Đỗ Xuân
Tê
02-01-2014
Chẳng phải bây giờ mà từ 1974 tôi đã đựơc nghe
chuyện Biển Đông một thời sủi bọt khi
bạn tôi, Hạm phó của một tàu Hải quân VNCH, thuật lại trận tử chiến Hoàng Sa
khi anh trở về từ vùng biển chết.
Ấy vậy mà đã bốn thập niên tính đến 19-1 năm nay.
Bạn tôi hiện đang sống ở Úc, người hạm trưởng của anh đang ở San Jose (Mỹ). Cả
hai vẫn kín tiếng, chưa một lần phát biểu hay tham gia bất cứ cuộc hội thảo nào
liên quan đến trận đánh.
Không phải các anh bàng quan với thời cuộc, cũng
chẳng phải thiếu lòng tự hào khi tham dự một trận đánh để đời đã đi vào
quân sử, mà hình như hai người đầu đàn của một khu trục hạm năm xưa vẫn mang
niềm u uẩn của những con sói biển khi cảm thấy uất ức vì để mất Hoàng Sa cho bá
quyền Trung quốc và cảm thương sâu sắc cho người đồng đội, Hạm trưởng Ngụy văn
Thà (hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10) cùng 123 thủy thủ của lực lượng hải chiến VNCH
đã ở lại với biển.
Cách đây mấy năm, anh có sang Mỹ chơi, trùng hợp với
những ngày có hiện tượng ‘lưỡi bò’, trong tình bạn bè vừa là người ưa viết
lách, tôi có gợi ý anh cho tôi một số chi tiết hoặc cảm nghĩ về cái
ngày tháng giêng 19 khi bốn con tầu của Hải quân Việt nam rẽ sóng ra khơi từ bờ
biển Đà nẵng theo lệnh của Tư lệnh tối cao Nguyễn văn Thiệu bằng mọi giá tiến
chiếm lại Hoàng Sa, khi bản thân anh vẫn còn là nhân chứng sống của một thiên
bi hùng sử mà một thời ngưòi ta chưa đánh giá đúng mức hay lường trước
được hậu quả chiến lược về chủ quyền biển đảo di hại đến nhiều thế hệ con cháu
sau này.
Như biết được suy nghĩ của tôi, anh vẫn khiêm tốn góp ý là những gì về Hoàng Sa ngày ấy thì sách, báo, chứng cứ lịch sử, cá nhân, tập thể cả trong lẫn ngoài nước đã nói nhiều, nói chung đều trung thực và khả tín. Rồi như sợ tôi mất lòng, anh từ chối khéo khi lấy một tập quán chỉ huy dù không thành văn của hải quân là khi hạm trưởng còn sống mà chưa ‘lên tiếng’ sẽ là một sự bất kính khi hạm phó hoặc những người theo tầu được phép phát ngôn.
Anh nghiêm túc thổ lộ điều anh trăn trở là cần làm
nổi bật cho các thế hệ sau tinh thần bất khuất của Ngụy văn Thà và những
người con yêu của biển đã hi sinh trong trận hải chiến tuy thiếu cân bằng về
tương quan lực lượng nhưng không hề khiếp nhược về mặt quyết chiến quyết tử khi
đối mặt với kẻ thù cướp đảo mà âm mưu xâm lược và ý đồ thôn tính đã có một lịch
sử lâu đời từ thuở Bạch Đằng giang.
Thật sự ngôn từ của anh vốn bộc trực như tính cách của người lính, không hẳn bóng bảy như tôi viết lại, nhưng trong câu chuyện trao đổi anh vẫn tỏ ý buồn là cái chết của những người đồng đội của anh chưa được đánh giá và tri ân đúng mức. Tất nhiên huy chương nào cũng có mặt trái, chiến công nào đôi khi cũng có sự thổi phồng, nhưng một trận đánh nếu không thắng thì tất yếu nó vẫn bị đánh giá thấp và những tác nhân xoay quanh cuộc chiến rất dễ bị lãng quên, nếu không muốn nói đôi khi còn bị phẩm bình soi mói.
Cứ theo ý của anh, thì sự kiện Hoàng Sa năm 1974
không thể hiểu như vậy và cũng không thể xếp vào trường hợp này, mà ta phải kể
đến bối cảnh của miền Nam thời ấy, một thời điểm cuộc chiến sắp tàn, một hiệp
định đình chiến bó tay khi phải đối phó với người anh em nội thù miền bắc, lại
hết thời hậu thuẫn của nguời bạn đồng minh bên kia đại dương, lực bất
tòng tâm vẫn phải đơn phương chống chỏi với kẻ thù xâm lược khi mà người trong
nhà gà cùng một mẹ không đồng tình chia sẻ, trong cách hiểu nào đó lại án binh
bất động tỏ tình quốc tế vô sản với người ‘vừa là đồng chí vừa là anh em’.
Qua câu chuyện tôi cũng thấy anh phàn nàn khi cỗ máy
tuyên truyền, cùng những người lãnh đạo của chúng tôi, ngày ấy đã không mở một
chiến dịch quảng bá sâu rộng ý nghĩa cuộc chiến tranh cướp đảo và ý đồ của bọn
Trung quốc, và sự hi sinh cao cả, kiên cường của những người lính biển,
mà phần nào đặt nặng những chiến công trên rừng trên đất, mãi lo cho chiến dịch
lấn đất giành dân sau hiệp định Paris, nên thiếu ngợi ca những người con
yêu đã ở lại với biển, ghi công chiếu lệ với những người sống sót trở về mà nay nhìn lại, dù một chế độ đã bị
bức tử thì sự hi sinh của họ vẫn là ‘những
người yêu nước, chết vì nước’ không thể nào là ‘ngụy’ như lời ngợi ca của
nhà thơ Trần Mạnh Hảo, một người lính bên kia chiến tuyến đã công bằng đánh
giá. Bài thơ mang tên, ‘Người anh hùng họ
Ngụy’ (lần đầu tôi được đọc trên QC) về sau được phổ biến khá rộng rãi trên
báo in, báo mạng khi sự kiện Biển Đông tháng giêng năm đó không còn là
chuyện của một thời đất nước phân đôi.
Ngẫm lại, cái gì cũng có luật bù trừ, thời gian
sẽ là nhân chứng đứng về phía chính nghĩa. Giờ đây từ bắc chí nam, từ trong
nước ra hải ngoại, đều biết đến tên tuổi Ngụy Văn Thà, người anh hùng đã
phát lệnh xung kích, bắn phát hỏa đạn đầu tiên, sau lần cảnh cáo tàu địch
không chịu rút khỏi lãnh hải chủ nhà; hết đạn, bị thương nặng, không chịu tải
thương, ở lại tàu cùng chết với đồng đội, chết theo tàu khi trúng hỏa tiễn của
địch, vĩnh viễn ở lại với biển.
Nay nhìn lại Hoàng Sa từ một thời điểm 40 năm
sau phát súng lệnh đầu tiên của con tàu Nhật Tảo, tác giả có ít dòng hoài niệm
vinh danh những anh hùng của trận đánh Hoàng Sa, và tin rằng lịch sử sẽ đánh
giá công bằng về họ như những người con yêu đã ‘ngã xuống vì Hoàng Sa thiêng
liêng’ (cụm từ nhà báo Huy Đức đã dùng trên facebook khi kêu gọi tiếp tay hoàn
chỉnh danh sách 74 tử sĩ mà cơ bản ông mới sưu tra được).
Nhân đây cũng có lời trân trọng việc làm khách quan
mang tính nghiệp vụ cao khi được xem một tư liệu về cuộc hải chiến Hoàng Sa do
Đài truyền hình tỉnh Đồng Nai công chiếu nhân dịp 39 năm sự kiện Hoàng Sa. Tư
liệu này thực hiện bởi phía VNCH như một ‘nhân chứng vật thể’ mà trớ trêu thay
giờ này người viết mới có dịp được xem và lượng giá.
Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả
VIDEO :
Đài Truyền Hình Đồng Nai Việt Nam cộng sản phát hình Hải
Chiến Hoàng Sa VNCH (Dec 12, 2013)
No comments:
Post a Comment