Nguyễn Bá Chổi
2015-04-24
Sau
ngày 30 tháng Tư năm 1975, hắn "được Cách Mạng nhân đạo khoan hồng tập
trung để bảo vệ tính mạng cho, vì nếu để ở ngoài sẽ bị nhân dân trả thù".
Huyện
Củng Sơn thuộc tỉnh Tuy Hòa là vùng hoạt động của "Cách Mạng" trước
75. Lúc mới "nhập môn" giữa vùng rừng núi này, mỗi lần đi ra ngoài
"học tập lao động để sau này trở về không còn bóc lột như thời Mỹ Ngụy nữa,
mà biết tự mình làm ra của cải vật chất hầu nuôi sống bản thân, gia đình và
đóng góp cho xã hội", hắn nơm nớp sợ đồng bào địa phương có tiếng là dân
Cách Mạng, sẽ trả thù (thù gì thì hắn không biết), nếu họ bắt gặp và nhận ra hắn
là "ngụy quân".
Một
hôm, trên đường đi "lao động là vinh quang" ngang qua khu chợ, có mấy
người dân chạy theo đoàn tù binh. Hắn lo lo ; đang lúc chuẩn bị tinh thần chịu
trận "nhân dân trả thù" thì có người dí vào túi áo hắn gói thuốc lá
Sông Cầu. Đó là một nhân dân hoàn toàn xa lạ. Hắn sững sờ, chưa kịp nói lời cảm
ơn thì người đàn bà ân nhân đã lách vội vào đám đông như tìm đường chạy trốn. Từ
đó về sau, nhiều người trong đám tù và hắn lâu lâu lại được "nhân dân trả
thù" như thế - khi cục đường mía, lúc miếng kẹo lạc.
Lại
một hôm, đám tù được thả lỏng phân tán mạnh ai nấy tự đi tìm... cỏ tranh để cắt
(về lợp nhà). Hắn được một phụ nữ quần áo vá đùm vá đụp mặt hốc hác, chạy đến
trước mặt, mắt dáo dác ngó trước ngó sau một vòng rồi dí vào tay cho cái bánh ú
làm bằng bột củ sắn mì với nhân hột mít. Chị ta nói", Anh ăn cho đỡ đói.
Bây giờ chúng tôi mới hiểu ra... và thương các anh quá".
Không
thấy "nhân dân trả thù" mà chỉ gặp nhân dân "thương các anh
quá", nhưng Cách Mạng vẫn nhất quyết tiếp tục "bảo vệ tính mạng cho
Ngụy quân ngụy quyền, những kẻ có tội với nhân dân mà lấy hết trúc Trường Sơn
làm bút, lấy sạch nước Biển Đồng làm mực cũng tả không xiết". Tháng lại
tháng. Năm qua năm. Đêm đêm nằm nêm cối đến ngộp thở trong những dãy nhà được
bao bọc bởi nhiều lớp kẽm gai xen kẽ lớp xương rồng rồi lớp mìn bẫy, lớp hầm
chông. Ngày ngày đi ra ngoài làm đủ thứ công việc của người tù khổ sai.
Khi
đi lẫn lúc về, đoàn tù binh phải dừng lại nơi cổng ra vào để lính gác đếm. Đi,
đếm rất mau ; về, vừa đếm vừa khám xét khắp người tù xem có lận theo trong túi
áo thắt lưng con cóc con nhái, con rắn con rít, hay cọng rau nạm cỏ (như cỏ sam
heo ăn được là tù ăn được)... gọi chung là những thứ "cải thiện linh
tinh" bị cấm ngặt, nên trong khi chờ đợi, cứ phải ứa gan với cái bảng đỏ
to tổ chảng trước mặt treo vắt ngang giữa hai cái lô cốt chằm chằm hai bên cửa
ra vào, có hàng chữ màu vàng khè "KHÔNG CÓ GÌ QUÍ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO"
phía trên hàng chữ "TRẠI CẢI TẠO A30" . Mỗi lần như thế, hắn lại hình
dung ra cảnh tú bà cho treo trước cửa nhà chứa của mụ, cái băng trắng chữ đỏ
"Chữ Trinh đáng giá ngàn vàng".
"Ngày
như lá tháng như mây", chỉ là với thế giới bên ngoài. Nhất nhật tại tù
thiên thu tại ngoại. Hắn thường bày tỏ rằng, nhờ Ơn Trên phù hộ hắn mới qua khỏi
hơn 2500 cái "thiên thu tại ngoại", để có ngày được "Cách mạng
khoan hồng" cấp cho tờ "Giấy Ra trại". Trên đường về với gia
đình tận vùng Cao Nguyên, hắn phải ghé lại Nha Trang để chờ mua vé xe cho chặng
đường cuối. Hắn đi lang thang để nhìn lại cảnh cũ người xưa nơi thành phố mà hắn
đã qua nhiều thời kỳ gắn bó. Thuở nhỏ "du học" ; lớn đi thi Tú Tài ;
mấy tháng học Không Trợ tại Trường Không Quân, và những lần "quá cảnh"
trên đường đi đi về. Người thiếu nữ đầu tiên đi qua đời hắn cũng từ bãi thùy
dương cát trắng này. Nha Trang đã là một phần đời hắn.
Hắn
đi ngang quầy bán thuốc lá lẻ bên lề đường Nguyễn Hoàng. Bỗng dưng hắn nhớ và
thèm một điếu thuốc CAPSTAN ngày nào. Sau khi tính nhẩm và chắc chắn số tiền Trại
cải tạo cấp cho theo tiêu chuẩn nhà nước làm "của ăn đi đường" còn đủ
để mua được hai điếu thuốc lá Song Long (hắn biết giá thuốc vì Trại thỉnh thoảng
có mua giùm cho những ai có tiền cần mua), hắn mạnh bạo tiến đến phía quầy bán
thuốc. Đã gần bảy năm, nay hắn mới được thấy lại nụ cười chào khách của những
người bán thuốc lá bên đường mà trước kia hắn thường gặp. Hắn hân hoan như vừa
tìm lại được một điều gì quý hóa đã mất từ lâu lắm. Nhưng bỗng dưng hắn chưng hửng
khi thấy mặt cô gái bỗng nhiên tối sầm lại và tỏ vẻ dửng dưng với khách. Hắn ngạc
nhiên trước thái độ thay đổi đột ngột của cô gái. Hắn kiểm điểm lại mình, và
đinh ninh mình không hề có cử chỉ khiếm nhã nào hay nói năng gì khác ngoài lời
hỏi mua thuốc lá. Hắn sực nhớ lúc nãy cô gái có liếc mắt xuống đôi chân hắn. Hắn
chợt thoáng "lý đoán" ra nguyên nhân. Nhìn thẳng vào mặt cô bán thuốc,
với vẻ nghiêm trang, hắn nói :
"Anh vừa từ trại
Cải tạo ra, đang trên đường về, nên đành phải mang đôi dép này". Khi hắn vừa
mới nói đến "Anh vừa từ trại cải tạo ra", cặp mắt cô gái sáng lên và
đôi má cô ửng hồng, nhếch lên để lộ ra cái lúm đồng tiền. Hình như cô muốn nói
điều gì mà không cất lên được. Cô luống cuống lấy trong hộc ra gói thuốc Hoa
Mai còn nguyên rồi bằng hai tay đưa lên sát ngực hắn, với ánh mắt thương cảm
trìu mến :
"Anh cầm lấy, em
biếu anh. Rất tiếc bây giờ không còn thuốc trước 75".
Hắn
đã bỏ hút thuốc từ lâu, nhưng vẫn nhớ mãi gói thuốc của ba mươi năm về trước. Mỗi
tháng Tư về, hắn lại càng thấy món nợ hắn mắc mỗi to hơn.
Không
phải nợ gói thuốc lá cô gái biếu. Nhưng là nợ chính cuộc đời cô mà hắn đã không
bảo vệ được. Để ít ra cô khỏi phải nhìn thấy những Đôi Dép Tháng Tư đưa dân Nam
đến cảnh bần cùng khốn nạn.
Nguyễn
Bá Chổi
No comments:
Post a Comment