Phạm Ngọc Minh Trang
Gửi
tới BBC từ TP.HCM
19 tháng 7 2019
Hôm
19/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã cho công luận
biết rằng nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã vi phạm vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông.
Tàu hải cảnh Trung Quốc trong vụ giàn khoan HD-981 hồi
năm 2014. HOANG DINH NAM
"Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được
xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển
1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên," bà Thu Hằng phát biểu,
theo truyền thông Việt Nam.
Bà Thu Hằng cho biết Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần
với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết
yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt
Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước
và ổn định, hòa bình ở khu vực.
Cũng qua tuyên bố của người phát ngôn Việt Nam,
chúng ta được xác nhận rằng các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp
tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt
Nam.
Diễn biến sự việc
Theo thông tin được đăng tải trên Twitter của
Ryan Martison(thuộc Đại học Quân sự Hải quân Hoa Kỳ - US Naval
War College), South
China Morning Post và Asia
Maritime Transparency Initiative (AMTI), hiện giờ trên Biển
Đông đang có hai diễn biết mới nhất và đáng chú ý nhất liên quan đến hoạt động
của các tàu Trung Quốc và phản ứng của Việt Nam.
§ Thứ nhất, từ ngày 3/7 đến 17/7/2019 tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 thuộc
quyền quản lý và sử dụng của chính phủ Trung Quốc đã đi vào vùng biển gần với
khu vực Bãi Tư Chính - Vũng Mây. Đi theo bảo vệ tàu này còn có ba tàu hải
giám của Trung Quốc được vệ tinh phát hiện, đặc biệt là tàu hải
giám trên 10.000 tấn ký hiệu 3901 và tàu dân quân biển Qiong Sansah Yu0014.
Trong lúc đó, cũng có sự xuất hiện của các
tàu cảnh sát biển mang cờ Việt Nam ở khu vực này, thực hiện các
hoạt động cần thiết để bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế của mình.
§ Thứ hai, Ryan Martinson cũng phát hiện ra từ ngày 18/6 đến nay tàu cảnh
sát biển được trang bị vũ khí hạng nặng ký hiệu 35111 của
Trung Quốc neo đậu cách Bãi Tư Chính 40 dặm về phía tây (hôm 12/7 tàu này có di
chuyển đến Bãi Chữ Thập và đã quay trở lại khu vực Bãi Tư Chính). Tàu này tuy
không trực tiếp tham gia vào việc đi theo bảo vệ tàu Hải Dương 8 nhưng thay vào
đó nó thực hiện các hành vi rất khiêu khích xung quanh dàn khoan Hakuryu-5, ở
lô 06-01 thuộc Dự án Nam Côn Sơn, liên doanh của Việt Nam với Nga.
Các thông tin này sau đó đã được người phát ngôn Bộ
Ngoại giao Việt Nam khẳng định hôm 19/7. Như vậy, trên Biển Đông hiện giờ đang
tồn tại tình trạng bất ổn.
Sự hiện diện của tàu khảo sát của Trung Quốc trên
lãnh thổ Biển Đông dẫn đến cuộc đối đầu. CHINA GEOLOGICAL SURVEY
Vùng biển tranh chấp?
Tàu Hải Dương 8 cùng với các tàu bảo vệ của nó, và
tàu hải cảnh Trung Quốc Haijing 35111 đã có các hoạt động trong khu vực Tư
Chính - Vũng Mây, gần với lô 06-01 của Việt Nam. Đây không phải là vùng biển
tranh chấp. Đây là vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Vùng biển tranh chấp, hiểu theo nghĩa thông thường của
Luật quốc tế, có nghĩa là các quốc gia có biển gần kề hoặc đối diện nhau có yêu
sách vùng biển của mình chồng lấn lên nhau, đặc biệt là chồng lấn về vùng đặc
quyền kinh tế hay thềm lục địa. Vị
trí xảy ra các vụ việc hiện tại cách bờ biển Việt Nam khoảng 200 hải lý.
Và theo Công ước Luật Biển 1982 các quốc gia ven biển có quyền yêu sách vùng đặc
quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở (đường cơ sở xa hơn đường bờ biển
về phía hướng ra biển). Do đó, có thể khẳng định, vị trí này là nằm hoàn toàn
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Vị trí này không thể là vùng đặc quyền kinh tế hay
thềm lục địa mở rộng của Trung Quốc chồng lấn lên của Việt Nam. Theo phán quyết
của Toà Trọng tài, phụ lục VII của vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc, Toà
khẳng định Trung Quốc không có quyền lịch sử tại Biển Đông và, quan trọng nhất,
các thực thể tại quần đảo Trường Sa không thể có các vùng biển rộng hơn 12 hải
lý xung quanh nó, hay thậm chí không có việc cả quần đảo Trường Sa tạo ra một
vùng biển rộng lớn xunh quanh nó. Do đó, nếu Trung Quốc cho rằng khu vực này nằm
trong vùng thuộc quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán của Trung Quốc từ các thực
thể tại Trường Sa, thì đây là một lập luận hoàn toàn không có cơ sở trong Luật
quốc tế.
Như vậy, đây
không phải là vùng biển tranh chấp. Đây là một vụ việc mâu thuẫn thực tế giữa
các hoạt động của các tàu (hay các quốc gia) trong vùng biển đặc quyền kinh tế
của Việt Nam.
Xuất bản 18 thg 7, 2019
Quy định của Luật biển quốc tế về vùng đặc quyền kinh tế
Bởi vì các sự việc này đều xảy ra tại vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam, cho nên cần phải soi chiếu tính chất pháp lý của các hành
động trên của cả hai nước, Trung Quốc và Việt Nam, qua chế định về vùng đặc quyền
kinh tế của luật pháp quốc tế; trong đó, cơ sở pháp lý quan trọng nhất là Công
ước Luật Biển 1982 (UNCLOS) mà cả Trung
Quốc và Việt Nam đều là thành viên.
Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng biển chỉ xuất hiện
từ khi UNCLOS ra đời, và các quốc gia ven biển phải chính thức tuyên bố mới được
hưởng các quy chế pháp lý của vùng biển dài 200 hải lý tính từ đường cơ sở này.
Việt Nam đã tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế của mình vào ngày 12/5/1977,
và cũng đã cụ thể hoá trong Luật
Biển Việt Nam năm 2012. Như vậy, có thể thấy Việt Nam đã hoàn
thành các nghĩa vụ pháp lý để có thể xác lập quyền chủ quyền và quyền tài phán
tại vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Theo Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam có quyền
chủ quyền (sovereign rights) đối với các hoạt động thuộc về khai thác
tài nguyên thiên nhiên (từ động vật sống đến khoáng sản) tại khu vực biển đặc
quyền kinh tế. Các quyền này là độc quyền; tức là không một quốc gia nào khác
có thể thực hiện các hoạt động kể trên trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc
gia, ngoài chính quốc gia đó, hoặc được quốc gia này cho phép. Tuy nhiên, các
tàu thuyền của các quốc gia khác được tự do đi lại trong vùng biển này.
Ngoài ra, Việt Nam còn có quyền tài phán
(jurisdiction) đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học biển trong
vùng đặc quyền kinh tế của mình. Theo đó, việc tiến hành nghiên cứu khoa học biển
trong vùng đặc quyền kinh tế phải được sự cho phép của Việt Nam.
Tiếp đến, Việt Nam còn có quyền thực thi các hoạt động
hành pháp và tư pháp như khám xét, điều tra, bắt giữ và tiến hành các hoạt động
tố tụng mà Việt Nam cảm thấy là cần thiết để đảm bảo các quy định và pháp luật
của mình phải được tuân thủ. Đây là các quyền tài phán mà công ước cho phép các
quốc gia ven biển thực hiện để bảo vệ quyền chủ quyền của mình trong vùng đặc
quyền kinh tế.
Như vậy, có thể thấy Công ước Luật Biển 1982 có các
điều khoản và quy định khá chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của các quốc gia ven biển
trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Điều này cũng phù hợp với tinh thần Hội
nghị Luật biển lần 3 của Liên Hợp Quốc soạn thảo ra UNCLOS, trong đó các quốc
gia đang phát triển đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình trước các cường quốc biển.
Khi đó, chính Trung Quốc cũng là quốc gia tích cực trong việc đấu tranh này. Và
cũng chính Trung Quốc đã dựa trên các cơ sở pháp lý trên mà xua đuổi
tàu Impeccable của Mỹ ra khỏi vùng nước của Đảo Hải Nam khi
tàu này thực hiện khảo sát tại đây vào năm 2009.
Các hoạt động của tàu Trung Quốc tại vùng biển đặc
quyền kinh tế của Việt Nam nếu nhằm mục đích thăm dò trữ lượng dầu khí ở đáy
vùng đặc quyền kinh tế, cũng là vùng thềm lục địa của Việt Nam, đã xâm phạm vào
quyền chủ quyền của Việt Nam. Bên cạnh đó, nếu hoạt động thăm dò địa chất nhằm
phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học, thì dù dưới mục đích hoà bình hay không,
cũng đã xâm hại đến quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế của
mình.
Ngoài ra, hiện giờ chắc chắn nó đã làm ảnh hưởng đến
hoà bình trong khu vực biển này (bằng chứng là sự bám rượt của các tàu chấp
pháp mỗi bên), vi phạm nghiệm trọng nghĩa vụ sử dụng biển một cách hoà bình
theo Luật quốc tế. Nó còn ảnh hưởng đến hoạt động khác như tự do đi lại và hoạt
động khai thác thác kinh tế của Việt Nam cùng các quốc gia khác (dưới sự cho
phép của Việt Nam) tại đây.
Asia Maritime Transparency Initiative mô tả tàu
Trung Quốc Haijing 35111 quấy rối hai tàu Sea Meadow 29 và Crest Argus 5 phục vụ
giàn khoan Hakuryu-5. ASIA MARITIME TRANSPARENCY INITIATIVE
Giải pháp cho Việt Nam
Sự việc diễn ra vẫn chưa đến mức tranh chấp căng thẳng
cực độ. Hiện giờ, bất chấp các hoạt động khiêu khích của Trung Quốc, Việt Nam vẫn
đang hết sức bình tĩnh và kiên trì không sử dụng vũ lực. Đây là một hành động hết
sức khôn ngoan và sáng suốt của Việt Nam. Bởi vì, để đối phó với Trung Quốc, quốc
gia luôn biết cách tính toán để viện cớ 'đóng vai nạn nhân', thì các hành vi
trái với pháp luật như sử dụng vũ lực sẽ là cái cớ để Trung Quốc lấn tới.
Việt Nam có thể lựa chọn biện pháp hoà bình để giải
quyết. Từ đàm phán trực tiếp, trao đổi công hàm cho đến nêu vấn đề trong các hội
nghị quốc tế, vận dụng cơ chế làm việc của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là
thành viên, trong đó đặc biệt quan trọng là ASEAN, để kêu gọi sự ủng hộ của bạn
bè quốc tế.
Ngoài ra, Việt Nam có thể cân nhắc sử dụng cơ chế
hoà giải bắt buộc đối với các vấn đề liên quan đến nghiên cứu khoa học theo phụ
lục V Công ước Luật Biển 1982. Hay việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bắt
buộc ở phụ lục VII của Công ước về các vấn đề pháp lý liên quan khác trong hai
sự kiện trên.
Trước tình hình Trung Quốc vô trách nhiệm đối với
nghĩa vụ quốc tế và sử dụng các tiểu xảo để trục lợi, Việt Nam cần phải chủ động
trong việc giải quyết các tranh chấp tại đây.
-----------------------
Bài
viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả Phạm Ngọc Minh Trang hiện
là giảng viên Luật biển quốc tế tại Đại học Quốc gia TP.HCM và là cộng sự của Dự
án Đại Sự Ký Biển Đông.
---------------------
Tin
liên quan
16 tháng 7 2019
Một nhà quan sát bình luận rằng trong vụ đối đầu ở
bãi Tư Chính, cả Việt Nam và Trung Quốc "đều không muốn leo thang thành
xung đột".
19 tháng 7 2019
No comments:
Post a Comment