Michelle Vachon and
Chhorn Phearun - Cambodia Daily
Luật
Khoa tạp chí lược
dịch
ByQUỲNH VI
Posted
on 16/09/2017
Luật
Khoa tạp chí lược
dịch từ bài báo Forever
Foreign của hai tác giả Michelle Vachon and Chhorn Phearun đăng trên tờ
Cambodia Daily ngày 1/9/2017, vài ngày trước khi nhật báo này bị đóng
cửa vì lý do chính trị.
***
Bấm
: http://luatkhoa.org/wp-content/uploads/2017/09/Screen-Shot-2017-09-16-at-1.28.52-PM-1024x463.png
Căn
nhà của Tri Ngan Ros là một chiếc thuyền trên dòng sông Mekong. Sinh tại Tỉnh
Kompong Chhnang trong thời kỳ Hoàng thân Norodom Sihanouk trị vì, người ngư dân
60 tuổi này vốn không thể nhớ nổi cha mình đã bắt đầu sinh sống tại Cambodia từ
khi nào.
Cả
đời ông chỉ biết có nơi này là quê nhà. Ông Ros có bốn người con và chín người
cháu, tất cả đều sinh trưởng tại Cambodia. Vậy mà ông lại chia sẻ, “Tôi thậm
chí không có cả một tấm thẻ căn cước của Cambodia. Tôi đã ở đây cả đời, và gia
đình tôi đã có ba thế hệ sống tại mảnh đất này. Thế nhưng, tôi vẫn chỉ là một kẻ
di dân.”
Có
gần 1.000 hộ gia đình gốc Việt Nam hiện đang sinh sống tại ngôi làng nổi trên
sông cùng với gia đình Tri Ngan Ros. Nhưng ông cho biết, rất ít hộ có thẻ căn
cước. Họ đều vướng trong cái thế kẹt của thủ tục pháp lý: sinh ra ở Cambodia,
nhưng lại bị xem là những kẻ ngoại lai.
Gốc
rễ của tình trạng mang đầy tính tranh cãi về những người di dân này vốn kéo dài
suốt lịch sử của Cambodia. Và hậu quả của nó tiếp tục định nghĩa cho thân phận
của nhiều con người, cũng như quy chụp lên hàng bao thế hệ vẫn đang chui rúc
trên một vùng pháp lý chẳng biết trách nhiệm thuộc về ai.
Bị
xã hội gọi một cách nhạo báng là “yuon”, các chính trị gia thì phỉ báng một
cách đầy ác ý, và hệ thống giáo dục thì đã bỏ mặc họ, những con người này chính
là các chú dê tế thần béo mập trong mọi bộ phận của xã hội Cambodia từ trước đến
nay.
Gia đình ông Heang, một
người gốc Việt tại một làng nổi – The Cambodia Daily
Lần
giở lại vài trang lịch sử Cambodia, thì mối quan hệ với Việt Nam luôn được xem
là tâm điểm, hoặc là bối cảnh của những giai đoạn nhất định.
Hãy
bắt đầu từ thành phố Paris năm 1991.
Vào
thời điểm đó, các hoạt động thương thảo đang diễn ra để chuẩn bị cho việc
ký kết Hiệp
định Paris vào ngày 23/10/1991, chấm dứt cuộc chiến ở Cambodia. Bác sĩ
Richard Rechtman, một người Pháp đi dự một buổi cơm tối tại Paris khi ấy đã kể
lại câu chuyện sau.
Sự
kiện đó được tổ chức cho những phe phái khác nhau, chính là những nhóm trong suốt
thập niên 1980 đã chiến đấu chống lại chính phủ Cambodia đương thời – sau khi lực
lượng này đã lật đổ quân Khmer Đỏ với sự trợ giúp của quân đội Việt Nam năm
1979.
Thế
nhưng, suốt cả buổi tiệc, không một ai được phép nhắc nhở gì đến “Việt Nam”,
bác sĩ Rechtman nhớ lại. Đến mức khi có nghệ sĩ muốn trình diễn một bài hát tiếng
Việt, thì tất cả những người có mặt bắt buộc cô ta phải lập tức từ bỏ ý định ấy
đi.
Với
cái nhìn của một bác sĩ tâm lý điều trị, ông Rechtman không hề thấy ngạc nhiên
về điều này: “Con người luôn cảm thấy thoải mái hơn nếu họ chọn kẻ thù hoàn
toàn từ những người ngoại bang”.
“Trong
khung cảnh mọi người đều thân thiện với nhau tại buổi tiệc ấy,” bác sĩ Rechtman
kể tiếp, “thì một người phụ nữ ngồi cùng bàn lại chia sẻ với tôi rằng, trong thời
kỳ Khmer Đỏ nắm quyền, đã có rất nhiều người thân của bà bị sát hại.
Và
ngay tại lúc này, ở cái bàn tiệc kế bên, một trong những kẻ phải chịu trách nhiệm
về những cái chết ấy đang ngồi ngay bên cạnh chúng tôi.
Điều
này có nghĩa là, ngay cả khi một người Cambodia biết rất rõ kẻ thù của mình là
ai, thì họ vẫn thà chọn người Việt Nam làm tâm điểm để hứng chịu tất cả các vấn
đề ung nhọt tại xứ sở của mình”, bác sĩ Rechtman nhận định.
Liên
tục trong những năm sau đó, lòng thù ghét người Việt Nam đã trở thành một phương
pháp giải tỏa nỗi oán hận của người Cambodia đối với những gì mà Khmer Đỏ đã
gây ra. Và họ đã làm điều này mà không hề nghĩ rằng mình đang sử dụng người Việt
Nam như là vật tế thần, bác sĩ Rechtman chia sẻ thêm. Đến cuối cùng, Việt Nam
và Cambodia vốn có quá nhiều xung đột xuyên suốt lịch sử.
Ngay
cả sau khi Hiệp định Hòa bình được ký kết, chấm dứt hai thập kỷ chiến tranh và
xung đột ở Cambodia, thì những người có tổ tiên, gốc gác là người Việt Nam tại
đây vẫn là nạn nhân của mối oán hận chệch hướng này.
Cơn
cuồng nộ của đám đông đã là mồi lửa cho những hành vi bạo lực, mà không có gì để
nghi ngờ là những kẻ thủ ác xem đó là cách mà họ báo thù.
Như
trong năm 1998, đã có vài người gốc Việt bị những đám đông treo cổ ngay ở thủ
đô Phnom Penh, sau khi có những tin đồn thất thiệt là họ đã đầu độc thực
phẩm và nguồn nước của thành phố.
Chỉ
hai năm trước đây thôi, một người đàn ông gốc Việt, Nguyen Yaing Ngoc, sau khi
bị thương trong một tai nạn giao thông đã bị một nhóm người giết chết bên vệ đường.
Phó công an xã tại địa phương đã kể lại rằng, có người đã gào lên “Bọn
‘Yuon’ muốn gây chuyện với ngươi Khmer” ngay trước khi vụ tấn công xảy ra.
Người Cambodia biểu
tình phản đối người Việt trước Đại sứ quán Việt Nam năm 2014. Ảnh
REUTERS/Samrang Pring
Ngay
cả các chính trị gia ở đây cũng không có hành vi thu liễm gì khi bày tỏ
quan điểm về những xung đột này.
Sam
Rainsy, cựu Chủ tịch đảng đối lập CNRP hiện đang sống lưu vong, xưa nay vẫn nổi
tiếng bởi những lời lẽ tấn công hiểm ác chống lại Việt Nam và người Việt sinh sống
ở Cambodia.
Trong
một lá thư gửi đến nhật báo The Cambodia Daily ngày 28/10/2013, Rainsy đã phản
đối việc ông đã bị chụp cho cái mũ là người đóng gông cùm lên cổ những người Việt
sống ở Cambodia.
Sau
đó, ông ta lập luận rằng, dân số của người tị nạn Việt Nam có thể sẽ vượt xa
người Khmer trong thời gian sắp tới nếu việc cưỡng chiếm đất đai của các công
ty Việt Nam vẫn tiếp diễn. Đây là kiểu hùng biện mà Rainsy luôn lập đi lập lại ở
các buổi tụ tập và gặp gỡ những người ủng hộ sự nghiệp chính trị của ông ta.
Khi
được đề nghị đưa ra một lời phát biểu cho chính bài báo này, ông Rainsy đã viết
thư phúc đáp cho chúng tôi, và nêu rõ ông là người có lòng tôn trọng tuyệt đối
các giá trị nhân quyền. Thế nhưng, ông ta cũng viết thêm, “nói như thế, không
có nghĩa là điều này có thể ngăn cản tôi tố giác vô số những yếu tố của chính
sách bành trướng và bá chủ của Cộng sản Việt Nam đối với Cambodia”.
Một
trong những lời đồn đãi khiến cho rất nhiều người dân Cambodia ngán ngẩm, đó là
họ nghe nói từ thập niên 1980 đến nay, đã có hằng triệu người Việt Nam chuyển đến
sinh sống ở đất nước này.
Theo
Patrick Heuveline, một nhà Xã hội học người Pháp chuyên nghiên cứu về nhân khẩu
học, thì con số người Việt định cư ở Cambodia trong thực tế là gần 400.000. Có
khoảng 200.000 người Cambodia gốc Việt đã trốn chạy khỏi đây trong những năm của
thập niên 1970, và có từ 150.000 đến 200.000 người đã tái định cư ở Cambodia.
Con
số này được lấy từ một phân tích chuyên sâu được thực hiện năm 1996 bởi Luật
gia Jennifer Berman, một người Mỹ nghiên cứu về quy trình thẩm định quốc tịch ở
Cambodia.
“Quốc
tịch là một đề tài gây tranh cãi ở một đất nước mà trong vòng 50 năm vừa qua, hầu
như là bị cai trị bởi các quốc gia khác nhau. Từ người Pháp – sau khi Hiệp định
Bảo hộ được ký kết – đến người Việt Nam trong thập niên 1980. Họ cũng từng bị
người Nhật Bản chiếm đóng một vài tháng trong Thế chiến Thứ hai, và được quản
lý bởi Liên Hiệp Quốc trước khi cuộc tổng tuyển cử năm 1993 được tiến hành”. Đó
là những gì bà Berman đã viết trong nghiên cứu của mình.
“Sự
cai trị liên tục của ngoại bang đã sản sinh ra một nhân sinh quan – đặc biệt là
ở những người gốc Khmer – mang tính bài trừ người có gốc gác khác tham gia vào
những sự vụ nội bộ của quốc gia – gần như là một nỗi lo lắng đầy hoang tưởng về
sự có mặt và ý đồ của những nhóm sắc tộc thiểu số, phi bản địa ở Cambodia.
Chính
cái tâm lý đầy nghi kị – vốn ăn sâu bén rễ vào xã hội, luật pháp, và các thiết
chế nhà nước – đã hiện nguyên hình ngày hôm nay trong dáng vẻ của sự kỳ thị sắc
tộc rất rõ nét ở Cambodia.”
Tranh biếm họa ở
Cambodia năm 2008 phản đối Việt Nam gây ảnh hưởng đến chính trị Cambodia. Ảnh:
editorials.cambodia.org
Những
thời kỳ đau thương trong lịch sử trải dài của mối quan hệ Việt Nam – Cambodia
đang được giảng dạy cho học sinh tại đây.
Vào
thế kỷ thứ 17, một vị vua người Cambodia đã cưới một cô công chúa Việt Nam,
theo lời kể của nhà Sử học Pháp – Alain Forest.
Một
trong những hòa ước mà cuộc hôn nhân chính trị này mang lại cho Việt Nam, đó là
dọc vùng đồng bằng Mekong, người Việt được thiết lập các trạm hải quan. Điều
này đã khiến cho một số rất đông người Việt đã di dân đến vùng Kampuchea Krom
ngày nay, đến mức họ qua mặt dân số người Cambodia để chiếm lĩnh toàn bộ vùng đất
ấy.
Vài
thập kỷ sau đó, một vị hoàng thân người Cambodia cướp ngôi và cải sang Đạo
Islam. Những kẻ chống đối ông này đã tìm kiếm sự hậu thuẫn của Việt Nam để
giành lại vương quyền.
“Mô
hình này được lặp đi lặp lại mỗi khi triều đại thay đổi. Những kẻ muốn đối
kháng luôn tìm sự ủng hộ từ Xiêm La (Siam) – Thailand ngày nay – hoặc Việt
Nam”, ông Forest nhận định.
Nội
loạn quốc gia đã khiến cho hai láng giềng hùng mạnh có thể can thiệp vào nền
chính trị của Cambodia.
Cũng
theo ông Forest, hai nước láng giềng này có ý đồ hoàn toàn khác nhau. Việt Nam
dòm ngó vào đất đai của Cambodia. Trong khi đó, người Xiêm thì muốn biến người
Cambodia thành nô lệ như họ đã từng làm sau khi chiếm được phía Bắc của nước
này.
Giai
đoạn này là một thời kỳ kinh hoàng đối với người dân Cambodia, ông Forest cho
biết thêm. Và nó chỉ chấm dứt khi Vua Ang Duong đề nghị người Pháp hãy tìm cách
ngăn cản hai nước láng giềng của Cambodia. Đó cũng là lý do vì sao Vua Norodom
đã ký Hòa ước Bảo hộ 1863. Tại thời điểm ấy, dân số Cambodia đã giảm xuống chỉ
còn 900.000 người và biên giới của họ không qua khỏi Tỉnh Kompong Thom.
Giáo
sư Sử học Keo Duong của Đại học Hoàng gia Phnom Penh đã viết trong một tài liệu
nghiên cứu về sắc dân Việt Nam ở Cambodia vào năm ngoái rằng, trong khoảng thời
gian Hoàng thân Norodom Sihanouk trị vì – thập niên 1950 và 1960 – những người
gốc Việt hoàn toàn không được xem là người Cambodia cho dù họ đã sinh ra tại
đây đi chăng nữa.
Một
ngoại lệ duy nhất là những người gốc Việt ở Kampuchea Krom. Ở đó, những người gốc
Việt được phép trở thành công dân nếu họ nói được tiếng Khmer và đã trải qua một
thời gian sinh sống lâu năm tại tỉnh này.
Tuy
nhiên, những người mà ông Duong phỏng vấn thì hầu như không biết gì về quy định
trên. Họ chỉ biết là bản thân phải trả một khoảng tiền hằng năm cho phí di dân
với các định mức quá khổ cho những gia đình ngư dân.
Trở
lại lịch sử chính trị của Cambodia.
Khi
Hoàng thân Norodom Sihanouk thất cử trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng 3/1970,
Lon Nol trở thành người đứng đầu chính phủ. Một trong những việc Lon Nol làm đầu
tiên, là trục xuất tất cả người gốc Việt ra khỏi Cambodia, nếu không, họ sẽ bị
giết.
Lon Nol trở thành người
lãnh đạo Cambodia năm 1970 và đã ra lệnh tàn sát người Việt ở đây (trái), và
người Việt trốn chạy khỏi Cambodia (phải). Ảnh: Mekong.net
Chính
sách của Lon Nol đã dẫn đến những cuộc thảm sát hàng loạt người Việt Nam
Theo
lời kể của Cha xứ Francois Ponchaud, một người đã làm việc cùng các giáo dân Việt
Nam ở một số làng Công giáo, thì “thanh niên và đàn ông từ 15 tuổi trở lên đã bị
bắt giữ, và họ bị ép phải xuống những chiếc xà-lan đã cập sẵn bến để đi về phía
Nam.
Sau
khi đi được khoảng 30 cây số, các quân nhân sẽ trói quặt tay những người này ở
sau lưng họ, xâu họ lại thành từng nhóm 10 người, rồi bắn chết”, Cha Ponchaud kể.
“Xác
người cứ thế mà rơi thẳng vào dòng nước”.
Sau
khi biết được tin tức trên, chính quyền Việt Nam Cộng hòa khi đó – dù đang là đồng
minh cùng Mỹ và Cambodia trong cuộc nội chiến với miền Bắc Việt Nam – đã tổ chức
cho hơn 200.000 người gốc Việt di tản khỏi Cambodia. Rất nhiều người trong số
đó sinh ra ở Cambodia và chưa bao giờ đặt chân đến Việt Nam.
Sau
khi nội chiến ở Cambodia leo thang dữ dội hơn, chính phủ Lon Nol đã trưng bày
băng rôn với hình ảnh người miền Bắc Việt Nam là kẻ thù mà không hề đả động gì
đến việc, đây vốn là một cuộc nội chiến của những phe nhóm Cambodia khác nhau.
Khi
Khmer Đỏ chiếm được chính quyền vào tháng 4/1975, người Việt Nam lại trở thành
kẻ thù cần bị tiêu diệt, mặc kệ là chính lực lượng vũ trang Bắc Việt Nam đã chiến
đấu bên cạnh quân đội của Khmer Đỏ những năm 1972-1973.
Sử
gia người Pháp Henri Locard đã giải thích trong sách của ông – Cuốn sổ
tay đỏ của Pol Pot, những câu châm ngôn của Angkar – rằng một số khẩu
hiệu của Khmer Đỏ khi ấy mang đầy vẻ bài xích nhắm vào người Việt Nam, như “Đập
chết bọn Việt Nam! Đập cho tới khi lưng bọn nó gãy mới thôi!” Hay, “Chúng ta
hãy tấn công và đập tan bọn sâu mọt Việt Nam một cách tàn nhẫn nhất!”
Những
cuộc tấn công của Khmer Đỏ đến các làng mạc người Việt Nam dọc biên giới Việt –
Cam cũng chính là nguyên nhân chính phủ Việt Nam quyết định phải lật đổ Pol
Pol, với sự trợ giúp của những quân sĩ Cambodia bỏ trốn và tị nạn ở Việt Nam
khi đó.
Phnom Penh hoang tàn
sau một cuộc tấn công của quân đội Khmer Đỏ năm 1974. Ảnh: Christine
Spengler/Sygma/Corbis
Sau
khi đánh thắng Khmer Đỏ, phản ứng của các quốc gia Tây phương đã khiến Việt Nam
sửng sốt.
Đó
là nhận xét của phóng viên Hoa Kỳ Elizabeth Becker.
“Tôi
không nghĩ là phần lịch sử này đã được ghi lại một cách toàn vẹn: Việt Nam đã từng
mong đợi rằng, mình sẽ được hoan hô khi tiêu diệt Khmer Đỏ. Và họ đã rất sốc với
thái độ khi ấy (của phương Tây – ND). Việt Nam đã trông chờ cả thế giới tuyên
dương ‘Hoan hô Việt Nam đã dẹp tan chế độ kinh hoàng Khmer Đỏ’. Họ hoàn toàn
không chuẩn bị tâm lý cho thái độ thù nghịch đến từ cộng đồng quốc tế sau đó.”
Trong
thập niên 1980, bà Becker cho rằng, “đó thật là một sự tra tấn tinh thần khi cả
thế giới chỉ trích Việt Nam vì họ đã chấm dứt tội ác diệt chủng và xóa sổ Khmer
Đỏ … Nếu quý vị muốn nổi giận, hãy nổi giận với Hoa Kỳ vì họ đã ủng hộ Khmer Đỏ
suốt cả những năm 1980. Nếu quý vị muốn nổi giận, hãy nổi giận với cả cộng đồng
Tây phương vì họ đã từ chối giúp đỡ để Cambodia có thể hồi sinh.
Thay
vì ra tay cứu trợ, Hoa Kỳ, Châu Âu, và toàn bộ Tây phương lẫn ASEAN lại đưa ra
các biện pháp chế tài khắc nghiệt và từ chối cho nguồn viện trợ được nhập vào
Cambodia.
Quân
đội Việt Nam nên rút sớm hơn, đó là điều không cần phải hỏi .. Tuy nhiên, chỉ
mang một mình Việt Nam ra để chỉ trích cho tất cả các vấn đề (ở Cambodia – ND)
thì thật là quá kỳ quặc”, bà Becker nhận xét.
Câu
chuyện biên giới giữa hai nước vẫn là một vấn đề.
Kể
từ lúc chính phủ Việt Nam quyết định tiếp tục để quân đội của mình đóng tại
Cambodia cho đến năm 1989, các đảng phái đối lập trong nhiều năm qua đã chỉ
trích đảng cầm quyền – đảng Nhân dân Cambodia (Cambodian People’s Party –
CPP) – là có liên đới với Việt Nam.
Và,
bởi vì mối quan hệ trải dài nhiều thập niên giữa Hà Nội và các lãnh đạo đảng
CPP, đảng đối lập CNRP vẫn cảm thấy Việt Nam đã được phép cướp đi hàng chục khu
đất dọc biên giới trong sự im lặng, không phản đối của CPP.
“Chúng
ta không thể phủ nhận có những vấn đề về biên giới đang tồn tại giữa hai nước.
Và là những nước láng giềng với nhau, … nếu đảng CNRP nắm chính quyền, thì giải
pháp đối ngoại sẽ là phi bạo lực, hòa bình và đối thoại. Chúng tôi sẽ kêu gọi
và tìm kiếm giải pháp cùng nhau … thậm chí là sẽ sử dụng công pháp và tòa án quốc
tế nếu không tìm ra giải pháp bằng đàm phán song phương”.
Đó
là phát biểu của Phó chủ tịch đảng CNRP Mu Sochua vào tuần trước.
Tuy
nói thế, ông Sochua còn thêm rằng, “bất kỳ hình thức phân biệt chủng tộc nào đều
không thể được biện bạch, và đảng CNRP lên án các hành vi đó … Chúng tôi đã tìm
ra những phương pháp giải quyết trong nội bộ của đảng, và chúng tôi cũng kêu gọi
những giải pháp đối ngoại phi bạo lực”.
Tư
cách pháp nhân của những người di dân gốc Việt tại Cambodia hiện nay.
Ngày
nay, người thiểu số gốc Việt là những người buôn bán nhỏ hoặc là các thương
buôn. Họ sống trên những ngôi làng nổi, như ông Tri Ngan Ros ở đầu bài, và kiếm
ăn bằng nghề đánh bắt cá. Đó là cách kiếm sống tốt nhất mà họ biết.
Những
người không được công nhận là người di dân hợp pháp (legal immigrants) sẽ không
thể xin được giấy khai sinh cho con cái mình. Mà không có giấy khai sinh, trẻ
em sẽ không thể đi học ở các trường công. Đó là những gì mà Phó Giám đốc điều
hành tổ chức Quyền của Người thiểu số (Minority Rights Organization) – Nou Va –
đã chia sẻ với chúng tôi.
“Những
người đến từ một đất nước khác, và bị chính quyền cho là không đủ điều kiện để
có tư cách pháp nhân đang phải sống với một tư cách không rõ ràng. Họ đang sống
ở đất nước này mà không có bất kỳ giấy tờ hợp pháp gì”.
Thế
nhưng, rất nhiều người đang sinh sống ở các ngôi làng nổi của Tỉnh Kompong
Chhnang vốn sinh ra ở Cambodia, ông Va cho biết. “Luật quốc tịch có nhắc đến là
con cái của những người nước ngoài sinh sống hợp pháp ở Cambodia sẽ được có quốc
tịch. Vậy thì câu hỏi được đặt ra ở đây chính là, ‘hợp pháp’ có nghĩa là gì? Đó
là một câu hỏi lớn”.
“Những
người này quá nghèo để có thể cho con cái đi học”, ông nói thêm.
Trẻ em gốc Việt ở làng
nổi Tonle Sap, Tỉnh Kompong Chhnang. Ảnh: alamy.com
Rồi
từ những người cha mẹ không biết tiếng Khmer, con cái họ cũng chỉ nói tiếng Việt,
là ngôn ngữ được sử dụng tại những ngôi làng nổi này.
“Làm
sao họ có thể giao tiếp bằng tiếng Khmer, ngôn ngữ của đất nước mà họ đang sống?
Làm thế nào mà họ có thể cạnh tranh tìm việc làm trong tương lai, và làm thế
nào để họ có được công việc tốt? Không có khả năng ngôn ngữ Khmer, họ không có
cách nào thoát được cuộc sống phụ thuộc vào những cộng đồng người Việt, và cũng
không thể đóng góp gì cho sự phát triển của Cambodia”, ông Nou Va chia sẻ.
“Cambodia
không phải là một quốc gia được khai phá chỉ bởi người Khmer, mà còn có
các sắc dân từ nhiều nguồn gốc khác nhau như người Cham, người Trung Hoa,
người bản địa, và người Việt Nam, v.v. Rất nhiều người từ các chủng tộc và nguồn
gốc khác nhau, đã cùng chung tay tạo dựng ra đất nước này”, ông nói thêm.
Tương
lai của những đứa trẻ gốc Việt dựa hoàn toàn vào việc phải có một định nghĩa
pháp lý rõ ràng cho từ “hợp pháp”, để xác định tư cách pháp nhân của bố mẹ
chúng.
Khi
được hỏi về vấn đề này, Eng Chandara, Giám đốc điều hành Cục quản lý chứng nhận
khai sinh, hôn nhân, và chứng tử của Bộ Nội vụ, đã giải thích rằng, “người nước
ngoài sống ở Cambodia – nếu có giấy tờ thị thực (visa) hợp lệ – có thể nhận được
giấy khai sinh. Nhưng các giấy khai sinh kiểu này sẽ được đăng ký là của người
ngoại quốc, chứ không phải là người Cambodia”.
Một
người cư trú mà không có giấy tờ thị thực, là một di dân bất hợp pháp, ông
Chandra chỉ ra. Hầu hết người gốc Việt sinh sống ở những ngôi làng nổi tại Tỉnh
Kompong Chhnang là những người di dân bất hợp pháp.
“Chúng
tôi đang cố gắng giải quyết vấn đề này: chúng tôi cũng đâu muốn những đứa trẻ
sinh ra mà không có tư cách pháp nhân”, ông nói thêm.
Tìm
cách xóa bỏ kỳ thị chủng tộc qua việc thay đổi sử dụng các từ ngữ mang tính miệt
thị
Trong
những năm vừa qua, cựu lãnh đạo đảng đối lập CNRP Sam Rainsy đã liên tục tự biện
hộ cho việc sử dụng từ “yuon” để miêu tả những người gốc Việt. Ông ta cho rằng,
từ này chỉ đơn giản có nghĩa là Việt Nam hoặc người Việt Nam trong tiếng Khmer.
Cựu lãnh đạo đảng đối
lập CNRP – Sam Rainsy – người bị cho là đã đẩy mạnh việc chống đối người Việt ở
Cambodia. Ảnh: ABS
Từ
điển phát hành năm 1967 của vị tăng sư và học giả đáng kính Chuon Nath đã định
nghĩa từ “yuon” là dùng để chỉ những người sinh sống ở ba vùng Tam Kỳ (Tonkin,
Annam, và Cochinchina) của Việt Nam.
Tuy
nhiên, từ này có vẻ đã bị biến dạng và mang một ý nghĩa tiêu cực vào những năm
1980, khi Việt Nam bắt đầu giám thị tiền thân của đảng CPP khi đó trong việc quản
lý đất nước Cambodia.
Theo
ông Tim Frewer, một học giả về Nhân – Địa lý học (human-geography) người Úc đã
nghiên cứu về Cambodia hơn một thập niên, chính nhu cầu muốn phân biệt rõ ràng
người Khmer và người Việt Nam đã xới lên một vấn đề rất quan trọng.
“Điểm
khác biệt giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, đó là cái
sau cho rằng, có một vấn đề cốt lõi đối với một chủng tộc nhất định, và vì
vậy, cần phải gạt bỏ chủng tộc đó ra khỏi định nghĩa thế nào là người
Cambodia”.
“Thế
nên, nó không chỉ là việc không thích người Việt Nam bởi vì những phẫn nộ chính
trị hay các tranh chấp trong lịch sử.
Mà
vấn đề ở đây là có những người rao truyền rằng, người Việt Nam không có chỗ ở
đây. Không cần biết là họ từ đâu đến, nhưng ở Cambodia, thì không có nơi nào
trong quốc gia này dành cho họ, và họ cần phải bị loại trừ.
Và
chỉ khi loại trừ toàn bộ người Việt thì – chúng ta – người Cambodia – mới có thể
tìm lại chính mình. Đây hoàn toàn là vấn đề dồn ép những người gốc Việt, và biến
họ trở thành một mối đe doạ cho chủ nghĩa dân tộc tính Cambodia”, ông Frewer
chia sẻ.
Thế
những thanh niên độ tuổi 20-30 ở Cambodia thì lại nghĩ gì về những thái độ nói
trên, vốn có xuất xứ từ trước khi họ chào đời?
“Đối
với thế hệ trẻ, họ không muốn chiến tranh, nhưng họ cũng không muốn mất thêm
lãnh thổ ở biên giới một lần nữa”. Đó là chia sẻ của Tim Malay, Chủ tịch Mạng
lưới Tuổi trẻ Cambodia (Cambodian Youth Network), và là một người đang theo học
chương trình thạc sĩ.
“Mọi
người đều muốn hòa bình và phát triển … Thế nên, là những người của thế hệ trẻ,
chúng tôi muốn tìm ra một giải pháp mới”.
Người
trẻ ở Cambodia đang đặt hy vọng vào chính quyền được đắc cử năm 2018 sắp tới sẽ
giải quyết những vấn đề này bằng con đường pháp lý, anh Malay cho biết. Và những
người nước ngoài nào muốn chọn Cambodia làm quê hương cũng sẽ có được tiếng nói
của mình.
Còn
theo Bill Herod, một người đã sống ở Cambodia hơn 30 năm, thì “hầu như tất cả
người Cambodia đều có những cảm xúc tiêu cực đối với Việt Nam và người Việt
Nam. Tuy nhiên, đó chỉ là một thứ cảm giác chung chung mà thôi. Còn trong quan
hệ giữa người với người, thì nó hầu như không tồn tại”.
Ông
Herod đã đến làm việc của một nhân viên cứu trợ vào những năm 80, và hiện nay đang
sinh sống ở Tỉnh Mondolkiri. Ông có bạn là người Việt lẫn người Khmer.
“Tôi
có rất nhiều bạn bè, cả người Cambodia lẫn người Việt Nam. Và khi tôi hỏi họ về
vấn đề này, thì họ sẽ nói rất nhiều thứ tồi tệ về người Việt. Nhưng nếu tôi lại
hỏi, ‘thế anh này hay cô kia thì thế nào?’ thì họ sẽ trả lời, ‘À, thì anh biết
rồi đấy, những người đó thì lại rất tử tế. Tôi thích họ.”
Đối
với việc sử dụng từ “yuon”, ông Herod cho rằng, “Tôi thì đương nhiên không dùng
từ ấy khi trò chuyện … Nhưng tôi lại không cho là nó có ý miệt thị đến mức mà
chúng ta thường nghĩ. Tôi cũng đã nghe nhiều người Việt dùng từ ấy nữa kìa.”
Nhưng
ông nói thêm, “tôi vẫn hy vọng là từ ‘yuon’ sẽ biến mất, và chúng ta chỉ dùng từ
người Việt để nói về người Việt”.
-----------------------------
TIN LIÊN QUAN
No comments:
Post a Comment