05:25:pm 08/01/14
ĐCV: Nhân dịp kỉ niệm 40 năm ngày Trung Quốc đánh chiếm Hoàng
Sa, báo chí ‘lề phải’ Việt Nam đã có nhiều tin bài điểm lại cuộc chiến. Đa số
dành những lời lẽ trân trọng cho những người lính Việt Nam Cộng Hòa dã ngã
xuống trong cuộc hải chiến không cân sức. Đâu đó còn xuất hiện ý kiến truy tặng
danh hiệu tử sĩ cho những người đã hy sinh.
Có thể nói, so với mấy năm trước đây, liên quan tới biển Đông,
Việt Nam chỉ dám ấp úng ‘nước ngoài’, ‘tầu lạ’ khi nhắc tới Trung Quốc thì đây
là một sự thay đổi đáng ghi nhận. Ở một nước kiểm duyệt chặt chẽ như Việt Nam,
sự thay đổi này nhất định phải được bật đèn xanh từ cung đình Hà Nội.
Bài viết dưới đây là một trong số những bài viết được kể tới ở
trên.
——————————————————————–
Hoàng
Việt
(Vietnamnet)
Dù đã chiếm giữ toàn
bộ Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn không nhận được sự công nhận của cộng đồng quốc tế
về chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa. Và như vậy, thực sự Hoàng Sa vẫn đang là
một vùng lãnh thổ tranh chấp.
Năm
2014 là thời điểm đánh dấu tròn 40 năm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, một quần đảo
có vị trí quan trọng trên biển Đông đang trong tầm kiểm soát của Việt Nam Cộng
hòa đã bị mất vào tay Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Từ đó cho đến nay, biển Đông
chưa được yên tĩnh, những sự kiện nối tiếp nhau kéo dài từ biển Đông cho tới
biển Hoa Đông đã khiến nhiều người ví von khu vực Đông Á hiện nay như đang nằm
trên một thùng thuốc súng.
Vì
sao Trung Quốc dùng vũ lực để tấn chiếm Hoàng Sa vào thời điểm năm 1974 vẫn là
một câu hỏi có nhiều câu trả lời khác nhau. Và việc tìm hiểu và lý giải quá khứ
luôn là một phương cách để dự báo cho tương lai. Bài viết này nhằm đưa ra một
cách lý giải về lý do và mục đích mà Trung Quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974.
Vì sao các quốc gia
sử dụng sức mạnh quân sự trong các tranh chấp lãnh thổ?
Khi
phân tích về lý do cũng như thời điểm mà một quốc gia sử dụng sức mạnh quân sự
để giải quyết tranh chấp lãnh thổ nào đó, nhiều học giả cho rằng đó là do vị
thế của quốc gia đó trong tranh chấp bị yếu đi. Sự yếu đi về vị thế này làm cho
quốc gia cảm thấy mình sẽ không còn lợi thế khi “mặc cả lợi ích” trong việc
giải quyết tranh chấp (bargaining power).
Lợi
thế trong cuộc “mặc cả lợi ích” được M. Taylor Fravel, Phó giáo sư về Khoa học
chính trị, Đại học MIT, định nghĩa bao gồm: i) Diện tích lãnh thổ tranh chấp mà
quốc gia thực sự chiếm giữ; ii) Sức mạnh quân sự của quốc gia trong đối sánh
với sức mạnh quân sự của đối phương trên vùng tranh chấp.
Khi
một quốc gia thấy rằng vị thế của đối phương trong tranh chấp ngày càng tăng
lên, đồng nghĩa với việc vị thế của họ ngày càng suy giảm, thì rất có khả năng
quốc gia đó sẽ tiến hành biện pháp quân sự để khôi phục vị thế của họ. Thậm
chí, để gia tăng vị thế của mình, họ còn có thể sử dụng biện pháp quân sự để có
thể kiểm soát toàn bộ khu vực tranh chấp.
Mục đích Trung Quốc
chiếm Hoàng Sa
Khi
thành lập 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kiểm soát rất ít trong số 4 quần
đảo, bãi ngầm tại biển Đông, cũng như không kiểm soát được khu vực đảo Đài
Loan. Trung Quốc lúc này đã phải đối đầu với các thách thức, chẳng hạn từ chính
quyền Quốc Dân Đảng với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, cũng như trên các đảo ngoài khơi
khác tại khu vực biển Đông và biển Hoa Đông.
Năm
1951, Trung Quốc đã chính thức đưa ra yêu sách về chủ quyền của họ đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng bị nhiều quốc gia khác phản đối. Tuy
nhiên, sau này, Trung Quốc đã quyết định dùng sức mạnh để chiếm đoạt hoàn toàn
Hoàng Sa năm 1974.
Trung
Quốc đã thực hiện việc sử dụng vũ lực vào một bối cảnh khiến vị trí của họ
trong tranh chấp đã bị suy giảm khi: i) Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tích cực
mở rộng sự có mặt trên Hoàng Sa; ii) và các lợi ích ngày càng thấy rõ của biển
khơi, đặc biệt là tài nguyên dầu mỏ, khi thế giới đang bước vào cuộc khủng
hoảng dầu mỏ những năm 1970.
Quần
đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo chính, nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen) nằm ở phía Tây
Nam quần đảo, nhóm An Vĩnh (Amphitrite) nằm ở phía Đông Bắc. Năm 1956 quân đội
Trung Quốc đã chiếm đảo Phú Lâm (Woody) thuộc nhóm An Vĩnh (Amphitrite). Trước
đó, quân đội Pháp đã chiếm đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc nhóm Nguyệt Thiềm
(Crescen), rồi đến năm 1956, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã thay chân Pháp kiểm
soát đảo này.
Trung
Quốc, khi nhìn thấy những lợi ích của các vùng biển này, đã quyết định phải
kiểm soát được tất cả các đảo thuộc Hoàng Sa, vì trước đó, khoảng giữa những
năm 1950, các đoàn tàu thương mại của Trung Quốc đã buộc phải đi qua vùng biển
cạnh khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen). Năm 1959, quân đội Việt Nam Cộng
hòa đã tăng cường kiểm soát chặt chẽ các đảo này, buộc các ngư dân Trung Quốc
phải tránh xa khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen) này.
Tuy
Việt Nam Cộng hòa không tỏ ra có hành động đe dọa nào đối với Trung Quốc tại
nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite), với ý định mỗi bên sẽ kiểm soát các khu vực biển
thuộc xung quanh nhóm đảo mà họ đang kiểm soát, nhưng các hành động này của
Việt Nam Cộng hòa đã làm suy giảm lợi thế của Trung Quốc. Và, vì thế, Trung
Quốc đã sử dụng sức mạnh quân sự như một biện pháp để phục hồi lại vị thế lợi
ích của mình tại đây.
Vào
đầu những năm 1970, các lợi ích từ tài nguyên biển trên biển Đông trở nên rất
quan trọng, đặc biệt tại các khu vực mà các bên tranh chấp.
Năm
1970, Philippines hoàn thành việc khảo sát địa chấn tại các vùng nước xung
quanh Trường Sa, và năm 1971 bắt đầu tiến hành khoan thăm dò. Trong khi đó,
Việt Nam Cộng hòa cũng bắt đầu việc khai thác nguồn dầu khí ngoài khơi, và
tháng 7/1973 Sài Gòn đã ký kết 8 hợp đồng khoan thăm dò tại những nơi được cho
là có nhiều dầu mỏ trên biển Đông. Tháng 1 và tháng 3/1973, Việt Nam Cộng hòa
cũng đã cho tiến hành khảo sát địa chấn tại khu vực xung quanh nhóm đảo Nguyệt
Thiềm.
Còn
tháng 12/1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng công bố cho thấy triển vọng của
các giếng dầu ở ngoài khơi Vịnh bắc Bộ, phía bắc của quần đảo Hoàng Sa.
Với
những giá trị kinh tế của các nhóm đảo ngoài khơi ngày càng gia tăng, các quốc
gia khác cũng bắt đầu giành lấy những cấu trúc tại Hoàng Sa, Trường Sa, ở những
nơi mà Trung Quốc hoàn toàn không có sự hiện diện nào. Để củng cố cho các yêu
sách của mình, Philippines đã chiếm 5 đảo và đá tại Trường Sa trong khoảng thời
gian từ năm 1970 đến năm 1971. Đây là lần đầu tiên Philippines có sự hiện diện
tại vùng lãnh thổ tranh chấp này.
Tháng
9/1973, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố sáp nhập quần đảo Trường Sa vào địa bàn tỉnh
Phước Tuy. Các hành động của các quốc gia này chỉ trong chưa đầy 3 năm đã đẩy
Trung Quốc vào thế bất lợi trong tranh chấp này.
Để
đáp lại những hành động đó, Trung Quốc quyết định mở rộng sự hiện diện của mình
trên những hòn đảo ngoài khơi biển Đông, nơi có ít sự trợ giúp của các lực
lượng hải quân của các quốc gia khác.
Đặc
biệt, sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao Trạch Đông với Nixon vào đầu năm 1972, và
sự kiện Mỹ rút ra khỏi Việt Nam sau Hiệp định Paris đầu năm 1973, Bắc Kinh đã
thấy trước một khả năng mới: Họ có thể loại trừ khả năng can thiệp của Hải quân
Mỹ nếu cưỡng chiếm các hòn đảo thuộc do Việt Nam Cộng hòa quản lý.
Trung
Quốc đã sử dụng các ngư dân để gia tăng sự hiện diện của họ trên vùng biển nhóm
Nguyệt Thiềm (Crescen) từ năm 1973. Ngày 9/1/1974, các ngư dân Trung Quốc từ
đảo Hữu Nhật (Robert) áp sát tới gần đảo Hoàng Sa (Pattle) – nơi mà Việt Nam
Cộng hòa đang đóng quân trên đó. Ngày 11/1, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc
công khai thách thức Tuyên bố tháng 9/1973 của Việt Nam Cộng hòa.
Giữa
tháng 1/1974, các tình huống đối đầu trở nên căng thẳng hơn. Tiếp theo các
tuyên bố của Bắc Kinh, Sài Gòn gửi thêm một số tàu chiến tới khu vực nhóm đảo
Nguyệt Thiềm (Crescen), trục xuất các ngư dân Trung Quốc ra khỏi khu vực này.
Từ đó đã dẫn tới sự kiện ngày 19-20/1/1974, mà sau đó Trung Quốc đã giành được
quyền kiểm soát trên toàn bộ quần đảo Hoàng Sa bằng sức mạnh quân sự của mình.
Kết luận
Mục
đích làm gia tăng vị thế lợi ích là mô tả rõ nhất lý do vì sao và khi nào Trung
Quốc sử dụng vũ lực trong các tranh chấp lãnh thổ của họ với các quốc gia khác.
Hoàng Sa là một ví dụ cụ thể, Trung Quốc đã cho thấy sự quyết đoán của họ khi
vị thế của họ trong tranh chấp bị sụt giảm, đặc biệt khi gặp một đối thủ không
mạnh hoặc khi Trung Quốc kiểm soát rất ít, hoặc gần như chưa kiểm soát phần
lãnh thổ đang tranh chấp đó, Trung Quốc sẽ tìm cách ra tay.
Tuy
nhiên cho dù đã chiếm giữ toàn bộ Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn không nhận được sự
công nhận của cộng đồng quốc tế về chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa. Và như
vậy, thực sự Hoàng Sa vẫn đang là một vùng lãnh thổ tranh chấp. Việc giải quyết
tranh chấp như vậy cần phải tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế về
tranh chấp lãnh thổ.
Thế
nhưng, những sự kiện đã xảy ra đối với Hoàng Sa năm 1974 luôn là bài học kinh
nghiệm xương máu cho không chỉ Việt Nam, mà còn cho tất cả những quốc gia có
những tranh chấp lãnh thổ biển với một Trung Quốc hiện tại đầy tham vọng.
Hoàng
Việt
(Vietnamnet)
No comments:
Post a Comment