Saturday, 27 July 2019

VÌ SAO PHẢI CẤP THIẾT BẢO TỒN NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM? (RFA)




RFA
2019-07-25

Bài 1: Tiếng Việt được vinh danh trước mối họa bị “hỗn loạn”

Một dự án có tên “Không gian Tôn vinh Việt ngữ” vừa được phổ biến trên truyền thông mạng xã hội trong những ngày trung tuần tháng 7 với lời kêu gọi cộng đồng người Việt trong và ngoài nước cùng chung tay bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của người Việt Nam.

Đài RFA ghi nhận thông tin vừa nêu, đồng thời tìm hiểu vì sao lời kêu gọi như thế được gióng lên, kể cả phía Chính phủ Việt Nam qua phát biểu của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam với giới truyền thông quốc nội hồi năm 2016 khi ông tham dự Hội thảo “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các phương tiện thông tin đại chúng”, rằng tất cả mọi người có trách nhiệm giữ gìn tiếng Việt.

Dự án Tôn vinh tiếng Việt

Chủ nhiệm Ban Cổ động Xây dựng không gian tôn vinh chữ quốc ngữ và tiếng Việt, Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, từng giảng dạy tại Đại học Liège ở Bỉ và hiện là Viện trưởng Viện vinh danh chữ Quốc ngữ & Bảo tồn tiếng Việt-Đại học Duy Tân ở Đà Nẵng, chia sẻ với RFA rằng: Dự án “Không gian Tôn vinh Việt ngữ” được thành hình trong khoảng thời gian cuối năm 2017, khi có một sự kiện xảy ra ở Việt Nam là Phó Giáo sư Bùi Hiền đưa ra đề nghị đổi cách viết chữ quốc ngữ và theo cách viết do Phó Giáo sư Bùi Hiền soạn thảo làm cho tiếng Việt giống tiếng Trung Quốc được phiên âm.

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng cho biết Dự án “Tôn vinh Không gian Việt ngữ” còn ra đời trong bối cảnh mà ngôn ngữ tiếng Việt gặp phải nhiều điều đáng lo ngại và mục đích tôn vinh chữ quốc ngữ và tiếng Việt, nhằm nhắc nhở mỗi người Việt có bổn phận gìn giữ và bảo tồn tiếng nói của dân tộc Việt Nam.

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng nhấn mạnh:
“Chữ Quốc ngữ rất là đẹp, rất là hay, rất là cao quý của sự giao lưu văn hóa Âu-Á. Và phải nói rằng là sau khi sử dụng chữ Quốc ngữ thì nước Việt Nam trở thành ‘đồng văn’ với các nước Pháp, Tây Ban Nha, Mỹ, Anh, Nga…tất cả những nước dùng ký tự Latin. Đối với Việt Nam như vậy là ‘đồng văn’. Qua việc dùng chữ Quốc ngữ, Việt Nam đã ‘thoát Trung’ và đi vào thế giới văn minh.”

Ngược dòng lịch sử, chữ Việt được ghi nhận xuất hiện từ năm 1625 và là công trình sáng tạo của nhiều người nhằm mục đích ban đầu chỉ để truyền đạo Ki-tô giáo và bắt đầu phổ biến vào thế kỷ thứ 17. Một trong những người được vinh danh nhiều nhất là Giáo sĩ  người Pháp Alexandre de Rhodes. Tuy nhiên, các giáo sĩ Bồ Đào Nha được cho là có công lớn trong việc sáng tạo ra chữ Việt, viết theo ký tự Latin. Trong đó, giáo sĩ Francesco de Pina được cho là “thầy tiếng Việt” vào thời điểm đó. Hai giáo sĩ Bồ Đào Nha Gaspar d’ Amaral và Antonio Barbosa là hai người đầu tiên viết từ điển Việt-Bồ-Latin. Những quyển từ điển Việt-Bồ-Latin này được Giáo sĩ Alexandre de Rhodes mang về Châu Âu, sau khi hai giáo sĩ tác giả qua đời và đến năm 1651, cuốn từ điển Việt-Bồ-Latin lần đầu tiên xuất hiện trên thế giới (theo tài liệu “Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ, của tác giả Phạm Văn Hường).

Cuốn từ điển Việt-Bồ-Latin lần đầu tiên xuất hiện trên thế giới vào năm 1651. Courtesy: Facebook Văn hóa & Nghệ thuật Việt Nam, RFA Edited

Sau một thế kỷ ra đời và phát triển của chữ Việt, một nghị định được ban hành “về việc dùng tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin”, do Thống đốc Nam kỳ  Lafont ký vào ngày 06/04/1878. Sau đó, vào ngày 01/01/1882, Chính quyền thực dân Pháp đã buộc người Việt ở Nam kỳ phải dùng chữ quốc ngữ vì là thứ chữ dễ học và nhiều tiện lợi hơn so với chữ Nho. Và theo một số tài liệu lịch sử ghi chép lại thì mốc thời gian ngày 01/01/1882, người Việt chính thức sử dụng chữ viết từng được gọi là “chữ quốc ngữ” hay “tiếng An Nam dùng chữ Langsa” sau hàng thế kỷ sử dụng chữ Nho và chữ Nôm.

Trở lại dự án “Tôn vinh Không gian Việt ngữ”, giáo sư Nguyễn Đăng Hưng cho biết, dự án có hai phần: thứ nhất là đặt bia tưởng niệm Giáo sĩ Alexandre de Rhodes tại một nghĩa trang ở Iran nơi ông yên nghỉ và thứ hai là xây dựng một không gian tri ân và tưởng niệm các giáo sĩ người nước ngoài và những trí sĩ người Việt Nam, đã có công trong việc sáng tạo và phổ biến chữ quốc ngữ, trong khuôn viên rộng 1,85 héc-ta ở Thanh Chiêm, Quảng Nam cách phố cổ Hội An 10 km.

Chủ nhiệm Ban Cổ động dự án, Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng nói về kế hoạch xây dựng của dự án:
“Chúng tôi muốn làm làm một không gian tôn vinh chữ quốc ngữ và tiếng Việt. Có nghĩa là sẽ có những không gian tạc tượng, những con đường đi, những cây bóng mát, những vườn hoa và trong đó ẩn hiện những tượng của những người đã tác tạo ra Chữ Quốc ngữ, của những người đã phổ biến Chữ Quốc ngữ cho người Việt hay những người đã dùng Chữ Quốc ngữ để phổ biến những quan điểm dân chủ, yêu nước thời Duy Tân. Ngoài ra, chúng tôi cũng vinh danh tiếng Việt bằng cách tạc tượng những nhà thơ như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…là những người đã giúp cho Tiếng Việt càng ngày càng phong phú như ngày nay, ngay cả những nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn…Tất cả tụ tập lại trong một không gian có vẻ hao hao giống với Vườn Luxembourg bên Pháp.”

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng bên bia tấm bia tưởng niệm Giáo sĩ Alexandre de Rhodes ở Iran. Hình chụp hồi tháng 05/18. Courtesy: Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng cung cấp

Tiếng Việt cần được bảo tồn

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng cho biết dự án có sự tham dự của nhiều trí sĩ người Việt trong và ngoài nước với mong muốn dự án sẽ được hoàn thành nhanh chóng. Tùy vào khả năng tài chính huy động được từ cộng đồng mà Ban cổ động sẽ sớm đưa dự án vào thực tế, để biến không gian tại Thanh Chiêm, Quảng Nam không chỉ là nơi để tưởng niệm mà còn là nơi sẽ diễn ra nhiều hoạt động nhằm bảo tồn và góp phần phát triển tiếng Việt trong bối cảnh ngôn ngữ tinh hoa và nền văn hóa của người Việt Nam đang dần bị rơi vào tình trạng đáng báo động.

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng nêu lên ghi nhận của ông về ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay:
“Tình trạng sử dụng Tiếng Việt hiện nay có nhiều điều đáng lo ngại. Báo, đài dùng tiếng Việt pha lẫn với tiếng nước ngoài một cách rất lộn xộn, ngay cả những từ ngữ được sử dụng trong thể thao hoặc đặc biệt trong tin học chưa được ổn định gì cả.”

Từ Hoa Kỳ, Giáo sư Nguyễn Ngọc Yến, người từng giảng dạy tiếng Việt tại Bộ Ngoại giao Mỹ cũng lên tiếng về tình trạng tiếng Việt “trong thời hiện đại” ở Việt Nam:
“Tiếng Việt trước năm 1975 thì tôi công nhận rằng lúc đó rất vững và rất chính xác, hơn nữa đời sống ngôn ngữ lúc đó có vẻ rất là văn học và khoa học. Còn sau này ở Việt Nam thì tiếng Việt đặt ra bừa bãi lắm.”

Hồi đầu tháng 7 năm 2019, Nhà báo Mạnh Kim đăng tải một bài viết có tựa đề “Hãy khóc cho tiếng Việt!” trên tài khoản Facebook cá nhân của ông và được rất nhiều người quan tâm. Nhà báo Mạnh Kim đã viết và RFA trích lại nguyên văn “Cái gọi là ‘rất phản cảm, thiếu văn hóa và thiếu thẩm mỹ’ đang hiện diện tràn lan trong việc sử dụng tiếng Việt và không chỉ với một từ mà với vô số từ và vô số câu”. Trong bài viết, Nhà báo Mạnh Kim nêu lên tình trạng ngôn ngữ tiếng Việt đang bị ghép từ vô tội vạ, như từ “cặp đôi” hay “fan hâm mộ” và nhiều “khái niệm” được đặt ra khiến ngữ nghĩa bị méo mó, đơn cử như “trạm thu phí” đổi thành “trạm thu giá” và “không chỉ sai lệch chữ và nghĩa mà tiếng Việt ngày nay còn méo mó cấu trúc, ví dụ người Việt Nam không thấy lạ khi nói “Đội mũ bảo hiểm đối với người đi xe máy”, mà thay vì phải nói một cách bình thường là “Người đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm”…

Nhà báo Mạnh Kim giải thích thêm với RFA:
“Quy luật phát triển của ngôn ngữ là nó liên tục thay đổi, liên tục chuyển động mà nó không được kiểm soát thì sẽ đi vô tình trạng rất là xấu. Nó sẽ tiếp tục phát triển, phát triển rất dữ dội như là bản chất của ngôn ngữ nói chung, nhưng với tiếng Việt thì nó sẽ phát triển theo kiểu ‘hoang dã’. Nguy hiểm ở chỗ là những từ sai được dùng quá quen rồi thành ra quán tính cứ bật ra là nói, cho nên càng ngày đi tới mức hỗn loạn thêm chứ không thể nào dừng lại.”

Một số nhân sĩ trí thức mà Đài RFA tiếp xúc như Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Giáo sư Nguyễn Ngọc Yến và Nhà báo Mạnh Kim cùng bày tỏ rằng rất cần thiết và cấp bách để có những hành động cụ thể và thiết thực nhằm bảo tồn ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam trước khi quá muộn.

*
*
RFA
26/07/2019

Bài 2: Tình trạng tiếng Việt bị "hỗn loạn" và những giải pháp bảo tồn

Một dự án có tên “Không gian Tôn vinh Việt ngữ” vừa được phổ biến trên truyền thông mạng xã hội trong những ngày trung tuần tháng 7 với lời kêu gọi cộng đồng người Việt trong và ngoài nước cùng chung tay bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của người Việt Nam.
Đài RFA tiếp tục gửi đến phần cuối của loạt bài ghi nhận về thực trạng cũng như giải pháp nào cho tiếng Việt trước sự kêu gọi cấp thiết cần bảo tồn ngôn ngữ của người Việt Nam, kể cả từ phía Chính phủ Hà Nội.


“Hỗn loạn và phát triển hoang dã”

Qua bài ghi nhận trong phần I, một số những nhân sĩ trí thức mà Đài RFA tiếp xúc để tìm hiểu vì sao ngôn ngữ của người Việt Nam cần cấp thiết phải bảo tồn, chúng tôi được nghe các nhận xét tương đồng cho rằng tiếng Việt cũng giống như các ngôn ngữ khác cần có sự thay đổi liên tục theo quy luật phát triển của ngôn ngữ; tuy nhiên tiếng Việt lại đang bị rơi vào tình trạng đáng lo ngại vì được sử dụng khá bừa bãi.

Nhà báo Mạnh Kim trong phần trả lời với RFA còn nhấn mạnh rằng tiếng Việt được sử dụng ở Việt Nam đang bị “hỗn loạn” và phát triển theo hướng “hoang dã” khi ông chia sẻ về bài viết của mình với nhan đề “Hãy khóc cho tiếng Việt!” được đăng tải trên trang Facebook cá nhân vào hôm mùng 2 tháng 7.

Phó Giáo sư-Tiến sĩ Hoàng Dũng, một nhà ngôn ngữ học giảng dạy tại Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh cũng bày tỏ với RFA về quan điểm của ông:
“Người ta không hiểu rồi dùng từ ngữ bậy bạ thì phải nói rằng rất phổ biến và rất đau lòng. Đặc biệt tình trạng báo chí và nhất là trình độ tiếng Việt của một số ban biên tập và một số tờ báo có lượng độc giả lớn phải nói rằng không được tốt lắm, cho nên đầy rẫy lỗi sai. Ngày xưa truyền thông đại chúng không mạnh mẽ như bây giờ cho nên những cái lỗi không tạo ra một làn sóng như hiện nay.”

Cựu Biên tập viên Mặc Lâm của Ban Việt ngữ, Đài RFA cũng lên tiếng nhận xét tiếng Việt đang dần bị mất đi tính sinh động của ngôn ngữ vì câu chữ bị “tối nghĩa”:
“Tôi cũng nhận thấy một điều là nếu sử dụng tất cả những kiểu chữ như ở trong nước thường dùng thì sẽ có một vấn nạn mà chúng ta sẽ gặp sau này, có nghĩa là tiếng Việt từ từ sẽ bị ‘u tối hóa’ những chữ nghĩa mà những người dân sử dụng chữ đi theo những nhà báo trong nước, họ dùng từ không chính xác và họ dùng từ một cách tùy tiện. Họ sáng tạo ra những cụm từ rất tùy tiện có thể nói là không ai hiểu được, nhưng người dân cũng vô tình nghe theo và sau đó sử dụng theo thì tiếng Việt sẽ bị dẫn vào tình trạng không phải là không trong sáng mà rất là khó hiểu và trở thành rất kỳ dị. Chẳng hạn như từ vừa xuất hiện mới đây là ‘độ ta không độ nàng’.”

Theo quan sát của giới ngôn ngữ học và các nhà báo thì truyền thông quốc nội đang đóng góp một vai trò rất lớn trong việc truyền bá tiếng Việt. Bên cạnh đó, một yếu tố nữa cũng liên quan và tạo ảnh hưởng quan trọng đến ngôn ngữ tiếng Việt là giáo dục.

Nhà báo Mạnh Kim đưa ra nhận định của ông:
“Đó là do hậu quả tất yếu của giáo dục, tức là trong rất nhiều năm kể từ sau năm 1975 thì giáo dục tại Việt Nam, đặc biệt là trong văn học mang tính tuyên truyền nhiều quá, chỉ có một số vốn từ cứ lặp đi lặp lại cho nên vô hình trung làm cho ngôn ngữ tiếng Việt bị nghèo nàn đi.”

Nhà báo Mạnh Kim cho rằng có một mắc xích không thể tách rời là khi những người làm việc trong lĩnh vực truyền thông ở Việt Nam, họ sống trong môi trường giáo dục mà tiếng Việt không được đề cao đúng mức và dùng sai cho nên mang lại hậu quả xấu cho xã hội.

Cùng với nhà báo Mạnh Kim, một vài nhà báo trong và ngoài nước mà Đài RFA có dịp trao đổi còn khẳng định các sinh hoạt văn hóa và âm nhạc cũng góp phần không nhỏ, bên cạnh giáo dục và truyền thông, tác động đến sự “hỗn loạn” của tiếng Việt đương thời.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam kêu gọi giới nhà báo rèn kĩ năng để giữ gìn sự trong sáng đi đôi với phát triển, làm mới tiếng Việt tại Hội thảo "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các phương tiện truyền thông đại chúng", diễn ra hồi tháng 11/16. Courtesy: Ảnh chụp màn hình vov.vn

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, khi ông tham dự Hội thảo khoa học quốc gia “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các phương tiện truyền thông đại chúng”, diễn ra hồi đầu tháng 11 năm 2016, tại Hà Nội, đã phát biểu rằng việc giữ gìn tiếng Việt là nhiệm vụ được pháp luật quy định và là trách nhiệm của tất cả mọi người, đặc biệt là của giới nhà báo, nhà giáo và nhà văn. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam còn kêu gọi những người làm việc trong ngành báo chí phải rèn kĩ năng để giữ gìn sự trong sáng đi đôi với phát triển, làm mới tiếng Việt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập với thế giới.

Giải pháp nào để bảo tồn tiếng Việt?

Lời kêu gọi mỗi người Việt Nam có trách nhiệm giữ gìn tiếng Việt của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam từng được ông Phạm Văn Đồng, trong vai trò Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phát động phong trào “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” cách nay hơn 5 thập niên, vào năm 1966. Thế nhưng những nhân sĩ trí thức trong nhiều năm qua cứ phải gióng lên những hồi chuông báo động về bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của người Việt Nam bởi vì không ít trong số họ không nhìn thấy được Chính phủ Hà Nội đã và đang làm được gì qua việc hô hào liên quan giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Tiến sĩ Hoàng Dũng giải bày:
“Nói là nói vậy thôi vì Việt Nam là cường quốc về nghị quyết, cường quốc về khẩu hiệu thành ra họ (Chính phủ) nói thế thôi chứ không làm gì được hết.”

Nhà báo Mặc Lâm còn viện dẫn một nguyên nhân chủ quan mà tình trạng tiếng Việt sẽ không thể nào được “trong sáng”:
“Tôi nghĩ còn một điều quan trọng nữa là từ ngữ trong những văn bản phát hành ra toàn quốc mà báo chí lưu truyền thì đa số đều có vẻ ‘chính trị hóa’ từ ngữ của tiếng Việt từ Ban Tuyên giáo Trung ương. Từ những nghị quyết hay văn bản mà Ban Tuyên giáo Trung ương đưa ra cho báo chí có phần nào ảnh hưởng và tuyên truyên lây lan đến suy nghĩ của người làm báo và họ bị sự khống chế vô hình làm cho họ không dám sáng tạo chữ nghĩa cho tiếng Việt, mà đi theo một lối mòn mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Tuyên giáo đưa ra. Vì vậy tôi cho rằng không có một khả năng nào để kêu gọi báo chí Việt Nam trong sáng tiếng Việt bởi bản thân họ không chịu rèn luyện, không chịu tư duy và nhất là không có sáng tạo thì làm sao mà tiếng Việt trong sáng được trong khi Ban Tuyên giáo vẫn đưa ra những từ ngữ hàng bảy mươi mấy năm nay?”

Một đoạn trong bài viết "Hãy khóc cho tiếng Việt!" của Nhà báo Mạnh Kim đăng trên Facebook ngày 02/07/19. Courtesy: Ảnh chụp màn hình Facebook Manh Kim

Mặc dù vậy, những nhân sĩ trí thức quan tâm đến tình trạng tiếng Việt hiện nay có đồng tư tưởng là phải cấp thiết bảo tồn chữ quốc ngữ, tiếng Việt trước khi quá muộn.

Trả lời câu hỏi của RFA rằng có những giải pháp nào để chấn chỉnh hay ngăn chặn tình trạng tiếng Việt ngày càng bị “hỗn loạn” hơn, Nhà báo Mạnh Kim nêu lên quan điểm của ông:
“Muốn chấn chỉnh lại thì trước truyền thông phải làm đầu tiên. Còn về giáo dục thì vấn đề lớn quá mà giáo dục hiện nay ở Việt Nam nhếch nhác như thế và những người cầm chịch trong ngành giáo dục lại không được như kỳ vọng của người dân thì làm sao mà sửa bây giờ? Tôi cho rằng cần phải có một ủy ban, một hội đồng riêng về tiếng Việt cũng giống như Viện Hàn lâm để bảo vệ, gìn giữ và phát triển ngôn ngữ như bên Pháp có một cơ quan như vậy. Đối với Việt Nam bây giờ điều đó thật sự là quan trọng. Việt Nam cần phải có một nơi như vậy, một tổ chức như vậy. Việt Nam có Viện Ngôn ngữ đó nhưng viện này đang làm gì thì mình không rõ. Trong khi tiếng Việt đang bị lộn xộn như vậy mà chưa hề thấy có một ý kiến của một vị nào đang làm việc trong Viện Ngôn ngữ hoặc ông Chủ tịch Viện Ngôn ngữ lên tiếng.”

Trong khi đó, Nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng cho rằng ông không quá bi quan khi ở Việt Nam vẫn có những hồi chuông cảnh báo về sự bảo tồn ngôn ngữ như các quốc gia khác trên thế giới. Tiến sĩ Hoàng Dũng nói rằng mặc dù chỉ mỗi ngành giáo dục không thể giải quyết được hoàn toàn vấn đề; nhưng là người làm việc trong lĩnh vực này, ông hy vọng ngành giáo dục ý thức được vấn đề của tiếng Việt hiện nay và tìm cách để thay đổi cho việc giảng dạy tiếng Việt có hiệu quả hơn dù việc làm đó chỉ là từ từ nhưng phải làm thì dần dần sẽ có kết quả.

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Chủ nhiệm Ban Cổ động Xây dựng không gian tôn vinh chữ quốc ngữ và tiếng Việt ở Thanh Chiêm, Quảng Nam cho biết hoài bão của những người tham gia Dự án “Không gian Tôn vinh Việt ngữ”:
“‘Không gian Tôn vinh Việt ngữ’ sẽ là một không gian để người Việt tổ chức những sự kiện về văn hóa Việt, thí dụ những buổi ngâm thơ, hát chèo, hát cải lương, hát bội; những buổi thi câu đối, thi nói láy…Tất cả những sinh hoạt liên quan tới tiếng Việt. Rồi trong không gian đó sẽ có một thư viện đặt để những tài liệu liên quan đến tiếng Việt, nhất là chữ quốc ngữ để cho các bạn trẻ có thể tham khảo hay chuẩn bị luận văn ra trường…Chúng tôi sẽ liên lạc với những chỗ tàng trữ những sách vở để xin bản sao chuyển về từ những thư viện ở Pháp, ở Mỹ…mà có quan tâm tới chữ quốc ngữ, tiếng Việt. Chúng tôi mong mỏi được liên lạc với họ và có thể làm chỗ kết nối của họ tại Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi cũng sẽ có một ban tu thư để theo dõi sự phát triển của tiếng Việt, để bảo tồn sự trong sáng của tiếng Việt…Chúng tôi mong mỏi tập hợp được một ban tu thư gồm những nhà văn tâm huyết, những nhà ngôn ngữ học lưu lâm về chuyện này để chúng tôi có thể lập ra một trang web nhằm để đưa ra những sáng kiến, những đề nghị, tu chỉnh những vấn đề nên có…”

Giáo sư Nguyễn Ngọc Yến, cựu giảng viên tiếng Việt tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, là người đã soạn thảo một bộ sách học tiếng Việt  theo phương pháp Nhóm âm cũng cho biết mong muốn của bà trong việc bảo tồn tiếng Việt:
“Tôi dự định làm một hội theo kiểu học viện (Academy), không phải đến mức đó nhưng là một hội nhỏ thôi. Tôi cũng muốn kêu gọi tất cả mọi người cùng tham gia để góp ý cái gì nên dùng và cái gì không nên dùng trong tiếng Việt, chứ còn cứ để như vậy hoài thì sẽ thành một bãi rác trong văn học của Việt Nam.”

Nhà báo Mặc Lâm chia sẻ ông ủng hộ những việc làm nhằm bảo tồn và phát triển tiếng Việt như của nhóm thực hiện Dự án “Không gian Tôn vinh Việt ngữ” mà Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng làm Chủ nhiệm Ban Cổ động hay như dự định của Giáo sư Nguyễn Ngọc Yến. Tuy nhiên, Nhà báo Mặc Lâm cho rằng với những nỗ lực của cộng đồng người Việt trong nước và hải ngoại sẽ là rất khiêm tốn khi so với một hệ thống quản lý và truyền thông quốc nội của Việt Nam, do đó bản thân ông vẫn lo ngại cho viễn cảnh ngôn ngữ của dân tộc Việt rồi sẽ đi về đâu.

Còn giáo sư Nguyễn Đăng Hưng tâm tình với RFA rằng dù ông có kỳ vọng lớn về những người Việt cùng nhau ngồi lại, vươn lên những dị biệt, thành kiến sau chiến tranh trong quá khứ để thực hiện chung với nhau vì mục đích bảo tồn chữ quốc ngữ tiếng Việt, và bảo tồn văn hóa, đất nước, tương lai dòng giống Việt; thế nhưng ở tuổi đời “gần đất xa trời” ông không biết có đủ thời gian để thực hiện một trong những ước nguyện sau cùng này hay không.


---------------------------

XEM THÊM 



Thứ bảy, 27/7/2019, 22:23 (GMT+7) 

Năm 2001, tôi học về Computer Assisted Language Learning  (CALL, dạy học ngoại ngữ với sự hỗ trợ của máy tính) tại Úc. Về nước và làm việc tại trung tâm Truyền thông đa phương tiện của Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi được đề nghị nói chuyện và viết tham luận về vấn đề này.

Háo hức và đầy nhiệt huyết, tôi cứ tưởng những gì mình đưa ra được đón nhận. Nhưng tôi đã sốc. Sếp của tôi, vốn là giáo viên tiếng Pháp, khó chịu ra mặt vì tôi "trộn" tiếng Anh vào trong bài viết và bài nói chuyện của mình. Ông phê bình tôi bằng những từ nặng lời như "lai căng", "thích thể hiện", "khoe học ở Tây về".

Tôi sốc vì không một tính từ nào ông miêu tả đúng tinh thần của tôi. Tôi dùng các từ đó vì không tìm được các từ trong tiếng Việt có nghĩa hoặc hàm ngôn tương đương. Tôi mang ấm ức chia sẻ với các anh kỹ sư công nghệ thường lui tới trung tâm tôi làm việc. Các anh công nhận là có một số từ tiếng Anh về công nghệ thông tin được ưa chuộng và dùng phổ biến ở Việt Nam như chat, internet, log in, log out, connection... tuy nhiên, đa phần các từ này và các từ tiếng Anh tôi dùng đều có từ tương đương trong tiếng Việt. Ở thời điểm đó, tôi không đồng tình vì thấy các từ tiếng Việt tương đương họ đưa ra không diễn tả được trọn ý mình.

Dần dà, ở Việt Nam lâu hơn, tôi cảm thấy thoải mái hơn với các từ trước đây tôi không biết hoặc không thích sử dụng: kích hoạt tài khoản, đăng nhập, giao diện... Cũng từ đó tôi quan sát và thấy rằng xu hướng chèn tiếng Anh trong giao tiếp ngày càng phổ biến trong giới trẻ, kể cả khi người nói không thạo ngoại ngữ này. Tiếng Anh đôi khi được chèn vào như một thứ "mốt giao tiếp" để sành điệu. Tôi đã bật cười nhiều lần khi nghe mãi mà không luận ra các bạn trẻ nói gì. Lúc đó tôi đã hiểu vì sao ông sếp nói tôi "lai căng" và "thích thể hiện".

Tôi bắt gặp khá nhiều người có "bệnh" này, nhẹ thì nói tiếng Việt kèm ngoại ngữ vì không tìm được từ tương đương, nặng thì dù nghe tiếng Việt vẫn hiểu nhưng khó thể hiện hoặc không nói được bằng tiếng Việt. Tôi gọi đây là bệnh "ngọng tiếng mẹ đẻ".

Ngọng tiếng mẹ đẻ cũng là vấn đề xảy ra với rất nhiều trẻ em người Việt ở nước ngoài. Trẻ có thể được sinh ra ở Việt Nam, nói sõi tiếng Việt trước khi ra nước ngoài sống, nhưng do quá trình tiếp xúc ở trường học và ngoài xã hội, rất hiếm nhu cầu sử dụng tiếng Việt. Hơn nữa, tiếng Việt được coi là tiếng của dân tộc thiểu số (minority group) - không được trọng thị trong cộng đồng, nhiều trẻ chỉ thích nói ngôn ngữ bản địa để dễ hòa nhập. Nếu bố mẹ không kiên trì giúp con duy trì tiếng Việt ở nhà, con sẽ dần dà chỉ muốn giao tiếp bằng ngôn ngữ thân quen nhất.

Tôi từng chứng kiến những màn nói chuyện giữa bạn bè tôi và con cái họ ở Đức và Úc. Bố mẹ nói tiếng Việt, con nói tiếng Đức hoặc tiếng Anh. Anh bạn tôi có lúc phát điên vì động viên con thế nào cháu cũng không chịu nói tiếng Việt trong khi vốn tiếng Đức của anh có hạn, không hiểu hết con nói gì. Nhiều lúc bố con to tiếng.

Nhưng vấn đề không còn chỉ là của trẻ Việt ở nước ngoài mà xảy ra với rất nhiều trẻ em trong nước. Đáng nói hơn, cái sự ngọng ấy đôi lúc phải trả bằng rất nhiều tiền và công sức. Nhiều gia đình đã tạo môi trường ngoại ngữ cho con mình rất sớm. Trẻ được đầu tư học trường quốc tế với thầy cô nước ngoài từ tuổi mầm non, với một kỳ vọng rất chính đáng: để con giỏi ngoại ngữ. Kỳ vọng đó song hành với quan niệm rằng trẻ học ngoại ngữ càng sớm càng tốt, hay trẻ biết ngoại ngữ thường có tư duy sắc bén và thông minh.

Chưa có một công trình nào phủ nhận việc trẻ biết đa ngôn ngữ thường có tư duy tốt. Nhưng có nhiều nghiên cứu khuyến cáo nên để trẻ thành thạo tiếng mẹ đẻ trước khi học một ngôn ngữ mới, tránh hiện tượng "song ngữ nửa vời" (double semi-lingualism) hay "trộn ngôn" (code mixing).

Hiện tượng "song ngữ nửa vời" được Hansegard đưa ra năm 1960 và được các nhà ngôn ngữ học như Scovel, Skutnabb-Kangas-Toukomaa, Cummins hay Hamers-Blanc sử dụng rộng rãi để mô tả tình trạng tiếng mẹ đẻ chưa thạo mà ngoại ngữ cũng không thông của những đứa trẻ nhập cư. "Trộn ngôn" là khái niệm trong ngành ứng dụng ngôn ngữ, chỉ việc trộn lẫn giữa hai hay nhiều ngôn ngữ trong giao tiếp, thường được những người song ngữ (bilinguals) sử dụng. Trộn ngôn là hiện tượng khá phổ biến và dễ dàng được chấp nhận trong giao tiếp giữa những người cùng biết các ngôn ngữ đó, nhưng lại không phù hợp khi người biết song ngữ giao tiếp với người đơn ngữ (monolinguals).  

Hơn nữa, học ngoại ngữ là học văn hóa. Khi các chuẩn mực văn hóa tây - ta bị lẫn lộn, hiệu quả giao tiếp sẽ bị hạn chế. Đã có nhiều ông bố bà mẹ chuyển con khỏi trường quốc tế vì cháu gặp ai cũng chỉ chào "hello", gặp ông bà không chịu khoanh tay hay cúi đầu tỏ thái độ lễ phép, bố mẹ nói không vừa ý là không nghe.

Trong đời thường, chêm ngoại ngữ vào tiếng Việt không phải hiện tượng lạ. Song cô gái chèn tiếng Việt trên truyền hình bị chỉ trích có lẽ nằm ở văn hóa nói chuyện trước công chúng, khi người xem không phải ai cũng biết hoặc chấp nhận việc dùng ngoại ngữ tùy tiện trên truyền thông.

Suy cho cùng, ngôn ngữ là để phục vụ mục đích giao tiếp. Mục đích đạt được hay không không chỉ phụ thuộc vào việc bạn nói cái gì, mà phần nhiều, nó do sự nhạy cảm trong giao tiếp của bạn. Và dù bạn nói bằng tiếng gì, nếu chúng không được đặt trong một chuẩn mực văn hóa phù hợp, hiệu quả giao tiếp cũng không cao.

Trần Thị Tuyết






No comments:

Post a Comment

View My Stats