi bỗng một hôm tôi lại được gọi đi “làm việc”. Người CA
đưa tôi vào một phòng hỏi cung, nhưng không có ai trong đó. Mà lại có một tập
giấy thếp viết sẵn để trên bàn. Tôi tò mò giở ra, thì… trời ơi, đó là bản tự
khai của Hoàng Cầm, tôi nhận ra chữ viết rất nắn nót, đẹp, của ông. Tôi đọc lướt,
càng đọc càng hoang mang vì ông nhận tuốt tuột các ý tưởng chống Đảng, đả kích
chế độ… trong tập thơ. Để cho tôi một mình đọc xong, người ta mới đưa tôi trở lại
phòng giam. Và họ bố trí rất khéo, để như tình cờ tôi gặp Hoàng Cầm đang ngồi ở
cổng chờ (giữa khu trại giam và khu “làm việc” có một cái cổng lớn, sau khi
“làm việc” xong phạm nhân ngồi đó chờ “quản giáo” ra nhận để đưa vào buồng
giam). Tôi xông đến bên ông, hỏi gay gắt: “Anh nhận tội phản động thật à? Sao lại
thế?” Hoàng Cầm cúi đầu xuống, không nói gì, từ khóe mắt ông lăn ra những giọt
nước mắt. Đến tận hôm nay, nhớ lại những giọt lệ tủi nhục của nhà thơ đàn anh,
lòng tôi vẫn còn đau. Với tôi, tự buộc mình phải hèn để có thể tồn tại là điều
không gì đau hơn cho một kẻ sĩ.
Nhưng trong lúc Hoàng Cầm ngong ngóng CA thực hiện lời
hứa (?) cho về vào dịp Tết, thì một số trí thức Pháp do Thiền sư Thích Nhất Hạnh
vận động đã gửi thư cho Lê Đức Thọ đề nghị thả nhà thơ. Tin đến tai Tố Hữu, ông
“bạn thơ” quý hoá phán một câu xanh rờn: “Nước ngoài can thiệp hả? Thế thì giam
thêm 1 năm nữa cho biết!” (theo lời Hoàng Cầm kể, Hoàng Hưng ghi, đăng trên
talawas mở đầu tập VKB 5/4/2007). Thế là Hoàng Cầm bị giam tổng cộng 16 tháng
(20/8/1982 – trước Noel 1983).
Còn bản thân tôi, chỉ vì tội bướng, mà bị CA lục
tung nhà trong Sài Gòn suốt một ngày trời. Họ tìm ra một số trang nhật ký bằng
văn vần làm từ đầu thập kỷ 1970 mà CA nhận định là “phản động gấp 100 lần thơ
Hoàng Cầm” (lời ông Khổng Minh Dụ)[2]. Sau gần ba năm điều tra rất công phu mà
không tìm thấy gì chứng tỏ tôi nằm trong đường dây liên lạc với bọn “văn nghệ
sĩ phản động hải ngoại”, cuối cùng, nhờ là “cán bộ nhà nước phạm tội lần đầu”,
tôi được đặc ân “chỉ xử lý hành chính nội bộ chứ không bị truy tố ra toà” (lời
viên CA khi công bố lệnh “tập trung cải tạo” dành cho tôi). Mãi đến cuối năm
1985, nhờ không khí chính trị có phần nới lỏng trước Đổi mới, và nhờ người anh
ruột là bác sĩ phục vụ các cán bộ cao cấp đứng ra bảo lãnh, tôi mới được về sau
39 tháng tù, với cái lệnh tha mang tội danh được cải thành “lưu truyền văn hoá
phẩm đồi trụy” (!) Không hiểu sao lại có sự cải đổi từ “văn hoá phẩm phản động”
sang “đồi trụy” như thế? Chắc là CA không muốn có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ
có tội danh “phản động” trong luật pháp Việt Nam, cũng như họ không bao giờ thừa
nhận có “tù chính trị” vậy. (Những người bạn vong niên của tôi bị tù đầy trong
vụ án “xét lại” khi ra tù không ai được cầm lệnh tha hay giấy ra trại!)
Một điều an ủi lớn cho tôi: bị nhà nước bỏ tù, nhưng
tôi được đồng nghiệp bạn bè cảm thông. Thời gian tôi bị bắt, có chuyện được coi
là hy hữu: Báo Người Giáo viên Nhân dân, cơ quan tôi, hết sức bênh vực tôi. Báo
còn trả lương đều đặn và gửi quà cho tôi, bất chấp CA phàn nàn; phải 2 năm sau,
khi CA công bố lệnh tập trung cải tạo với tôi, báo mới đành ngưng việc ấy và Bộ
Giáo dục mới ra quyết định “cho ông Hoàng Hưng thôi việc vì vi phạm pháp luật bị
tập trung cải tạo” (chứ không “buộc thôi việc” như thường thấy trong các vụ
tương tự). Người có vai trò lớn trong chuyện này là nhà báo Trường Giang, Bí
thư Chi bộ Đảng, Thư ký Toà soạn báo NGVND. Ở Sài Gòn, gia đình tôi lâm vào cảnh
“vợ dại con thơ” cực kỳ khốn đốn, có những bữa phải ăn chuối trừ bữa, nhưng bù
lại đã nhận được sự thông cảm yêu thương của tất cả bà con khu phố, kể cả anh cảnh
sát khu vực, của các thầy cô gíao dạy cháu Hoàng Ly.
Sau khi ra tù, Hoàng Cầm mất hằng năm trời sống
trong trạng thái thường trực hoảng loạn, hậu quả của thời gian tù ngục. Nhờ sự
động viên của bạn bè văn nghệ ông mới dần dần hồi phục. Sau Đổi mới, thơ Hoàng
Cầm bắt đầu tái xuất, nhưng riêng VKB còn bị CA ngăn trở dài dài cho đến tận
năm 1994 mới ra mắt được. Hoàng Cầm trở thành gương mặt của truyền thông không
thua gì các “sao”, cuối cùng ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học
(2007). Tuy nhiên, cho đến khi ông qua đời (tháng 5/2010), chính quyền không hề
có một lời minh oan hay xin lỗi, đừng nói gì đến bồi thường cho những năm tù đầy
oan ức của ông.
Còn tôi, ngay sau khi tôi ra tù, GS Nguyễn Văn Hạnh,
Thứ trưởng Bộ Giáo dục, thầy dạy cũ của tôi ở Khoa Văn Đại học Sư phạm, ngỏ ý sẵn
sàng nhận tôi làm việc ở cơ quan Bộ. Nhưng tôi chọn tiếp tục nghề báo, và năm
1988, tập Ngựa biển bao gồm hầu hết những bài thơ trong tập bản thảo của tôi bị
CA tịch thu năm 1982, là tập thơ “ngoài luồng” đầu tiên tự xuất bản ở nước ta
sau Đổi mới, nhờ được anh Trương Văn Khuê, Giám đốc NXB Trẻ cương quyết bảo vệ.
Từ đó tôi in thơ bình thường. Riêng tập thơ Ác mộng viết về những trải nghiệm
tù đầy thì đến nay vẫn bị các nhà xuất bản từ chối. Tuy nhiên một số bài trong
đó đã được công bố nhờ sự “chịu chơi” của nhà thơ Quang Huy, Giám đốc NXB Văn
hoá – Thông tin, rồi sau đó bài “Người về”được đưa vào những tuyển thơ quan trọng
nhất; bản tiếng Anh của nó (Nguyễn Đỗ và Paul Hoover dịch) được đưa vào dự án Tổng
tập văn học thế giới của một tập đoàn xuất bản quốc tế danh tiếng. Riêng có
chuyện xuất cảnh thì tối kỵ. Chắc người ta ngại tôi ra ngoài sẽ trở thành nhân
chứng sống cho “thành tích nhân quyền” của chế độ. Mãi đến năm 2000, do một đồng
nghiệp bảo lãnh trực tiếp với ông Tổng cục trưởng An ninh, tôi mới được ông
đích thân cho phép ra khỏi nước mà không kèm “điều kiện” nào.
Có hai chuyện thú vị về “hậu vụ án VKB”:
Năm 2002, khi tôi về hưu tại báo Lao động, do khiếu
nại của tôi, báo Lao động và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã kiến nghị Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội trả lương hưu cho tôi theo cả thời gian làm việc
trước khi bị bắt (quy định phi lý phi nhân của Bộ này là vứt bỏ hết thời gian
làm việc của cán bộ công nhân viên trước khi họ bị kỷ luật hay bắt giam, như đã
áp dụng với nhà văn Bùi Ngọc Tấn). Lý do được nêu rõ trong công văn: Ông Hoàng
Hưng bị bắt giam vì cầm tập thơ VKB của Hoàng Cầm mà thời đó coi là phản động,
nay xã hội đã có nhìn nhận khác, quyền lợi của ông Hoàng Hưng phải được trả lại.
Kiến nghị bị từ chối. Nhà báo Nguyễn Thị Hằng Nga, đại biểu Quốc hội, bèn đưa
thẳng hồ sơ cho bà Bộ trưởng Nguyễn Thị Hằng, thế là Bộ này quay 180 độ, đổi
ngay quyết định, phá lệ!
Năm 2005, trên một chuyến bay từ TPHCM ra Hà Nội,
tình cờ tôi ngồi ngay bên cạnh một viên CA trực tiếp hỏi cung tôi trong vụ VKB.
Quả đáng tội, hồi đó ông và tôi đã từng khá căng thẳng với nhau. Nay ông giữ một
chức vụ quan trọng trong ngành an ninh. Ông vui vẻ chủ động bắt chuyện. Ông nói
nhiều chuyện về văn nghệ, rồi bỗng bảo tôi thế này: “Tập thơ VKB hay thật! Anh
phải viết một kịch bản phim về nó đi! Tôi biết chỉ có anh là viết được thôi!”
Lạy Trời! So với bao nhiêu người chịu oan khiên cho
đến lúc chết mà chẳng ai biết đến, như ông Lê Nguyên Chí trong vụ Nhân văn –
Giai phẩm chẳng hạn, thì Hoàng Cầm và tôi thế là còn có phúc lắm! Nhớ lại lời
ông CA họ Khổng phán khi tôi cãi rằng nhật ký của tôi để trong nhà, có lưu truyền
đâu mà các ông bắt tội? Ông nói ngay: “May cho anh đấy! Anh mà lưu truyền thì
đi tù không có ngày về”.
Kỷ niệm 25 năm ngày ra tù (30/10/1985 – 2010)
Ảnh: - Bìa tập thơ Hoàng Hưng do Trần Thiếu Bảo vẽ
- Gặp gỡ ở nhà Hoàng Hưng (Sài Gòn) sau Đổi Mới: từ trái sang: vợ chồng Hoàng Hưng, nhà điêu khắc Trương Đình Quế (?), vợ chồng Văn Cao, Hoàng Cầm, nhà điêu khắc Nguyễn Hải
...
[2] Tôi chỉ còn nhớ vài đoạn, đại khái như sau:
… Các anh bảo chúng tôi
Đi chiến đấu cho ngày mai tươi đẹp
Chúng tôi đi
Vì không sợ chết
Chúng tôi chết
Vì sợ sống hèn
Nhưng sẽ ra sao cái ngày mai ấy?
… Chúng tôi đấy
Đều ngoan ngoãn cả
Anh vừa lòng chứ ạ?
Vâng, chúng tôi cứ khoanh tay nhắm mắt ngồi nhìn
Sự nặng nề ngu độn của các anh
Cứ chầm chậm dìm con tàu xuống biển
----------------------------------------
KẾT
THÚC NHÉ:
Cước chú cho Vụ án
‘’ Về Kinh Bắc’’, một sự kiện ‘’ hậu Nhân Văn’’
Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
Nhân đọc bài viết của Hoàng Hưng, xin chỉnh cho thật
chính xác dăm điều riêng tư: từ vụ án VKB tôi phải đợi 6 năm, đến 1988, mới được
về Việt Nam trong một phái đoàn GS Đại Học Canada được Bộ Ngoại Giao tiếp đón.
Đến năm 1990, mặc dầu có giấy mời của Viện Nghiên cứu Kinh tế Quản lý Trung
ương, về đến Nội Bài thì tôi được lịch sự mời ra…với lý do gì đến nay tôi cũng
chưa biết, nhưng đoán là sau khi bức tường Berlin sụp đổ thì phải cấp tốc xây
hàng rào bảo vệ Hà Nội. Xin Visa vài lần sau đó mà không được, tôi biết thân
mình, nhưng khi Trịnh Công Sơn viết thư nói: “… mình hết thời gian rồi”, tôi có
gặp bà Đại Sứ Việt Nam thuở đó, xin và được phép về năm 1998. Như vậy, thời
gian tôi bị cấm cửa không đến 20 năm như Hoàng Hưng viết: chúng tôi chưa bao giờ
kể lể những chuyện này. Nhưng thôi, 20 hay 14, 15 năm thì cũng thế, vù đi một
cái là hết kiếp phù sinh.
Cái oái oăm là có những nghịch lý khó chấp nhận: khi
Sơn đến Quebec thăm tôi năm 1992, anh biết tôi ấm ức, bảo: “… cứ coi họ là những
đứa bé nghịch ngợm lấy chân di một đàn kiến…”. Ngẫm nghĩ, anh an ủi cả anh lẫn
tôi, tiếp: “… nhưng rồi đứa bé ấy cũng phải lớn lên chứ”. Lớn lên thế nào không
biết, nhưng lớn đủ để chính thức nói một lời xin lỗi những con kiến càng cỡ
Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… thì chưa!
Hoàng Hưng nhắc tập VKB có tranh minh họa của Bùi
Xuân Phái khiến tôi nhớ đêm Giáng Sinh năm 81. Cùng Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng,
và Văn Cao đến cà phê Lâm (toét), tôi đã giở từng tờ, lắng mình trong ánh đèn dầu
một tốí Hà Nội mất điện. Tập thơ thật đẹp, và Thơ thật hay. Bây giờ, nó lưu lạc
đâu rồi? Sau khi được “phục hồi”, Hoàng Cầm in VKB, giấy đen, mực lem nhem, gửi
cho tôi, đề “Gửi em để nhớ một năm đầy oan nghiệt nhưng cũng đầy hạnh phúc”.
Kèm VKB, anh cũng gửi tôi tập Ngựa Biển của Hoàng Hưng, dặn thơ hay phải đọc. Đấy,
cái tội độc nhất của chúng tôi là yêu Thơ. Nhưng có tội, bỏ tù hay bắt lưu đày,
cho chúng mày biết tội! Tội của những con kiến… Thế thôi, mà sao vẫn cứ chạnh
lòng!
N. M. H.
http://www.talawas.org/?p=24264 (18/9/2010)
Nhân đây xin tặng các bạn 1 tư liệu cực kỳ quý hiếm:
bản thảo VKB đầu tiên mà tác giả sửa chữa tứ tung (tang vật Vụ án mà một sĩ
quan AN mới copy tặng tôi): xem và tải xuống tại đây:
Ảnh: Sau mấy mươi năm, "bạn vụ án" gặp
nhau dưới chân Cụ Trãi!
No comments:
Post a Comment