Thứ
Năm, 2 Tháng Giêng-2014
Bài
viết chỉ là hồi tưởng và những kỷ niệm rất riêng tư với giáo sư Phạm Biểu Tâm,
với tâm niệm khi viết là làm sao vượt qua được cái tôi thường tình trong một
bài tưởng niệm 100 năm ngày sinh của một vị danh sư đã để lại những dấu ấn lâu
dài trong Ngành Y của Việt Nam từ thế kỷ trước. (Ngô Thế Vinh)
*
Chỉ
còn 2 ngày nữa là kỷ niệm 100 năm ngày sinh của giáo sư Phạm Biểu Tâm
[13/12/1913]. Hôm nay ngày 11 tháng 12, 2013 là ngày giỗ của Thầy, vậy mà
cũng đã 14 năm rồi [11/12/1999], và khi thầy Tâm mất, gặp Cô để phân ưu, thì
được Cô nhắc là anh Vinh có thể có một bài viết về Thầy. Vậy mà chưa làm được
điều ấy thì Cô nay cũng đã mất.
Tiểu
sử giáo sư Phạm Biểu Tâm đã được bạn đồng môn Hà Ngọc Thuần từ Úc Châu tường
trình khá đầy đủ – tưởng cũng nên ghi lại là anh Hà Ngọc Thuần đã cùng với anh
Nghiêm Sĩ Tuấn từng là hai cây bút chủ lực của báo Y khoa Tình Thương, cùng
biên soạn một công trình giá trị “Lịch Sử Y Khoa” với bút hiệu chung Hà Hợp
Nghiêm, đăng từng kỳ trên Tình Thương cho tới khi báo đình bản 1967.
Bài
viết này chỉ là hồi tưởng, ghi lại những kỷ niệm rất riêng tư với giáo sư Phạm
Biểu Tâm – không phải từ trong các giảng đường hay bệnh viện mà là với một thầy
Tâm ngoài đời thường. Trong suốt học trình y khoa, tôi chưa từng được là môn
sinh gần gũi của Thầy nhưng lại cảm thấy rất thân thiết với Thầy trong các năm
học và cả những năm đã rời xa trường Y khoa về sau này. Chỉ đảm nhiệm chức vụ
Khoa trưởng 12 năm (1955-1967), nhưng dấu ấn ảnh hưởng của thầy Tâm trên các
thế hệ môn sinh thì lâu dài hơn nhiều, kể cả những người chưa được học hay
không biết mặt Thầy.
Rất
khác với vẻ uy nghi cao lớn của Gs Trần Quang Đệ, cũng là một nhà phẫu thuật
lừng danh khác của Việt Nam, cùng trúng tuyển kỳ thi Thạc sĩ Y khoa tại Paris
năm 1948, thầy Tâm có dáng nhỏ nhắn của một thư sinh, vẻ nhanh nhẹn của một
tráng sinh, nét mặt thầy không đẹp nhưng ngời thông minh và có thể lột tả –
theo ngôn từ của bạn đồng môn Đường Thiện Đồng thì “thầy có những nét của một
quý tướng.”
Trước
khi bước vào trường Y khoa, đã được biết tiếng về tài năng và đức độ của Gs
Phạm Biểu Tâm, được nghe nhiều giai thoại về Thầy ngoài đời thường. Thầy là một
trong những tráng sinh đầu tiên của ngành Hướng đạo Việt Nam từ những năm 1930
như biểu tượng của một thế hệ dấn thân. Tuy không là cầu thủ nhưng Thầy lại rất
hâm mộ môn bóng đá; bạn bè trong Đại học xá Minh Mạng kể lại, Thầy thường có
mặt nơi khán đài bình dân trong sân banh Tao Đàn, như mọi người Thầy cũng tung
nón hò hét sôi nổi để ủng hộ cho đội banh nhà.
Đến
khi được gặp, thì thấy thầy Tâm là một con người rất giản dị, tạo ngay được cảm
giác gần gũi và tin cậy với người đối diện nhưng vẫn luôn có đó một khoảng cách
dành cho sự kính trọng. Kỷ niệm của người viết với thầy Tâm như là những khúc
phim đứt đoạn.
Khi
tờ báo Sinh viên Y khoa Tình Thương ra đời cuối 1963, ở cương vị khoa trưởng,
giáo sư Phạm Biểu Tâm tỏ ra tâm đắc với manchette của tờ báo mang tên
“Tình Thương” mà Thầy cho rằng ý nghĩa rất phù hợp với chức năng của những
người Áo Trắng và Thầy có viết một bài éditorial trên Tình Thương để giới thiệu
tờ báo. Không nhiều biểu lộ nhưng chúng tôi hiểu rằng báo Tình Thương luôn luôn
được hỗ trợ tinh thần của Gs Khoa Trưởng. Tình Thương không chỉ là tờ báo của
những cây bút sinh viên mà khá thường xuyên còn có bài viết của các giáo sư y
khoa như Trần Ngọc Ninh, Trần Văn Bảng, Nguyễn Đình Cát, Ngô Gia Hy và Vũ Thị
Thoa…
Từ
1963 tới 1967 là một giai đoạn cực kỳ xáo trộn ở Miền Nam với liên tiếp những
cuộc biểu tình xuống đường và bãi khóa của sinh viên mà phân khoa đầu não là Y
khoa, lúc ấy vẫn còn tọa lạc nơi ngôi trường cũ 28 Trần Quý Cáp, Sài gòn. Ở
cương vị Khoa trưởng lúc đó thật khó khăn: thầy Tâm vừa phải duy trì sinh hoạt
bình thường trong giảng đường và các bệnh viện mà vẫn tôn trọng tinh thần
“tự trị đại học.” Thầy luôn luôn bao dung chấp nhận đối thoại và cũng do
lòng kính trọng Thầy, các nhóm sinh viên y khoa tranh đấu lúc đó đã hành xử có
trách nhiệm, trừ số rất ít cộng sản nằm vùng thì manh động theo chỉ thị của
Thành ủy. Tình trạng thăng trầm của trường Y khoa trong cơn lốc chính trị
với cả đổ máu ám sát tiếp tục kéo dài cho tới tháng Tư 1975. (Hình 1)
Sinh
viên Y khoa tới ngày tốt nghiệp ra trường, dân y hay quân y thì đều phục vụ
trong quân đội, với các binh chủng chọn lựa hay được chỉ định. Là những bác sĩ
trong thời chiến nên trước sau đã có một số đồng nghiệp hy sinh như các anh
Đoàn Mạnh Hoạch, Trương Bá Hân, Đỗ Vinh, Trần Ngọc Minh, Phạm Bá Lương, Nguyễn
Văn Nhứt, Trần Thái, Lê Hữu Sanh, Nghiêm Sĩ Tuấn, Phạm Đình Bách… chưa kể một
số bị chết trong các trại tù cải tạo từ Nam ra Bắc, hay trên đường vượt biển
sau này.
Riêng
những người chết hay mất tích khi vượt trại tù, ít nhất có hai bạn mà tôi quen
biết: bác sĩ Nguyễn Hữu Ân Nha Kỹ Thuật cũng là dân Đại học xá Minh Mạng, cùng
với bác sĩ Vũ Văn Quynh binh chủng Nhảy Dù là anh ruột của bác sĩ Vũ Văn Dzi
hiện ở Oklahoma.
Rất
riêng tư, tôi không thể không nhắc tới một Trần Ngọc Minh, anh sống khá trầm
lặng những năm sinh viên trong Đại học xá Minh Mạng, không những cùng dãy
7 mà còn ở ngay cạnh phòng tôi trong nhiều năm. Ra trường anh là là một y
sĩ Thủy quân Lục chiến, anh đã hy sinh trong một trận đánh khốc liệt tại thung
lũng Việt An, tỉnh Quảng Tín 1965. Ít năm sau đó, một quân y viện mới trên
đường Nguyễn Tri Phương ngay cạnh Trường Quân Y được khánh thành và mang tên
anh.
Xúc
động nhất là cái chết của Nghiêm Sĩ Tuấn, mà tôi được sinh hoạt gần gũi với anh
trong tòa soạn báo sinh viên Tình Thương. Ra trường, sự kiện Nghiêm Sĩ Tuấn
chọn binh chủng Nhảy Dù, theo người bạn thân của anh là Đặng Vũ Vương, nhận
định đó là một chọn lựa “thử thách cá nhân”. Anh đã hơn một lần bị thương sau
đó vẫn tình nguyện trở lại trận địa và đã hy sinh trên chiến trường Khe Sanh
1968 khi anh đang cấp cứu một đồng đội…
Do
mối quan tâm tới các sắc dân Thượng từ thời làm báo sinh viên, ra trường tôi
chọn phục vụ ở một đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt với địa bàn hoạt động chủ yếu là
vùng Cao nguyên; cũng trong khoảng thời gian này tôi có thêm chất liệu sống để
hoàn tất tác phẩm Vòng Đai Xanh. Mỗi khi có dịp về Sài Gòn, tôi đều tìm cách
đến thăm thầy Phạm Biểu Tâm. Trường Y khoa thì nay đã di chuyển sang một cơ sở
mới có tên là Trung Tâm Giáo dục Y khoa trên đường Hồng Bàng, Chợ Lớn. Cũng để
thấy rằng, tuy ở Sài Gòn nhưng Thầy luôn theo dõi và biết khá rõ cuộc sống quân
ngũ của những học trò của Thầy ra sao.
Sau
1975, trừ một số ít đã được di tản trước đó, số bác sĩ còn ở lại trước sau
đều bị tập trung vào các trại tù cải tạo. Từng hoàn cảnh cá nhân tuy có khác
nhau nhưng tất cả hầu như đồng một cảnh ngộ: bị giam giữ trong đói khát, với
lao động khổ sai và học tập tẩy não. Những bao gạo in nhãn “Đại Mễ” đầy mối mọt
viện trợ của Trung Quốc được đưa vào nuôi tù cải tạo trong giai đoạn này. Không
khác với các trang sách viết của Solzhenitsyn về Gulag Archipelago nhưng là
Made in Vietnam, tinh vi hơn với phần học thêm được cái ác từ Trung Quốc.
Cũng
thật trớ trêu, trại giam đầu tiên của tôi lại là Suối Máu, nơi từng là trung
tâm huấn luyện của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, một đơn vị mà tôi đã từng phục
vụ. Như một chính sách dập khuôn, không giam giữ lâu ở một nơi, cứ sau một thời
gian, các tù nhân lại bị tách ra, di chuyển đi các trại khác. Từ Suối Máu, tôi
lần lượt trải qua các trại Trảng Lớn Tây Ninh, Đồng Ban và trại cuối cùng là
Phước Long Bù Gia Mập. Một số khác thì bị đưa ta Bắc, sau này được biết là điều
kiện tù đày khắc nghiệt hơn rất nhiều.
Ra
tù ba năm sau, trở về một Sài Gòn đã thật sự hoàn toàn đổi khác. Ngôi trường cũ
28 Trần Qúy Cáp góc đường Lê Quý Đôn rợp bóng cây xanh thì nay biến thành khu
triển lãm “Tội ác Mỹ Ngụy”, không phải chỉ có trưng bày vũ khí súng đạn giết
người, chuồng cọp với đủ dụng cụ tra tấn mà còn có cả sách báo nọc độc tàn dư
văn hóa của “chủ nghĩa thực dân mới” trong đó cuốn Vòng Đai Xanh.
Một
hôm, tình cờ thấy Thầy Tâm đang đi bộ dảo bước trên khúc đường Trương
Minh Giảng gần Tòa Tổng Giám Mục nơi góc đường Phan Đình Phùng. Dừng
chiếc xe đạp cũ kỹ bên lề đường, tôi chạy tới chào Thầy. Thầy trò gặp nhau
không nói gì nhiều nhưng tôi thì đọc được những xúc cảm trong ánh mắt của Thầy.
Rất ngắn ngủi khi chia tay Thầy chỉ nhắc tôi hai điều: Vinh nên đi chụp một
hình phổi và ra ngoài rồi cũng ráng ăn thêm một chút thịt. Đôi điều dặn dò ấy
chứng tỏ Thầy Tâm biết rất rõ cảnh sống của các học trò Thầy trong trại tù cải
tạo.
Khoảng
cuối năm 1980, mấy ngày trước Tết thầy trò còn ở lại có buổi họp mặt tất niên,
bao gồm nhiều khóa, đông nhất là Y Khoa 68. Có được hai giáo sư Hoàng Tiến Bảo
và Phạm Biểu Tâm tới dự. Tâm trạng của mọi người ngổn ngang lúc đó nên “vui là
vui gượng kẻo mà”. Thầy Tâm thì không uống rượu nhưng lại có mang rượu tới để
chung vui. Thầy giơ cao chai rượu trước mặt các học trò và nói đại ý: “Lần này
thì các anh thực sự yên tâm, đây không phải là rượu giả vì là chai rượu lễ của
một Cha mới biếu tôi.” Trước sau, Thầy Tâm vẫn có một lối nói chuyện gián tiếp
với “ngôn tại ý ngoại” như vậy. Không ai là không hiểu ý Thầy, muốn nói về một “thời
kỳ giả dối” mà cả Miền Nam đang phải trải qua.
Sau
biến cố 1975, thầy Tâm vẫn có được sự kính trọng và vị nể của chế-độ mới, vì
đức độ tài-năng và nhân-cách đặc-biệt của Thầy. Thầy thì cứ như một nhà nông
biết là thời tiết không thuận lợi, nhưng vẫn cứ cắm cúi vun xới thửa đất để cấy
trồng. Trước sau, chưa bao giờ Thầy có phòng mạch tư, cuộc sống của Thầy
rất thanh bạch. Hàng ngày toàn thời gian Thầy tới nhà thương Bình Dân khám
bệnh, mổ xẻ và hết lòng chăm sóc người bệnh cùng với công việc giảng dậy cho các
thế hệ môn sinh. Chế độ mới cần tới uy tín Thầy nhưng họ vẫn không bao giờ tin
nơi Thầy. Bằng cớ là nhà của thầy Tâm ít nhất đã hai lần bị công an thành phố
xông vào lục xét. Và cứ sau một lần như vậy, không phát hiện được gì thì Thành
Ủy đã lại đứng ra xin lỗi coi đó chỉ là hành động sai trái của thuộc cấp. Sự
giải thích ấy thật ra là hai bản mặt của chế độ.
Tới
năm 1984, đã ngoài tuổi 70, sau hơn 40 năm cầm dao mổ, sống tận tụy với người
bệnh và các thế hệ môn sinh, thầy Tâm đột ngột phải nghỉ hưu vì một cơn tai
biến mạch máu não. Năm ấy tôi cũng đã qua Mỹ, đoàn tụ với gia đình xa cách đã 8
năm. Vừa chữa bệnh phổi vừa chuẩn bị đi học lại. Như truyền thống tốt đẹp của
gia đình y khoa, các bạn bè qua trước đã đem tới cho tôi những thùng sách và cả
textbooks; các bạn ấy đều đã đậu các kỳ thi, có người trước đó 3-4 năm nhưng
vẫn chờ để được nhận vào chương trình nội trú trước khi có thể lấy lại bằng
hành nghề.
Tôi
đã phạm một lầm lẫn lúc đó, vội vàng học rồi thi FLEX/ ECFMG tuy đậu nhưng với
số điểm thấp, có nghĩa là vào giai đoạn “đóng cửa” ấy rất ít hy vọng được nhận
vào bất cứ một chương trình thực tập bệnh viện nào. Con đường trở lại y nghiệp
xa vời vợi. Một giáo sư UCLA giới thiệu tôi vào chương trình MPH/ Master of
Public Health, đây có thể là một cánh cửa khác, với cấp bằng Y Tế Công
Cộng, tôi hy vọng có thể làm việc với WHO / Tổ chức Y tế Thế giới của Liên Hiệp
Quốc tại các nước vùng Đông Nam Á hoặc Phi Châu.
Cũng
lúc đó tôi được gặp giáo sư Hoàng Tiến Bảo và luôn luôn được thầy Bảo khuyến
khích. Thầy Bảo thì sáng nào cũng từ nhà đi xe bus tới nhà thờ dự lễ trước khi
tới USC. Mỗi ngày hai thầy trò đều đặn vào Norris Medical Library ngồi học, chờ
ngày thi lại; cùng với Thầy đi làm clinical fellow không lương ở
Department of Medicine / Hypertension Service với các Gs DeQuattro, Gs Barndt –
không gì hơn để có được letters of recommendation của các giáo sư Mỹ,
đồng thời làm quen thêm với môi trường bệnh viện bên này. Cho dù trước 1975
thầy Bảo cũng đã du học về Orthopaedics ở Mỹ và tôi thì cũng đã có một thời
gian tu nghiệp về Rehab ở San Francisco.
Hệ
thống y khoa Mỹ lạnh lùng và tàn nhẫn với bất cứ một bác sĩ ngoại quốc nào tới
Mỹ theo diện di dân muốn hành nghề trở lại, cách đối xử khác xa với thành phần
du học nếu sau đó trở về nước. Nhưng cũng có một nhận định khác cho rằng đó là
sự tuyển chọn rất công bằng chỉ có ở nước Mỹ. Không là ngoại lệ, cả hai thầy
trò phải đi lại từ bước đầu; trong khi đó ai cũng biết Thầy Bảo xứng đáng ở
cương vị một giáo sư chỉnh trực giỏi của một trường y khoa. Sau này, có thời
gian làm việc tại các bệnh viện New York, tôi cũng đã chứng kiến hoàn cảnh vị
giáo sư ObGyn đáng kính người Ba Lan phải đi làm EKG technician, rồi một bác sĩ
giải phẫu người Nga thì làm công việc của một respiratory therapist. Họ là thế
hệ thứ nhất tới Mỹ với tuổi tác không thể đi lại từ đầu nên chấp nhận hy sinh
lót đường cho thế hệ thứ hai vươn lên.
Thầy
Bảo thì chỉ chú tâm lo cho học trò nhiều hơn là cho chính Thầy. Thầy đã từng
đích thân đi xe bus tới nhà khuyên một học trò của Thầy nên tiếp tục học thay
vì bỏ cuộc. Cho dù sắp tới ngày thi cử, thầy Bảo cũng vẫn dẫn một phái đoàn lên
Sacramento tranh đấu cho các học trò của Thầy ra trường sau 1975 được công nhận
là tương đương và quyền trở lại y nghiệp.
Rồi
cũng là một kết thúc có hậu. Thầy Bảo thi đậu dễ dàng rồi hoàn tất năm nội trú
và có bằng hành nghề trở lại ở California. Riêng tôi thì phải khá vất vả thi
lại hai ngày FMGEMS với score phải khá hơn trên 80 để có thể được các chương
trình Residency nhận đơn và cho phỏng vấn. Vào tháng Ba 1988 qua ngả National
Resident Matching Program/ NRMP, tôi được nhận vào một chương trình nội
khoa của các bệnh viện Đại học ở New York. Cũng thầy Bảo là người đầu tiên chia
vui với tin tưởng là học trò của Thầy cũng sẽ qua được chặng đường 3 năm trước
mặt. Thầy Hoàng Tiến Bảo thì nay cũng đã mất (20/ 01/ 2008), tôi và cả rất
nhiều học trò khác không bao giờ quên ơn và nhớ mãi tấm gương sáng với tấm lòng
quảng đại và đầy nhân hậu của Thầy.
Trở
lại làm nội trú muộn màng ở cái tuổi 47, từ New York qua bạn Đường Thiện Đồng,
tôi được tin thầy Phạm Biểu Tâm mới được cùng gia đình đoàn tụ và sống với các
con ở Mỹ 1989 – cũng đã 5 năm kể từ ngày Thầy bị tai biến mạch máu não. Có được
địa chỉ của Thầy ở Santa Ana California, tôi viết thơ thăm thầy Tâm và được
Thầy hồi âm bằng lá thư viết tay. Nét chữ của Thầy còn rất đẹp. Tôi nhớ là thầy
Tâm thuận tay phải và đoán chừng Thầy chỉ bị liệt nửa người bên trái.
[1]
Santa Ana, 25-8-1989. Anh Vinh, tôi đã nhận được thiếp bưu điện anh gửi thăm
tôi và gia đình. Thấy lại nét chữ lại nhớ lại hình ảnh của anh từ lúc anh còn ở
Saigon. Sau này tôi có dịp trở lại chỗ anh làm việc cũ mà anh không ngờ,
đó là Trung tâm Chỉnh Hình ở Bà Huyện Thanh Quan và Hiền Vương vì lúc ấy tôi đã
sang giai đoạn vật lý trị liệu đều đều vì bệnh mới của tôi. Các cô tập cho tôi
ở đây hỏi tôi có biết BS Vinh không? Tôi đã giả lời “Biết lắm chứ!” Rồi tôi nhớ
lại tập sách anh viết và gởi cho xem lúc anh còn ở trong quân đội một thời
gian…
Khoảng
1971-72 tôi có cơ duyên được đi học về Rehabilitation Medicine ở Letterman
General Hospital, Presidio San Francisco, nên sau này với chuyên môn ấy, tôi có
một thời gian giảng dạy và làm việc ở Trung tâm Y khoa Phục Hồi, 70 Bà Huyện
Thanh Quan Sài Gòn. Một số các cô chuyên viên Vật Lý Trị Liệu được tôi đào tạo
trong các khóa học này. Và thật không thể ngờ, ở một tình huống quá đặc
biệt, trong nghiệp vụ thường nhật, các cô học trò cũ ấy lại được vinh dự chăm
sóc một vị danh sư và cũng chính là bậc thầy của “thầy dậy các cô”.
Hình
như Gs Phạm Biểu Tâm và Gs Nguyễn Hữu đã sang thăm đất nước Mỹ rất sớm. Khi
nhận được một Postcard tôi gửi từ New York, thầy Tâm viết: “Anh Vinh
làm tôi nhớ lại lần đầu tiên tôi đã đặt chân xuống thành phố New York năm 1951
cách đây non một nửa thế kỷ rồi ! Lúc ấy
còn là thời kỳ đi xem Empire State Building và Rockefeller Center là lúc thấy
cái nào cũng ngẩng cổ lên mà đếm từng lầu. Cũng chả đếm hết được, rồi cảm giác
đi “Ascenseur Tàu Suốt” một mạch được luôn mấy từng. Bây giờ đỡ thèm đi trở lại
nhiều – thời nào cũng có cái thú của thời ấy.”
Qua
một năm nội trú, từ New York với mùa đông giá lạnh ngập tuyết bước sang mùa hè
nóng ẩm quá độ, nay tôi mới lại có dịp trở về vùng California nắng ấm để thăm
thầy Tâm. Trong cảnh tha hương, cảm động và mừng tủi biết bao nhiêu khi được
gặp lại Thầy, trên một lục địa mới ở một nơi xa quê nhà hơn nửa vòng trái đất.
Được cầm bàn tay ấm áp và mềm mại của thầy Tâm trong bàn tay mình, rồi như từ
trong tiềm thức của một hướng đạo sinh ngày nào, tôi xiết nhẹ bàn tay trái của
Thầy và chỉ có thể nói với Thầy một câu thật bâng khuâng “…đôi bàn tay này
Thầy đã cứu sống biết nhiêu người.” “Có gì đâu Vinh.” Thầy xúc động
và nghẹn ngào nói thêm một câu gì đó mà tôi không nghe rõ. Tôi hiểu rằng sau
tai biến mạch máu não, người bệnh đều ít nhiều trải qua những biến đổi sâu xa
về mọi phương diện ngoài thương tật thể chất, còn có những thay đổi về xúc động
tình cảm và tâm lý. Và tôi nhận thấy được sự thay đổi nơi Thầy, từ một con
người rất trầm tĩnh nay trở thành dễ bị xúc động về sau này. (Hình 2)
Thầy
Tâm còn rất minh mẫn, trí nhớ hầu như nguyên vẹn khi Thầy nhắc về những ngày ở
bệnh viện Phủ Doãn Hà Nội cho tới bệnh viện Bình Dân và trường Y Nha Dược ở Sài
Gòn. Hồi ức ấy nếu được ghi lại, đây sẽ là những trang tài liệu vô giá nếu
không muốn nói là độc nhật vô nhị cho bộ sách Lịch sử Trường Y Khoa.
Tôi
mạn phép đề nghị đem tới Thầy một tape recorder thật gọn nhẹ để được
Thầy đọc và ghi âm về những điều Thầy còn nhớ về Trường Y Khoa và sau đó tôi
hứa sẽ làm công việc transcript. Nhưng tôi được thầy Tâm trấn an ngay: “Vinh
đừng lo, công việc ấy đã có anh Nguyễn Đức Nguyên đảm trách và anh ấy sẽ làm
chu đáo.” Tôi cảm thấy yên tâm vì được biết anh Nguyên trước đó cũng đã
hoàn tất bộ sách rất công phu: Bibliographie des Thèses de Médecine [Tome I:
Hanoi 1935-1954, Saigon 1947-1970; Tome II: Saigon 1971-1972, Hue 1967-19720].
Khi
tôi trở lại New York, Thầy còn viết thư để tôi có thể liên lạc với anh
Nguyễn Đức Nguyên, lúc ấy anh đang sống ở bang Maryland.
[2]
Santa Ana 12-8-1990. Anh Vinh, cảm ơn anh đã dành thì giờ và tìm đến thăm tôi
và cũng để cho tôi thăm lại anh. Trước hết xin phép trả nợ đã. Chép cho anh địa
chỉ anh Nguyên như sau:
N.
D. NGUYÊN c/o Kathy Nguyên
11616
Stewart Lane Apt # 302
Silver
Spring, MD 20904
Thế
là khỏi quên. Mong anh sẽ gặp lại được người làm đúng cái anh mong. Vì anh ấy đã
có ý định rồi, anh cũng sẽ yên tâm. Thân ái chào anh, Phạm Biểu Tâm.
Giã
từ New York sau 3 năm “cải tạo tự nguyện” – đây là ngôn từ của Vũ Văn Dzi, hành
nghề ở Oklahoma VA là bạn đồng môn đã qua Mỹ trước từ 1979. Tôi trở về
California năm 1991, làm việc trong một bệnh viện VA ở Long Beach mà bệnh nhân
thì đa số là các cựu chiến binh Mỹ trở về từ Việt Nam. Thời gian này, tôi vẫn
giữ liên lạc khá thường xuyên với anh Nguyễn Đức Nguyên, được theo dõi từng
bước về công trình của anh Nguyên.
[3]
Silver Spring, Feb 11, 1994. Anh Vinh thân mến, Anh có nhắc “Lịch sử
Trường Y khoa Hà Nội – Sài Gòn” ở trang đề tựa khiến tôi thích thú bội phần;
tôi vẫn nhớ anh khuyến khích tôi viết tập sách này từ lâu. Có thể nói phần đầu
tới 1945 coi là xong rồi; phần Trường Y về ta tới 1954 và đến khi vào Sài Gòn
cho tới khi có Hoa Kỳ giúp chính phủ Ngô Đình Diệm cải tổ giáo dục – nhất là
giáo dục y khoa – thì còn thiếu một số tài liệu cần thiết: tôi đã nhờ một cô Mỹ
trước làm với USOM Sài Gòn kiếm dùm; tôi cũng viết thư cho mấy người bác sĩ Hoa
Kỳ trước kia cộng tác với Chương trình Trung tâm Y khoa để mượn tài liệu và
hình ảnh. Archives của State Department rộng mênh mông, phải có chuyên viên mới
tìm được. Sau khi AMA ký contract năm 1966-67 thì đã có cuốn sách “Saigon Medical
School: An Experiment in International Medical Education” của các ông Ruhe,
Singer & Hoover viết khá đầy đủ, chắc anh đã đọc rồi chứ? Sở dĩ lâu là vì
chờ tài liệu và hình ảnh để bổ túc và cho sách thêm phần hấp dẫn; nếu chỉ có
chữ không thì ít người muốn đọc…
Trong
một thư khác anh Nguyên viết:
[4]
Silver Spring, Dec 28, 1995. Cảm ơn anh đã hỏi thăm về tập Lịch sử Trường Y.
Tài liệu thu thập đầy đủ cho phần đầu (Hà Nội – 1954). Còn phần thứ hai (Sài
Gòn – 1975) đang tìm thêm ở Bộ Ngoại Giao / State Department cho đủ viết từ
thời kỳ có viện trợ Mỹ. Tiện đây tôi muốn hỏi anh về việc liên quan tới xuất
bản sách ở bên này: nhà xuất bản lo từ đầu tới cuối và mình sẽ hưởng tác quyền
như thế nào? Nếu mình trình bày bằng “computer” và chỉ cần đưa in thì họ sẽ tính
thế nào? Tôi dự tính sang chơi California trước Tết ta, nếu đi được sẽ tin để
anh biết và có thể hẹn gặp nhau ở đâu nói chuyện dài về sách vở. Thân,
Nguyễn Đức Nguyên
Khi
được anh Nguyên hỏi về việc xuất bản sách ở hải ngoại, tôi lạc quan nghĩ rằng
tác phẩm “Lịch sử Trường Y khoa Hà Nội – Sài Gòn” của anh đã bước vào
giai đoạn hoàn tất. Anh Nguyên thì cầu toàn, muốn có một tác phẩm thật ưng ý
mới cho ra mắt. Riêng tôi thì lại có mối quan tâm khác anh. Bởi vì anh Nguyên
cũng đã bước qua khá xa tuổi “cổ lai hy” và điều gì cũng có thể xảy ra. Tôi nhớ
đã có lần bày tỏ với anh Nguyên là chờ một tác phẩm toàn hảo thì không biết đến
bao giờ và đề nghị với anh cứ cho xuất bản những gì anh đã hoàn tất, sau đó anh
vẫn có thời gian và cơ hội để hoàn chỉnh.
Nhưng
rồi rất tiếc là sau đó tôi mất liên lạc với anh Nguyễn Đức Nguyên, anh đã đổi
địa chỉ, số phone và cả email. Được biết Anh Nguyên cũng gần tuổi với Gs Trần
Ngọc Ninh, năm nay 2013 anh cũng bước vào tuổi thượng thọ 90 rồi. Tôi cầu mong
công trình của anh sẽ không bị thất lạc, rồi ra tác phẩm sẽ được ra mắt như sự
tin cậy và mong đợi của giáo sư Phạm Biểu Tâm từ mấy thập niên của thế kỷ
trước.
Ngày 13 tháng 12 năm 2013, nhân 100 năm ngày sinh của giáo sư
Phạm Biểu Tâm 1913-2013, các thế hệ sau nhìn lại để thấy rằng thầy Tâm là người
đã dày công xây dựng một trường Đại học Y khoa có truyền thống, cùng với một
ban giảng huấn đầy khả năng và thành phần sinh viên được tuyển chọn công
bằng và nghiêm khắc, dù trong chiến tranh, ngôi trường ấy vẫn có tiềm lực vươn
tới một Trung tâm Y Khoa hiện đại với đẳng cấp thế giới / world-class; vậy
mà từ sau 1975 cả một nền tảng tốt đẹp ấy đã bị chế độ cộng sản hoàn toàn làm
cho băng hoại.
Nhớ
lại khoảng thời gian được gần gũi với thầy Tâm, với tôi Thầy như một biểu tượng
sống động cho lời thề Hippocrates, luôn luôn là tấm gương sáng cho các thế hệ y
khoa, không chỉ về tài năng chuyên môn mà cả về đạo đức nghề nghiệp; Thầy vẫn
cứ mãi mãi là hình ảnh “sẵn sàng dấn thân” của một Tráng Sinh Bạch Mã Lên
Đường.
California
11/12/2013
NGÔ THẾ VINH
Attachment
3 photos & captions:
Hình
1: Gs Phạm Biểu Tâm nói chuyện với SVYK trong một giảng đường 28
Trần Quý Cáp, Sàigòn sau vụ Thầy bị bắt trước biến cố 1963. [nguồn: Life
Magazine]
Hình
2: Giáo sư Phạm Biểu Tâm và môn sinh Ngô Thế Vinh tại nhà riêng của
Thầy, thành phố Tustin, Santa Ana 1990. [photo by Đường Thiện Đồng]
Hình
3: Thư và bút tích Giáo sư Phạm Biểu Tâm viết ngày 12 tháng 8 năm 1990
No comments:
Post a Comment