Wednesday, 16 January 2013

MỘT VÀI SUY NGHĨ về BÀI CỦA CỤ NGUYỄN TRỌNG VĨNH (Trần Bích Đăng)




Trần Bích Đăng
Chi tiết
Được đăng ngày Thứ ba, 15 Tháng 1 2013 11:18

Anh Bằng Phong đã phê phán bài  “Từ Đảng Cộng sản lúc ban đầu đến Đảng Cộng sản hiện nay” của cụ Nguyễn Trọng Vĩnh: “Do đó, bây giờ tôi phải viết thư này gửi Cụ để những bạn trẻ trong nước đừng bị các nhà “cách mạng lão thành” mắc chứng hoang tưởng “Chủ Nghĩa Xã Hội” mà tin vào cái quá khứ huyễn hoặc của một thời tăm tối”.

Tôi tìm đọc bài này và thấy rằng cụ Vĩnh nhắc lại công lao của Đảng Cộng Sản thời gian khổ đánh đuổi Thực Dân và từ đó phân biệt với đảng Cộng Sản ngày nay hại dân hại nước …

Anh trích phần đầu bài viết của cụ Nguyễn Trọng VĩnhCó những phần tử chống cộng cực đoan phủ định toàn bộ Đảng CSVN, họ nhắm mắt trước thời kỳ huy hoàng của Đảng CS Đông Dương, Đảng Lao động VN (cũng là Đảng cộng sản). Họ không thấy được sự hy sinh dũng cảm và công lao to lớn của Đảng đối với dân tộc. ĐCS sinh ra vì nước vì dân, không phải vì lợi ích riêng tư nào của Đảng. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp hàng nghìn, hàng nghìn đảng viên bất chấp tra tấn, tù đày, hàng chục đồng chí lãnh đạo của Đảng bị lên máy chém, bị bắt, nếu không có Đảng CS lãnh đạo nhân dân vùng lên làm cách mạng Tháng 8 thì sao có nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, bản đồ Việt Nam lại xuất hiện trên quả địa cầu. Uy tín của Đảng rất lớn, Đảng không có quyền gì và cũng không cần quyền (chưa có điều 4) vẫn lãnh đạo được nhân dân, nhân dân hết lòng tin yêu Đảng, bảo vệ Đảng.”

Nhưng anh lại không nhắc đến đoạnNếu tình hình chính trị xã hội như trên cứ kéo dài, tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán cứ tiếp diễn thì đến một lúc nào đó dân bức xúc đến cực độ, tức nước vỡ bờ, khắp nơi bùng nổ thì bộ máy đàn áp hung ác rất to cũng không ngăn nổi.
Chỉ có một con đường sáng là lãnh đạo quay lại với dân, dựa vào, kiên quyết thật sự loại trừ tham nhũng, thực hiện dân chủ, tin tưởng trí thức yêu nước, trọng dụng nhân tài, phát huy tinh thần tự lực tự cường, thực hiện chính sách ngoại giao độc lập tự chủ, không chỉ hữu hảo với Trung Quốc mà quan hệ mật thiết với các nước lớn như Ấn, Nga, Nhật, Mỹ vì lợi ích chung, tăng cường quốc phòng, vũ trang, giáo dục phát huy truyền thống dũng cảm kiên cường của lực lượng vũ trang. Có như thế mới giữ được độc lập chủ quyền để đưa đất nước tiến lên, tránh được nguy cơ trở thành thuộc địa kiểu mới của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.”

Nhưng anh Bằng Phong ơi, cho phép tôi hỏi nhen: “Thế thì bạn trẻ trong nước phải và nên tin ai, tin cái gì ?”

Tất cả những dẫn chứng và kết án của anh là có cơ sở - Chủ nghĩa Cộng Sản và các chế độ Cộng Sản đã bị Thế Giới kết án ruồng bỏ … Cái đó nó đã và đang xảy ra – Từ một Liên Xô Cộng Sản sụp đổ đến một Trung Cộng biến thể thành một chế độ Tư Bản Đỏ với tất cả những đặc tính của một đảng mafia … Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay cũng thế …

Gorbachev là người khởi xướng làm tan rã chế độ Liên Sô Cộng Sản. Gorbatchev có phải là Cộng Sản không? Ông ta lúc ấy chẳng những là Cộng Sản mà còn là Tổng Bí Thư Cộng Sản nữa.

Trong Việt Minh chỉ có 3% là thuộc đảng Cộng Sản Việt Nam (dưới danh xưng đảng Lao Động) còn 97% kia là những người yêu nước vì khát khao Độc Lập đánh đuổi Thực Dân Pháp, trong đó có những người như con Hùm Xám Đặng Văn Việt, BS Nguyễn Khắc Viện, Giáo Sư Nguyễn Mạnh Tường và rất nhiều người khác … Nhiều người trong số đó đã bỏ Việt Minh vì không chịu được cái tàn bạo gọi là “bạo lực cách mạng” của những người lãnh đạo Việt Minh là những người Cộng Sản …

Nói như thế, có rất nhiều người Cộng Sản trong lòng họ, trong tham vọng của họ là những người chỉ muốn làm sao cho Dân Tộc được thực sự hạnh phúc, ấm no, Đất Nước được Độc Lập Tự Do Dân Chủ. Và cho đến ngày nay những người thuộc thế hệ Điện Biên như cụ Nguyễn Trọng Vĩnh, như huynh trưởng Đặng Văn Việt, ông Hoàng Minh Chính v.v. Tiếng nói trong sáng của họ có giá trị dẫn đắt tinh thần yêu nước phất cao ngọn cờ Tổ Quốc chống lại mọi con người Chiêu Thống, chống lại mọi thái độ âm mưu bán nước, chống lại mọi mưu toan của người Tầu … Tiếng nói của họ không xứng đáng để được nghe sao, anh Bằng Phong ?

Nói cho tôi biết đi anh. Tuổi trẻ bây giờ phải nghe ai trong khi họ hang ngày bị buộc phải học chủ nghĩa Mác Lê Nin, học cái gọi là Chủ Nghĩa Xã Hội mà chính những kẻ rêu rao cũng không định nghĩa ra nó là gì. Tuổi trẻ Việt Nam hàng nghe bị vây quanh những lý luận “lề phải”, bị đàn áp vì mấy chữ “Hoàng Sa – Trường Sa”. Nói đi anh, các em phải nghe ai? Lẫn trong những đảng viên Cộng Sản vẫn còn nhiều người vì dân vì nước, đâu đó một Gorbachev đang cựa mình.

Lý luận của anh không sai nhưng nó làm lẫn lộn, hỏa mù. Bất cứ chế độ hay triều đại nào hại dân, hại nước đều đáng bị nguyền rủa và người dân trước sau gì cũng lật nó xuống và thường là được khởi đầu có những lời nói, tuyên ngôn mang tính hiệu triệu. Lịch sử nhiều lần đã chứng minh điều đó. Một tiếng nói yêu nước, có trọng lượng sẽ có nhiều tác động quần chúng. Điều đơn giản ai cũng hiểu.

Nói đi anh? Tuổi trẻ Việt Nam, là cả hơn nữa dân số, nghe ai bây giờ?
Trần Bích Đăng

--------------------------

Phụ lục 1:

Nguyễn Trọng Vĩnh
27-12-2012

LTS Bauxite Việt Nam:Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, lão thành cách mạng 96 tuổi đời, cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, nguyên ủy viên Trung ương đảng vừa gửi đến BVN một bài viết trình bày các nhận định cá nhân về sự thay đổi của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ. Chúng tôi xin trân trọng đăng nguyên bài viết của ông, để bạn đọc xa gần tham khảo.

Có những phần tử chống cộng cực đoan phủ định toàn bộ Đảng CSVN, họ nhắm mắt trước thời kỳ huy hoàng của Đảng CS Đông Dương, Đảng Lao động VN (cũng là Đảng cộng sản). Họ không thấy được sự hy sinh dũng cảm và công lao to lớn của Đảng đối với dân tộc. ĐCS sinh ra vì nước vì dân, không phải vì lợi ích riêng tư nào của Đảng. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp hàng nghìn, hàng nghìn đảng viên bất chấp tra tấn, tù đày, hàng chục đồng chí lãnh đạo của Đảng bị lên máy chém, bị bắt, nếu không có Đảng CS lãnh đạo nhân dân vùng lên làm cách mạng Tháng 8 thì sao có nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, bản đồ Việt Nam lại xuất hiện trên quả địa cầu. Uy tín của Đảng rất lớn, Đảng không có quyền gì và cũng không cần quyền (chưa có điều 4) vẫn lãnh đạo được nhân dân, nhân dân hết lòng tin yêu Đảng, bảo vệ Đảng.

Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lòng tin của nhân dân thì làm gì có trận thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” giải phóng nửa nước? Tuy có sai lầm trong cải cách ruộng đất, Tổng bí thư Trường Chinh từ chức, Bác Hồ xin lỗi dân, và sửa sai, dân lại tín nhiệm Đảng và theo Đảng.

Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Lao động ViệtNamvà Bác Hồ được dân tin thì sao có thể đánh thắng đế quốc Mỹ hiện đại, giàu mạnh hơn ta gấp nhiều lần, thực hiện được hoàn toàn độc lập thống nhất. Uy tín của ViệtNamrất cao, được thế giới khâm phục.

Thực tế trên đây là giai đoạn hào hùng của dân tộc việtNamcũng là giai đoạn quang vinh của Đảng cộng sản Việt Nam (Đảng Lao động ViệtNam).

Tuy nhiên cũng không thể đồng nhất Đảng Cộng sản từ giai đoạn này trở về trước với Đảng CS từ đấy cho đến hiện nay.Mọi vật không ngừng hoạt động. Tùy theo bối cảnh, môi trường và vai trò của người lãnh đạo từng thời gian mà Đảng cũng biến thiên, chuyển hóa. Nhận xét Đảng phải căn cứ vào thực tiễn, vì thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.

Từ sau thắng lợi năm 1975, trong lãnh đạo xuất hiện tư tưởng chủ quan duy ý chí, cho rằng từ nay trở đi “không có kẻ địch nào dám xâm phạm nước ta”, rồi chủ trương nhập tỉnh, nhập huyện đi lên “sản xuất lớn XHCN”, tuyên bố qua vài năm, nhà nhà sẽ có tivi, tủ lạnh… Kết quả không như ý muốn. Thêm vào đó lại chậm xóa bỏ bao cấp khiến sản xuất trì trệ, rồi cải tạo công thương nghiệp miền Nam, khiến kinh tế càng khó khăn, ảnh hưởng đến đời sống, nhân dân thiếu tin tưởng, nội bộ lãnh đạo cũng có vấn đề, lại bị Trung Quốc tấn công bất ngờ tháng 2/1979, uy tín của Đảng bắt đầu giảm.

Đến cuối nhiệm kỳ Đại hội Đảng 5 sang nhiệm kỳ Đại hội 6, lãnh đạo đổi mới tư duy, xóa bỏ bao cấp, thực hiện “Khoán 10”, cởi trói cho nông dân. Kinh tế có chiều khá lên, nhân dân có hy vọng,uy tín của Đảng phần nào được phục hồi. Nhưng sau đó không lâu, Liên Xô tan rã, các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, nước ta lại gặp không ít khó khăn. Điều bất hạnh là cuối nhiệm kỳ Đại hội 6, trong cuộc hội đàm với Trung Quốc ở Thành Đô nhằm lập lại quan hệ bình thường giữa hai nước, phái đoàn ta đã chấp nhận sự áp đặt của Trung Quốc không được nhắc cuộc xâm lăng của họ tháng 2/1979 và phải gạt bỏ Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, người đã sớm nhận ra những mưu đồ xấu xa của giới cầm quyền bá quyền bành trướng đối với nước ta, luôn cảnh giác đối với họ.Từ đó họ tiếp tục lấn lướt ta. Trong hiệp định biên giới đất liền họ ăn của ta mất nửa thác Bản Giốc, và nhiều đất đai trong đàm phán về vịnh Bắc Bộ, họ không chịu chấp nhận hiệp ước Pháp – Thanh do lịch sử để lại, đòi chia lại, lại ăn hơn của ta nhiều km2 trên vịnh.

Nhiệm kỳ của Tổng bí thư Đỗ Mười cũng không có gì khởi sắc, đồng thời tham nhũng phát triển kể cả ở cấp cao đến nỗi phát biểu trong một hội nghị, nguyên TBT Nguyễn Văn Linh đã nói: “dột từ nóc dột xuống”. Thêm vào đó, có vụ TBT Đỗ Mười nhận 1 triệu đô la do chính phủ Hàn Quốc tặng trong dịp ông sang thăm nước này, không nộp ngân sách, dư luận xầm xì, ảnh hưởng đến tín nhiệm với Đảng.

Được Trung ương giao trọng trách, TBT Lê Khả Phiêu chủ trương kiên quyết chống tham nhũng và chỉnh đốn Đảng, nhân dân trông chờ, nhưng chạm đến những quan chức “có vấn đề”, lại chủ trương bỏ chức cố vấn, nên bị những người mất quyền lợi phản ứng, chỉ mới nửa nhiệm kỳ đã bị nhóm cố vấn do Lê Đức Anh chủ trì lật đổ. Ông còn bị dư luận xì xèo vì cho là đã bán đất của Tổ Quốc trong đàm phán biên giới.

Từ đại hội Đảng IX, TBT Nông Đức Mạnh nắm quyền lãnh đạo đến nay, Trung Quốc càng lấn át, chi phối mạnh hơn, can thiệp vào nhân sự nội bộ ta, mua rừng, mua đất, vào khai thác bauxite Tây Nguyên, làm nhiều việc phá hoại kinh tế ta, liên tiếp hành động ngang ngược ở biển Đông, đưa hàng vạn người Trung Quốc rải khắp nước ta, cố tình ép ta đi vào quỹ đạo của họ.

Thêm nữa, qua hoạt động của TBT Nông Đức Mạnh bộc lộ trình độ yếu kém, nhân dân chế giễu gọi là ông “cây gì, con gì”, đã thế ông lại có thái độ áp đặt. Nhiều khiếu nại, tố cáo không đưa ra Trung ương thảo luận, hoặc thảo luận nửa vời rồi “khoanh lại”, nhiều kiến nghị tâm huyết của cán bộ lão thành cách mạng, trí thức và tướng lĩnh yêu nước bị xếp xó. Uy tín của Đảng bị giảm sút.

Đến nhiệm kỳ thứ 2 của TBT Nông Đức Mạnh đồng thời với ông Nguyễn Tấn Dũng lên làm Thủ tướng, đất nước còn xấu đi thậm tệ.

Tham nhũng tràn lan, kinh tế sa sút, hàng vạn doanh nghiệp phá sản, đạo đức, văn hoá xuống thấp, tệ nạn xã hội phát triển, lệ thuộc chưa thoát.

Về Đảng, một bộ phận không nhỏ đảng viên, kể cả một số đảng viên cao cấp suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, có nghĩa là Đảng cũng suy thoái, không còn như giai đoạn trước kia.

Chưa bao giờ thấy nhiều cấm, nhiều tăng như hiện nay.

Cấmcông nhân đình công tự phát, cấm biểu tình, cấm tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, cấm phản biện, cấm tụ tập đông người, cấm khiếu kiện tập thể, cấm đảng viên cùng ký khiếu kiện với dân dù quyền lợi cũng bị xâm phạm như dân, cấm đảng viên ứng cử tự do đại biểu quốc hội, không cho người quá 60 tuổi được ứng cử đại biểu Quốc hội (vi phạm hiến pháp), hạn chế công dân ngoài Đảng chỉ được 15% trong Quốc hội, hóa ra là Đảng hội, không còn đúng nghĩa là cơ quan đại diện của toàn dân nữa.

Tăngviện phí, tăng học phí, tăng giá điện, tăng giá nước, tăng giá xăng dầu, tăng đóng góp, tăng lấy đất của nông dân đưa cho nhà đầu tư địa ốc xây chung cư cao tầng quá nhiều, thừa ế, tăng thất nghiệp do xí nghiệp phá sản và dân cày mất đất, tăng thất thoát tiền của nhà nước, tăng nợ xấu ngân hàng, tăng nợ nước ngoài, tăng lạm phát, tiền mất giá thảm hại, mớ rau, con cá đắt đỏ, đời sống đa số dân chật vật.

Sau hội nghị Trung ương 6, mọi người thất vọng, mất hết lòng tin, uy tín của Đảng xuống thấp hơn bao giờ hết.
Nếu tình hình chính trị xã hội như trên cứ kéo dài, tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán cứ tiếp diễn thì đến một lúc nào đó dân bức xúc đến cực độ, tức nước vỡ bờ, khắp nơi bùng nổ thì bộ máy đàn áp hung ác rất to cũng không ngăn nổi.

Chỉ có một con đường sáng là lãnh đạo quay lại với dân, dựa vào, kiên quyết thật sự loại trừ tham nhũng, thực hiện dân chủ, tin tưởng trí thức yêu nước, trọng dụng nhân tài, phát huy tinh thần tự lực tự cường, thực hiện chính sách ngoại giao độc lập tự chủ, không chỉ hữu hảo với Trung Quốc mà quan hệ mật thiết với các nước lớn như Ấn, Nga, Nhật, Mỹ vì lợi ích chung, tăng cường quốc phòng, vũ trang, giáo dục phát huy truyền thống dũng cảm kiên cường của lực lượng vũ trang. Có như thế mới giữ được độc lập chủ quyền để đưa đất nước tiến lên, tránh được nguy cơ trở thành thuộc địa kiểu mới của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.

Nguyễn Trọng Vĩnh
Nguồn: boxitvn.net

Phụ lục 2:

05:02:pm 05/01/13


---------------------------------------

Bình luận


#1 Hữu Văn   2-31-1 12:24

Thưa ông Trần Bích Đăng,
Không nên bệnh vực ông Nguyễn Trọng Vĩnh dù ta cảm phục lòng yêu nước và nghị lực của một người 96 tuổi vẫn còn trăn trở với dân tộc và đất nước.

Để kể công lao của Đảng CS ông Nguyễn trọng Vĩnh đặt câu hỏi: "Nếu không có đảng CSVN..."? Xin trả lời thẳng thắn: nếu không có ĐCSVN thì đất nước VN đã khá hơn nhiều rồi chứ không đến nỗi nghèo khổ, tụt hậu và bị xiềng xích như hiện nay.

Ông Nguyễn Trọng Vĩnh nói DCSVN ngày xưa tốt, ngày nay xấu. Sai hoàn toàn, sai 101%. Đảng cộng sản ngày nay dù tồi tệ như ta đã thấy vẫn còn hơn đảng cộng sản ngày xưa rất nhiều. Đảng cộng sản ngày xưa là một đảng khủng bố khát máu. Nó đã thẳng tay tàn sát các đảng phái quốc gia, nó đã tàn sát 172.008 người vô tội trong chiến dịch cải cách rưộng đất, nó đã thẳng tay trù dập trí thức, văn nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Nó đã ký công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 nhìn nhận chủ quyền của TQ trên Hoàng Sa và Trường Sa. Công lao của nó chỉ là đã phát động cuộc nội chiến Nam Bắc vô ích và độc hại làm 4 triệu người Việt Nam thiệt mạng.
Một lập luận không đúng có thể có tác dụng tốt nhưng tới một lúc nào đó trở thành có hại nếu cứ tiếp tục.

Những lập luận kiểu "Bác Hồ ngày trước không như thế, Đảng ngày xưa tốt lắm v.v." trước dây có tác dụng khởi động sự phản kháng. Ngày nay chúng có tác dụng ngược lại là bênh vực chế độ vì còn cho nó một sự chính đáng lịch sử mà nó hoàn toàn không có. Chúng ta không cần những lập luận này nữa.











No comments:

Post a Comment

View My Stats