Thursday, 26 April 2018

NGÀY MÂT NƯỚC THỨ 43 (Nghĩ Quẩn)




Nghĩ Quẩn
April 23, 2018

Tháng Tư mỗi năm có lẽ nên được chọn là tháng chay, hiểu theo nghĩa như vẫn được nhiều người hiểu là tháng dành để tưởng nhớ, để buồn tủi và để luyến tiếc những ngày đã mất, hay đúng ra là đã bị cướp mất. Nhưng năm nay đã là năm thứ 43, liệu có nên tiếp tục nhìn Tháng Tư – hay đúng hơn là ngày 30 Tháng Tư mỗi năm như đã nhìn 42 năm trước hay không? Đã qua hơn một thế hệ rồi còn gì!?

Những ngày tháng gần đây, người cựu tị nạn bỗng giật mình nhận ra là đã có quá nhiều sinh hoạt có thể nói là tựu trung vẫn chẳng mấy khác so với nhiều năm trước. Giật mình là vì thời thế đã thay đổi mà mình, sao vẫn thấy cứ thế cứ thế? Người cựu tị nạn, gần đến ngày nầy, vẫn hô hào kéo nhau đi biểu tình tố cáo nhà cầm quyền trong nước tiếp tục khinh bỉ những quyền được coi là đương nhiên của người dân bị trị; tiếp tục đàn áp, đánh đập, bắt bớ những người tụ tập chỉ để bày tỏ tình yêu quê hương và ý nguyện cương quyết chống quân ngoại xâm đang mỗi ngày một tự tung tự tác thực hiện ý đồ chiếm lĩnh núi sông mà tiền nhân đã dày công gầy dựng cho dòng giống Việt. Nhiều bài báo do các thức giả sục sôi tâm huyết viết ra để chỉ rõ cho mọi người thấy đảng CSVN vẫn cúc cung với sứ mạng trao từng phần lãnh thổ và từng quyền lợi của dân Việt cho người ngoài mặc dầu bảo vệ từng tấc đất quê hương và từng quyền lợi của mỗi người dân phải là trách nhiệm của nhà cầm quyền.

Một số không ít người cựu tị nạn, tỏ ra thức thời hơn, không biểu tình, cũng chẳng viết lách than vãn thân phận tự nhận là đang khốn khổ sống trên đất nước mới dù chẳng ai đày các vị sang miền đất nầy, hay tố khổ đảng cầm quyền trong nước. Trái lại, chỉ lo tận dụng những quyền lợi có được nhờ sống lâu ở đây và nhờ biết cách khai thác, không mấy thành thật, hệ thống yểm trợ mà xã hội dành cho người già và người nghèo để thụ hưởng một cách bất chánh và vô đạo. Họ, chính họ, lại là những người trước hơn ai hết quay về nước du lịch, hưởng thụ rồi trở lại miền đất lâu nay định cư để tán tụng những thành quả cho là do đảng cầm quyền trong nước đạt được. Hậu quả là càng ngày càng có nhiều người cựu tị nạn quên hẳn mục tiêu của việc bỏ nước đi tị nạn của họ. Nhưng hệ lụy lớn lao hơn nữa là đã có một thành phần bị bỏ mặc. Đó là đại đa số người dân trong nước, những người vẫn tiếp tục sống kiếp đọa đày trong khi một thiểu số thành viên của cường quyền tha hồ bóc lột, tích trữ tiền của tung ra nước ngoài để chuẩn bị cho một ngày không xa bỏ chạy và yên thân thụ hưởng của cải thu hoạch nhờ đảng giúp họ đàn áp bóc lột những người nghèo thấp cổ bé miệng dưới tay họ.

Chuyện người cựu tị nạn ôm nhau than khóc cho những thống khổ chính họ từng chịu đựng dưới tay CS, thi nhau tố cáo những hành động rước voi dày mồ của CSVN đối với tiền nhân khi cứ thản nhiên bán, lẫn dâng, đất cho Tàu Cộng, và tiếp tục phơi bày những nghèo đói cơ cực vì bị bóc lột của mọi tầng lớp nhân dân không có thẻ đỏ ở trong nước, đã trở thành bình thường như đã được mô tả trong mục “chuyện hàng ngày ở huyện” ngày nay; hay “chuyện dài nhân dân tự vệ” ngày xưa. Người than khóc và chửi bới thì tiếp tục than khóc chửi bới; kẻ có quyền đàn áp bóc lột để làm giàu trên máu xương người đồng chủng thì vẫn tiếp tục đàn áp bóc lột đồng bào mình một cách không thương tiếc. Tổng quát mà nói thì người cựu tị nạn đang sống ngoài nước và người CS cầm quyền trong nước vẫn chỉ làm những gì đã làm từ 42 năm qua. Không mảy may thay đổi từ nhiều năm qua mà cũng chẳng hi vọng thay đổi được gì trong tương lai, mặc cho những lời chửi bới rủa sả CS ngày càng nặng ở ngoài và mặc cho những bóc lột và cướp cắp của những phần tử CS nắm quyền ngày càng ác ở trong. Đó là một thực trạng đáng chán và đáng được nêu ra.

Đáng chán hơn nữa là chuyện than vãn chửi rủa không chỉ nhằm vào đảng CS và những gì đảng đã và vẫn làm. Mà cạnh đó, cho tới hơn 40 năm sau, những nhận định cho là miền Nam lọt vào tay CS chỉ vì Tướng Dương Văn Minh làm “nội tuyến,” chỉ vì Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và chính quyền miền Nam bất tài, chỉ vì các đài phát thanh quốc tế thân Cộng loan tải những tin tức sai lạc làm các tầng lớp quân dân miền Nam “bỏ chạy trước khi giặc tới” và chỉ vì đồng minh Mỹ (và nhứt là người bị gọi một cách miệt thị là “tên Do Thái gốc Đức” Kissinger) đã bội ước. Dường như đấy là những tố cáo ăn khách cho những bài viết ăn khách vì nó đáp ứng đặc tính hời hợt cố hữu mà giờ nầy vẫn còn ăn khách của một số người nghĩ là chẳng đáng bỏ công nghiên cứu hay thận trọng cứu xét để biết rõ duyên cớ nào đã thực sự đưa lãnh thổ VNCH vào vòng kiểm soát của CS quốc tế. Khi viết để đổ tội như thế, không hiểu người viết đã bỏ bao nhiêu thời giờ để:

-Xem lại quyết tâm chống Cộng của người dân trong nước thời trước 1975 như thế nào? Tích cực chống hay chỉ hụ hợ chống trong lúc chạy chọt trốn lính, chân trong chân ngoài ra đi. Và nếu không đi được thì thập thò liên hệ với đối phương, thậm chí nuôi dưỡng che chở và làm ăn với họ.

-Thái độ và hành vi của không ít người hưởng lộc của chế độ tự do dân chủ ở miền Nam, ngay cả có chân trong giới cầm quyền, nhưng thâm tâm lại còn đầy ảo vọng về chủ nghĩa CS và vì vậy nên đã cả ngấm ngầm lẫn công khai hợp tác với CS để phá hoại chính chế độ đang mưu cầu lợi lộc cho họ và gia đình họ. Đây là những người xưa kia được mệnh danh một cách dè bỉu là bọn “ăn cơm quốc gia thờ ma CS”?

-Thái độ, hành động và quyết định của dân Mỹ, báo chí Mỹ, các chính trị gia Mỹ đối với cuộc chiến mà hiển nhiên là đã quá dai dẳng. Dĩ nhiên những gì các thành phần người Mỹ ấy nghĩ có thể là phiến diện và ngu ngốc nên đã gây bất lợi tối đa cho nỗ lực tự vệ của chính phủ và người dân VNCH; nhưng họ lại là đồng minh chính lãnh trách nhiệm chi tiền, cung cấp súng ống đạn dược, nhiên liệu và cả thức ăn cho người lính; cung cấp ngân khoản để trả lương cho quân cán chính VNCH lẫn đài thọ cho mọi phương tiện thông tin tuyên truyền giúp chính phủ VNCH vận động quần chúng trong ngoài nước.

Các chi tiết vừa ghi là một sự thật hiển nhiên từ năm 1954, vào thời điểm Đệ Nhất Cộng Hòa được thiết lập sau khi Hiệp Ðịnh Genève chia đôi đất nước. Nhìn như vậy thì mọi người có thể đã nhận ra một kết luận hiển nhiên không kém: ấy là sự tồn hay vong của VNCH hoàn toàn tùy thuộc vào quyết tâm yểm trợ hay ác tâm cắt đứt khối lượng yểm trợ vật chất (căn bản là ngoại tệ và vũ khí) lẫn nỗ lực yểm trợ ngoại giao của chính phủ Mỹ hầu vận động quần chúng thế giới hậu thuẫn chính nghĩa đấu tranh của người lính và người dân miền Nam – những người mà tinh thần chiến đấu lẫn khả năng chịu đựng trong cuộc đối đầu với bạo lực lên tới mức phi thường nhưng lại hoàn toàn thiếu khả năng sản xuất mọi phương tiện phục vụ chiến tranh.

Nhìn tương quan nhân lực, nhiều cây bút đã tức tối thổn thức “chưa đánh một trận cấp tiểu đoàn mà đã bỏ chạy” nhưng họ lại bỏ qua sự kiện là trong giai đoạn sau Hiệp Ðịnh Paris 1973, QLVNCH thiếu hẳn đạn dược, không có các bộ phận rời để sửa chữa các quân cụ hư hỏng, không đủ nhiên liệu để chạy các phương tiện còn dùng được, thiếu thuốc men và – tối quan trọng là – không đủ thức ăn để duy trì sức khỏe cho người lính. Khi TT Thiệu tuyên bố là ông đánh giặc tùy theo khối lượng viện trợ Mỹ thì ông đã bị mắng tơi tả. Nhưng đó là sự thật. Người lãnh đạo chỉ mô tả điều mà ông và chính phủ ông đã xót xa nhận chân. Sự thiếu thốn mọi thứ của người lính thuộc mọi quân binh chủng VNCH đã được chính tổng tham mưu trưởng, tổng cục trưởng Tiếp Vận, các tư lịnh quân binh chủng lẫn những tướng lãnh có trách nhiệm trên chiến trường thẳng thắn nhìn nhận sau nầy.

Trong khi đó thì, cũng sau khi đã nắm gọn miền Nam trong tay, CSVN đã chẳng ngần ngại tiết lộ họ đã được CS Nga Tàu yểm trợ dư dật đến như thế nào: máy bay và vũ khí phòng không hoàn toàn do Nga cung ứng và điều hành; vũ khí các loại, xe tăng, trọng pháo, đạn dược, nhiên liệu, trang phục và thức ăn hoàn toàn do CS Tàu chuyển sang. Khối lượng chiến cụ mà CS Nga Tàu đưa vào tay CSVN được chính các tướng lãnh Tàu công bố sau nầy là “vô giới hạn, muốn bao nhiêu cũng có.” Ngay cả việc bảo vệ Hà Nội và lãnh thổ từ đó đên biên giới Tàu cũng do hơn 300 ngàn quân tướng Tàu đảm trách để CSVN yên tâm tung toàn lực vào thanh toán thể chế dân chủ ở miền Nam. CSVN chỉ có bổn phận cung cấp (xác) người. Bởi vậy mà trong giai đoạn cuối mới có chuyện vài đơn vị tác chiến của VNCH chùn tay bắn giết chỉ vì thương hại những chú bé mới được CSVN huấn luyện 7 ngày cho biết cách cầm súng bóp cò thì đã bị tung vào “B.” Cái khác biệt chỉ là những người lính tác chiến kinh nghiệm và phong sương dày dạn của miền Nam thương người rồi… hết đạn trong khi xe tăng và đại pháo CS cứ ào ạt tiến tới và khai hỏa thả giàn. Các đơn vị tác chiến VNCH có lý do chính đáng phải buông súng rã ngũ bởi vì cây súng không đạn không thể bảo vệ họ. Kissinger có lý do khi tự hỏi “tại sao chúng nó (nước VNCH của ta đó) không chết quách cho rồi.” Và sau nầy, Đặng Tiểu Bình cũng có lý do khi ra lịnh dạy cho CSVN một bài học để trị tội vô ơn của CSVN bỏ CS Tàu để thần phục CS Nga theo chủ trương của Lê Duẩn vào thời hậu chiến.

Nhìn nhận thực trạng qua so sánh tương quan giản lược giữa đôi bên như vừa ghi có lẽ đã tạm đủ để các thức giả bớt đổ tội và ngưng chửi bới các đài phát thanh tỷ như BBC và VOA đã làm suy sụp tinh thần chiến đấu của QLVNCH sau khi chính TT Thiệu cũng đã từng bực tức gọi đài BBC là đài “Bịp Bỏ Cha”; và mắng “tổng thống 2 ngày” là Tướng Minh đã hèn nhát đầu hàng trong khi “vẫn còn cả triệu quân dưới cờ.” Bây giờ thì mọi người đều biết cuộc chiến tranh ở miền Nam VN đã chuyển qua một giai đoạn khác sau Hiệp Ðịnh Paris 1973. Và hôm nay, 42 năm sau, người thức thời cũng đã biết sứ mạng bảo vệ di sản do tổ tiên người Việt để lại cho dân tộc ta, nỗ lực tiến dần đến chỗ giải thể chế đọ CS và chống bọn giặc bành trướng phương Bắc đang sắp sửa đặt ách đô hộ vĩnh viễn lên quê hương chúng ta, cũng đã bước sang một giai đoạn mới. Những người Việt yêu nước thương dân – nhứt là những thành phần cựu tị nạn và hậu duệ – có lẽ nên chấm dứt việc đổ thừa, kể lể rồi ôm nhau than khóc, ghi lại những hành động phản dân hại nước của đảng CSVN rồi chửi bới rủa sả đám lãnh đạo CS hết sức nặng lời, hoặc cầm cờ kéo nhau đi hò hét đả đảo CS vang trời rồi quay về nhà chờ tới lần kéo nhau đi hò hét đả đảo sắp tới. Trong bốn thập niên qua, những hoạt động tiêu cực loại nầy không hề làm đảng CS nao núng và cũng chẳng hề khiến các đảng viên CS rụng bớt một sợi râu nào. Cuộc đấu tranh đã bước sang một giai đoạn khác. Nó đòi hỏi những đầu óc sáng tạo biết tranh đấu tùy thời, biết thay đổi chiến lược chiến thuật đúng lúc, biết cứng rắn khi cần và mềm dẻo khi biết có thể nhờ vậy mà thắng lợi. Đức Thánh Trần rõ ràng đã khuyên dân quân rèn đúc gươm giáo tập luyện binh đao để đối phó với giặc vì mang cựa gà chọi ra đánh giặc thì nhất định không thể thắng chúng. Nhưng rồi 200 năm sau, cận thần Nguyễn Trãi của Bình Định Vương lại hô hào lấy trí nhân thay cường bạo. Thời nào thức ấy là vậy.

Trên hết mọi suy tính, người cựu tị nạn và hậu duệ cần nhận rõ một sự thật tiên quyết: ấy là chỉ có các thanh niên nam nữ và những người yêu nước thương dân đang có mặt ngay trên dải quê hương gấm vóc đó của chúng ta mới có khả năng đích thực giải thể chế độ CS, đương đầu với họa ngoại xâm và nhiên hậu bảo vệ toàn dân Việt. Chúng ta, ở ngoài, phải cố thay đổi cả lối suy nghĩ lẫn thái độ buông xuôi, thờ ơ, vô cảm của cả ta lẫn họ đối với vận mạng đất nước; và quan trọng hơn hết, phải tích cực dành trọn năng lực để yểm trợ họ thay vì chửi CS và chửi nhau. Nhiều người nói rằng cuộc chiến chống Cộng trước đây là một cuộc chiến toàn diện diễn ra trên mọi mặt trận mà trong đó quân sự chỉ là một. Người CS còn có một đặc trưng: ấy là theo đúng lý thuyết CS, họ đều coi bạo lực là phương tiện đạt tới cứu cánh. Cho nên họ không màng chuyện giết người. Stalin, Mao, Hồ, gia đình họ Kim ở Bắc Hàn, Pol Pot bên Campuchia đều giết người không gớm tay là vì thế. Nhưng vì người CS yêu thích và sử dụng bạo lực quá nhuần nhuyễn, bạo lực đã biến thành cứu cánh thay vì chỉ là phương tiện. Thành thử cuộc đấu tranh bây giờ của người Việt yêu nước và chống Cộng còn phải tiến hành trên nhiều mặt trận hơn cả nửa thế kỷ trước. Bởi vậy nếu chủ trương chống Cộng chỉ bằng bạo lực thì chắc chắn người yêu nước và chuộng tự do dân chủ không bù được với người CS trong chuyện giết người. Vả chăng chẳng ai còn muốn cung cấp súng đạn cho chúng ta nữa bởi vì thời nay diệt Cộng hoàn toàn không đồng nghĩa với việc vác súng đi giết hết mọi người có thẻ đỏ. Ngay bây giờ, những chi tiết đó càng đúng hơn khi kỹ thuật trong thế kỷ nầy là một trời một vực so với chỉ 40 năm trước. Kỹ thuật nói tới ở đây gồm cả kỹ thuật quân sự lẫn kỹ thuật điện tử.

Chuyện Tàu đời xưa ghi nhận hai chuyện cần nêu lại ở đây:

Thời Chiến Quốc, tướng nước Tần là Bạch Khởi (tướng Tần nhưng dĩ nhiên là người Tàu) – được hậu thế gọi là Nhân Đồ vì y thuộc loại khát máu – mang quân đánh nước Triệu. Đánh tan đại quân Triệu ở Trường Bình và buộc hơn 200 ngàn quân Triệu (quân nước Triệu nhưng dĩ nhiên cũng là người Tàu) đầu hàng. Tuy nhận cho hàng nhưng Bạch Khởi lại ngầm ra lịnh cho quân Tần thanh toán hết quân Triệu. Hậu quả là chỉ trong một đêm, quân Tần đã giết tất cả hàng quân của Triệu. Trong duy nhứt chiến dịch đó, Bạch Khởi đã giết hơn 40 vạn người Triệu kể cả 20 vạn quân đã qui hàng.

Sự kiện thứ hai là cũng trong thời Chiến Quốc, khi Hán Vương Lưu Bang và Sở Vương Hạng Vũ đánh nhau dai dẳng, Lưu hỏi kế quân sư Trương Lương làm sao diệt Hạng cho nhanh. Trương biết quân Sở theo Hạng đã lâu, chán vì đánh nhau mãi, chỉ nhớ nước nhớ nhà nên đang đêm Trương mang sáo ra thổi bài Sở từ và lịnh cho quân Hán đứng trên đỉnh thi nhau hát những khúc nhạc ai oán cố cựu của Sở (chắc là theo kiểu nhạc ru ngủ và phản chiến thời thập niên 1970 ở miền Nam chúng ta??!!) khiến quân Sở chẳng còn lòng dạ nào mà tiếp tục đánh nhau. Hạng Vũ đương nhiên thua trận và tuẫn tiết.

Đó là chuyện đời xưa, mấy thế kỷ trước Tây Lịch. Nhưng xin đừng quên là lịch sử Tàu cũng đã ghi chuyện Mao Trạch Đông sát hại hơn 20 triệu đồng bào y trước lẫn sau chiến thắng năm 1949; cho nên người Việt mình nên nghĩ đến chuyện cả triệu tướng hậu duệ của Bạch Khởi và của Mao có lẽ cũng sẽ chẳng ngần ngại gì mà không đồng hóa dân Việt bằng cách hạ lịnh cho trai Tàu và lính Tàu cưỡng chiếm hết gái, cả xấu lẫn đẹp, cả trẻ lẫn già, trên quê hương mình; thay đổi ngôn ngữ Việt; tiêu diệt văn hóa Việt và – để an tâm hơn – tàn sát đôi ba chục triệu thanh niên trai tráng Việt; biến dân mình thành một giống dân chẳng còn sức để kháng gì về sau. Đừng quên là CS Tàu đã có thừa kinh nghiệm ở Mông Cổ, Mãn Châu, Tân Cương và Tây Tạng trong sách lược giết người và đồng hóa. Cũng đừng quên là do chính sách ngu xuẩn của nhà nước Tàu chỉ cho phép mỗi gia đình có một con và hành động cũng ngu xuẩn không kém của dân Tàu khi giết chết các hài nhi gái ngay khi vừa chào đời hồi mấy chục năm trước, khiến cho ngay bây giờ nước Tàu đang có tới cả trăm triệu “quang côn” (cây gậy trụi lá), nghĩa là bọn đàn ông không làm sao kiếm ra gái Tàu để lấy làm vợ. Bọn nầy mà sang đất Việt, cộng với uy quyền của quân xâm lăng, thì nguồn sản xuất dân Việt mai hậu sẽ chẳng còn.

Tuy nhiên chuyện Trương Lương sử dụng hiệu quả quyền lực mềm biết đâu sẽ cho những người Việt yêu nước một tia hi vọng : tiếng sáo Trương Lương tiêu diệt nhuệ khí tranh đấu của quân Sở cho thấy là những cuộc vận động phi bạo lực của cả triệu người Việt có ý thức đang sống tự do ngoài nước cũng rất có thể tạo dựng được một thế hệ thanh niên thanh nữ mới ở trong nước – kể cả những người đang phục vụ trong guồng máy quân đội, công an, cảnh sát của CSVN – khiến họ ý thức được tương lai cực kỳ ảm đạm của dân Việt mà họ là một thành phần. Hiểu như vậy thì họ sẽ biết được là một khi đặt xong ách đô hộ vĩnh viễn trên đất Việt, “Hoàng Đế” Tập Cận Bình ắt sẽ chẳng có lý do gì để dung tha họ. Mong họ không quên tích Mã Viện lập trụ đồng (Đồng Trụ Chiết, Giao Chỉ Diệt) sau khi thắng Trưng Nữ Vương và nhớ lại là ngay từ thời anh quan Tàu Triệu Đà tạo phản để lập nước Nam Việt của Tàu thì đất Giao Châu bao giờ cũng bị Tàu coi là “Nam Việt Sơn Ngoại” (Núi non của Tàu bên ngoài lãnh thổ Nam Việt). Bởi vậy đám quan quân thuộc đảng CSVN rồi ra cũng chỉ là một bọn nô lệ tép riu chờ chết mà thôi nếu không đứng lên diệt Cộng và chống Tàu ngay bây giờ. Tất nhiên sẽ vui hơn, và nhất thời sẽ yên ổn hơn, nếu cả nước cứ thản nhiên ôm nhau rên rỉ nhạc Bolero; người người già trẻ lớn bé cứ thản nhiên ngày đêm ăn nhậu; thanh niên trai tráng cứ thản nhiên thức trắng đêm coi đá banh rồi thản nhiên cởi hết quần áo chạy nhông khắp phố để rầm rộ tán tụng đội tuyển dù đội nhà chỉ mới vô tới bán kết rồi thua; và phụ nữ cứ thản nhiên cởi truồng cho đàn ông Tàu, Hàn, Đài sờ nắn để giúp họ chọn nô lệ tình dục mang về nước. Nhưng cứ thế cứ thế thì tương lai mất nước, mất mạng và mất giống, có phần chắc là sẽ không còn xa đối với toàn dân Việt Nam.








No comments:

Post a Comment

View My Stats