Trần Bích Đăng
Được đăng ngày Thứ ba, 15 Tháng 1 2013 11:18
Anh
Bằng Phong đã phê phán bài “Từ Đảng Cộng sản lúc ban đầu đến Đảng Cộng sản hiện nay” của cụ Nguyễn Trọng Vĩnh: “Do
đó, bây giờ tôi phải viết thư này gửi Cụ để những bạn trẻ trong nước đừng bị
các nhà “cách mạng lão thành” mắc chứng hoang tưởng “Chủ Nghĩa Xã Hội” mà tin
vào cái quá khứ huyễn hoặc của một thời tăm tối”.
Tôi tìm đọc bài này và thấy rằng cụ Vĩnh
nhắc lại công lao của Đảng Cộng Sản thời gian khổ đánh đuổi Thực Dân và từ đó
phân biệt với đảng Cộng Sản ngày nay hại dân hại nước …
Anh trích phần đầu bài viết của cụ Nguyễn Trọng Vĩnh “Có những phần tử chống cộng cực đoan phủ định toàn
bộ Đảng CSVN, họ nhắm mắt trước thời kỳ huy hoàng của Đảng CS Đông Dương, Đảng
Lao động VN (cũng là Đảng cộng sản). Họ không thấy được sự hy sinh dũng cảm và
công lao to lớn của Đảng đối với dân tộc. ĐCS sinh ra vì nước vì dân, không
phải vì lợi ích riêng tư nào của Đảng. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp
hàng nghìn, hàng nghìn đảng viên bất chấp tra tấn, tù đày, hàng chục đồng chí
lãnh đạo của Đảng bị lên máy chém, bị bắt, nếu không có Đảng CS lãnh đạo nhân
dân vùng lên làm cách mạng Tháng 8 thì sao có nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời, bản đồ Việt Nam lại xuất hiện trên quả địa cầu. Uy tín của Đảng rất lớn,
Đảng không có quyền gì và cũng không cần quyền (chưa có điều 4) vẫn lãnh đạo
được nhân dân, nhân dân hết lòng tin yêu Đảng, bảo vệ Đảng.”
Nhưng anh lại không nhắc đến đoạn “Nếu tình hình chính trị xã hội như trên cứ kéo dài,
tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán cứ tiếp diễn thì đến một lúc nào đó dân bức
xúc đến cực độ, tức nước vỡ bờ, khắp nơi bùng nổ thì bộ máy đàn áp hung ác rất
to cũng không ngăn nổi.
Chỉ có một con đường sáng là lãnh đạo quay
lại với dân, dựa vào, kiên quyết thật sự loại trừ tham nhũng, thực hiện dân
chủ, tin tưởng trí thức yêu nước, trọng dụng nhân tài, phát huy tinh thần tự
lực tự cường, thực hiện chính sách ngoại giao độc lập tự chủ, không chỉ hữu hảo
với Trung Quốc mà quan hệ mật thiết với các nước lớn như Ấn, Nga, Nhật, Mỹ vì
lợi ích chung, tăng cường quốc phòng, vũ trang, giáo dục phát huy truyền thống
dũng cảm kiên cường của lực lượng vũ trang. Có như thế mới giữ được độc lập chủ
quyền để đưa đất nước tiến lên, tránh được nguy cơ trở thành thuộc địa kiểu mới
của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.”
Nhưng anh Bằng Phong ơi, cho phép tôi hỏi nhen: “Thế thì bạn trẻ trong nước phải
và nên tin ai, tin cái gì ?”
Tất cả những dẫn chứng và kết án của anh là
có cơ sở - Chủ nghĩa Cộng Sản và các chế độ Cộng Sản đã bị Thế Giới kết án
ruồng bỏ … Cái đó nó đã và đang xảy ra – Từ một Liên Xô Cộng Sản sụp đổ đến một
Trung Cộng biến thể thành một chế độ Tư Bản Đỏ với tất cả những đặc tính của
một đảng mafia … Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay cũng thế …
Gorbachev là người khởi xướng làm tan rã
chế độ Liên Sô Cộng Sản. Gorbatchev có phải là Cộng Sản không? Ông ta lúc ấy
chẳng những là Cộng Sản mà còn là Tổng Bí Thư Cộng Sản nữa.
Trong Việt Minh chỉ có 3% là thuộc đảng
Cộng Sản Việt Nam (dưới danh xưng đảng Lao Động) còn 97% kia là những người yêu
nước vì khát khao Độc Lập đánh đuổi Thực Dân Pháp, trong đó có những người như
con Hùm Xám Đặng Văn Việt, BS Nguyễn Khắc Viện, Giáo Sư Nguyễn Mạnh Tường và
rất nhiều người khác … Nhiều người trong số đó đã bỏ Việt Minh vì không chịu
được cái tàn bạo gọi là “bạo lực cách mạng” của những người lãnh đạo Việt Minh
là những người Cộng Sản …
Nói như thế, có rất nhiều người Cộng Sản
trong lòng họ, trong tham vọng của họ là những người chỉ muốn làm sao cho Dân
Tộc được thực sự hạnh phúc, ấm no, Đất Nước được Độc Lập Tự Do Dân Chủ. Và cho
đến ngày nay những người thuộc thế hệ Điện Biên như cụ Nguyễn Trọng Vĩnh, như
huynh trưởng Đặng Văn Việt, ông Hoàng Minh Chính v.v. Tiếng nói trong sáng của
họ có giá trị dẫn đắt tinh thần yêu nước phất cao ngọn cờ Tổ Quốc chống lại mọi
con người Chiêu Thống, chống lại mọi thái độ âm mưu bán nước, chống lại mọi mưu
toan của người Tầu … Tiếng nói của họ không xứng đáng để được nghe sao, anh
Bằng Phong ?
Nói cho tôi biết đi anh. Tuổi trẻ bây giờ
phải nghe ai trong khi họ hang ngày bị buộc phải học chủ nghĩa Mác Lê Nin, học
cái gọi là Chủ Nghĩa Xã Hội mà chính những kẻ rêu rao cũng không định nghĩa ra
nó là gì. Tuổi trẻ Việt Nam hàng nghe bị vây quanh những lý luận “lề phải”, bị
đàn áp vì mấy chữ “Hoàng Sa – Trường Sa”. Nói đi anh, các em phải nghe ai? Lẫn
trong những đảng viên Cộng Sản vẫn còn nhiều người vì dân vì nước, đâu đó một
Gorbachev đang cựa mình.
Lý luận của anh không sai nhưng nó làm lẫn
lộn, hỏa mù. Bất cứ chế độ hay triều đại nào hại dân, hại nước đều đáng bị
nguyền rủa và người dân trước sau gì cũng lật nó xuống và thường là được khởi
đầu có những lời nói, tuyên ngôn mang tính hiệu triệu. Lịch sử nhiều lần đã
chứng minh điều đó. Một tiếng nói yêu nước, có trọng lượng sẽ có nhiều tác động
quần chúng. Điều đơn giản ai cũng hiểu.
Nói đi anh? Tuổi trẻ Việt Nam, là cả hơn
nữa dân số, nghe ai bây giờ?
Trần Bích Đăng
--------------------------
Phụ lục 1:
Nguyễn Trọng Vĩnh
27-12-2012
LTS Bauxite Việt Nam:Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, lão thành cách mạng 96
tuổi đời, cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, nguyên ủy
viên Trung ương đảng vừa gửi đến BVN một bài viết trình bày các nhận định cá
nhân về sự thay đổi của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ. Chúng tôi xin
trân trọng đăng nguyên bài viết của ông, để bạn đọc xa gần tham khảo.
Có những phần tử chống cộng cực đoan phủ
định toàn bộ Đảng CSVN, họ nhắm mắt trước thời kỳ huy hoàng của Đảng CS Đông
Dương, Đảng Lao động VN (cũng là Đảng cộng sản). Họ không thấy được sự hy sinh
dũng cảm và công lao to lớn của Đảng đối với dân tộc. ĐCS sinh ra vì nước vì
dân, không phải vì lợi ích riêng tư nào của Đảng. Dưới ách thống trị của thực
dân Pháp hàng nghìn, hàng nghìn đảng viên bất chấp tra tấn, tù đày, hàng chục
đồng chí lãnh đạo của Đảng bị lên máy chém, bị bắt, nếu không có Đảng CS lãnh
đạo nhân dân vùng lên làm cách mạng Tháng 8 thì sao có nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, bản đồ Việt Nam lại xuất hiện trên quả địa cầu. Uy tín của
Đảng rất lớn, Đảng không có quyền gì và cũng không cần quyền (chưa có điều 4)
vẫn lãnh đạo được nhân dân, nhân dân hết lòng tin yêu Đảng, bảo vệ Đảng.
Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Lao động
Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lòng tin của nhân dân thì làm gì có trận
thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” giải phóng nửa nước?
Tuy có sai lầm trong cải cách ruộng đất, Tổng bí thư Trường Chinh từ chức, Bác
Hồ xin lỗi dân, và sửa sai, dân lại tín nhiệm Đảng và theo Đảng.
Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Lao động
ViệtNamvà Bác Hồ được dân tin thì sao có thể đánh thắng đế quốc Mỹ hiện đại,
giàu mạnh hơn ta gấp nhiều lần, thực hiện được hoàn toàn độc lập thống nhất. Uy
tín của ViệtNamrất cao, được thế giới khâm phục.
Thực tế trên đây là giai đoạn hào hùng của
dân tộc việtNamcũng là giai đoạn quang vinh của Đảng cộng sản Việt Nam (Đảng
Lao động ViệtNam).
Tuy nhiên cũng không thể đồng nhất Đảng
Cộng sản từ giai đoạn này trở về trước với Đảng CS từ đấy cho đến hiện nay.Mọi
vật không ngừng hoạt động. Tùy theo bối cảnh, môi trường và vai trò của người
lãnh đạo từng thời gian mà Đảng cũng biến thiên, chuyển hóa. Nhận xét Đảng phải
căn cứ vào thực tiễn, vì thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Từ sau thắng lợi năm 1975, trong lãnh đạo xuất
hiện tư tưởng chủ quan duy ý chí, cho rằng từ nay trở đi “không có kẻ địch nào
dám xâm phạm nước ta”, rồi chủ trương nhập tỉnh, nhập huyện đi lên “sản xuất
lớn XHCN”, tuyên bố qua vài năm, nhà nhà sẽ có tivi, tủ lạnh… Kết quả không như
ý muốn. Thêm vào đó lại chậm xóa bỏ bao cấp khiến sản xuất trì trệ, rồi cải tạo
công thương nghiệp miền Nam, khiến kinh tế càng khó khăn, ảnh hưởng đến đời
sống, nhân dân thiếu tin tưởng, nội bộ lãnh đạo cũng có vấn đề, lại bị Trung
Quốc tấn công bất ngờ tháng 2/1979, uy tín của Đảng bắt đầu giảm.
Đến cuối nhiệm kỳ Đại hội Đảng 5 sang nhiệm
kỳ Đại hội 6, lãnh đạo đổi mới tư duy, xóa bỏ bao cấp, thực hiện “Khoán 10”,
cởi trói cho nông dân. Kinh tế có chiều khá lên, nhân dân có hy vọng,uy tín của
Đảng phần nào được phục hồi. Nhưng sau đó không lâu, Liên Xô tan rã, các nước
XHCN Đông Âu sụp đổ, nước ta lại gặp không ít khó khăn. Điều bất hạnh là cuối
nhiệm kỳ Đại hội 6, trong cuộc hội đàm với Trung Quốc ở Thành Đô nhằm lập lại
quan hệ bình thường giữa hai nước, phái đoàn ta đã chấp nhận sự áp đặt của
Trung Quốc không được nhắc cuộc xâm lăng của họ tháng 2/1979 và phải gạt bỏ Bộ
trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, người đã sớm nhận ra những mưu đồ xấu xa của
giới cầm quyền bá quyền bành trướng đối với nước ta, luôn cảnh giác đối với
họ.Từ đó họ tiếp tục lấn lướt ta. Trong hiệp định biên giới đất liền họ ăn của
ta mất nửa thác Bản Giốc, và nhiều đất đai trong đàm phán về vịnh Bắc Bộ, họ
không chịu chấp nhận hiệp ước Pháp – Thanh do lịch sử để lại, đòi chia lại, lại
ăn hơn của ta nhiều km2 trên vịnh.
Nhiệm kỳ của Tổng bí thư Đỗ Mười cũng không
có gì khởi sắc, đồng thời tham nhũng phát triển kể cả ở cấp cao đến nỗi phát
biểu trong một hội nghị, nguyên TBT Nguyễn Văn Linh đã nói: “dột từ nóc dột
xuống”. Thêm vào đó, có vụ TBT Đỗ Mười nhận 1 triệu đô la do chính phủ Hàn Quốc
tặng trong dịp ông sang thăm nước này, không nộp ngân sách, dư luận xầm xì, ảnh
hưởng đến tín nhiệm với Đảng.
Được Trung ương giao trọng trách, TBT Lê
Khả Phiêu chủ trương kiên quyết chống tham nhũng và chỉnh đốn Đảng, nhân dân
trông chờ, nhưng chạm đến những quan chức “có vấn đề”, lại chủ trương bỏ chức
cố vấn, nên bị những người mất quyền lợi phản ứng, chỉ mới nửa nhiệm kỳ đã bị
nhóm cố vấn do Lê Đức Anh chủ trì lật đổ. Ông còn bị dư luận xì xèo vì cho là
đã bán đất của Tổ Quốc trong đàm phán biên giới.
Từ đại hội Đảng IX, TBT Nông Đức Mạnh nắm
quyền lãnh đạo đến nay, Trung Quốc càng lấn át, chi phối mạnh hơn, can thiệp
vào nhân sự nội bộ ta, mua rừng, mua đất, vào khai thác bauxite Tây Nguyên, làm
nhiều việc phá hoại kinh tế ta, liên tiếp hành động ngang ngược ở biển Đông,
đưa hàng vạn người Trung Quốc rải khắp nước ta, cố tình ép ta đi vào quỹ đạo
của họ.
Thêm nữa, qua hoạt động của TBT Nông Đức
Mạnh bộc lộ trình độ yếu kém, nhân dân chế giễu gọi là ông “cây gì, con gì”, đã
thế ông lại có thái độ áp đặt. Nhiều khiếu nại, tố cáo không đưa ra Trung ương
thảo luận, hoặc thảo luận nửa vời rồi “khoanh lại”, nhiều kiến nghị tâm huyết
của cán bộ lão thành cách mạng, trí thức và tướng lĩnh yêu nước bị xếp xó. Uy
tín của Đảng bị giảm sút.
Đến nhiệm kỳ thứ 2 của TBT Nông Đức Mạnh
đồng thời với ông Nguyễn Tấn Dũng lên làm Thủ tướng, đất nước còn xấu đi thậm
tệ.
Tham nhũng tràn lan, kinh tế sa sút, hàng
vạn doanh nghiệp phá sản, đạo đức, văn hoá xuống thấp, tệ nạn xã hội phát
triển, lệ thuộc chưa thoát.
Về Đảng, một bộ phận không nhỏ đảng viên,
kể cả một số đảng viên cao cấp suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống, có nghĩa là Đảng cũng suy thoái, không còn như giai đoạn trước kia.
Chưa bao giờ thấy nhiều cấm, nhiều tăng như
hiện nay.
Cấmcông nhân đình công tự phát, cấm biểu
tình, cấm tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, cấm phản biện, cấm tụ tập đông
người, cấm khiếu kiện tập thể, cấm đảng viên cùng ký khiếu kiện với dân dù
quyền lợi cũng bị xâm phạm như dân, cấm đảng viên ứng cử tự do đại biểu quốc
hội, không cho người quá 60 tuổi được ứng cử đại biểu Quốc hội (vi phạm hiến
pháp), hạn chế công dân ngoài Đảng chỉ được 15% trong Quốc hội, hóa ra là Đảng
hội, không còn đúng nghĩa là cơ quan đại diện của toàn dân nữa.
Tăngviện phí, tăng học phí, tăng giá điện,
tăng giá nước, tăng giá xăng dầu, tăng đóng góp, tăng lấy đất của nông dân đưa
cho nhà đầu tư địa ốc xây chung cư cao tầng quá nhiều, thừa ế, tăng thất nghiệp
do xí nghiệp phá sản và dân cày mất đất, tăng thất thoát tiền của nhà nước,
tăng nợ xấu ngân hàng, tăng nợ nước ngoài, tăng lạm phát, tiền mất giá thảm
hại, mớ rau, con cá đắt đỏ, đời sống đa số dân chật vật.
Sau hội nghị Trung ương 6, mọi người thất
vọng, mất hết lòng tin, uy tín của Đảng xuống thấp hơn bao giờ hết.
Nếu tình hình chính trị xã hội như trên cứ
kéo dài, tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán cứ tiếp diễn thì đến một lúc nào đó
dân bức xúc đến cực độ, tức nước vỡ bờ, khắp nơi bùng nổ thì bộ máy đàn áp hung
ác rất to cũng không ngăn nổi.
Chỉ có một con đường sáng là lãnh đạo quay
lại với dân, dựa vào, kiên quyết thật sự loại trừ tham nhũng, thực hiện dân
chủ, tin tưởng trí thức yêu nước, trọng dụng nhân tài, phát huy tinh thần tự
lực tự cường, thực hiện chính sách ngoại giao độc lập tự chủ, không chỉ hữu hảo
với Trung Quốc mà quan hệ mật thiết với các nước lớn như Ấn, Nga, Nhật, Mỹ vì
lợi ích chung, tăng cường quốc phòng, vũ trang, giáo dục phát huy truyền thống
dũng cảm kiên cường của lực lượng vũ trang. Có như thế mới giữ được độc lập chủ
quyền để đưa đất nước tiến lên, tránh được nguy cơ trở thành thuộc địa kiểu mới
của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.
Nguyễn Trọng Vĩnh
Nguồn: boxitvn.net
Nguồn: boxitvn.net
Phụ lục 2:
05:02:pm
05/01/13
---------------------------------------
Bình luận
Thưa ông Trần Bích Đăng,
Không nên bệnh vực ông Nguyễn Trọng Vĩnh dù ta cảm phục lòng yêu nước và nghị lực của một người 96 tuổi vẫn còn trăn trở với dân tộc và đất nước.
Để kể công lao của Đảng CS ông Nguyễn trọng Vĩnh đặt câu hỏi: "Nếu không có đảng CSVN..."? Xin trả lời thẳng thắn: nếu không có ĐCSVN thì đất nước VN đã khá hơn nhiều rồi chứ không đến nỗi nghèo khổ, tụt hậu và bị xiềng xích như hiện nay.
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh nói DCSVN ngày xưa tốt, ngày nay xấu. Sai hoàn toàn, sai 101%. Đảng cộng sản ngày nay dù tồi tệ như ta đã thấy vẫn còn hơn đảng cộng sản ngày xưa rất nhiều. Đảng cộng sản ngày xưa là một đảng khủng bố khát máu. Nó đã thẳng tay tàn sát các đảng phái quốc gia, nó đã tàn sát 172.008 người vô tội trong chiến dịch cải cách rưộng đất, nó đã thẳng tay trù dập trí thức, văn nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Nó đã ký công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 nhìn nhận chủ quyền của TQ trên Hoàng Sa và Trường Sa. Công lao của nó chỉ là đã phát động cuộc nội chiến Nam Bắc vô ích và độc hại làm 4 triệu người Việt Nam thiệt mạng.
Một lập luận không đúng có thể có tác dụng tốt nhưng tới một lúc nào đó trở thành có hại nếu cứ tiếp tục.
Những lập luận kiểu "Bác Hồ ngày trước không như thế, Đảng ngày xưa tốt lắm v.v." trước dây có tác dụng khởi động sự phản kháng. Ngày nay chúng có tác dụng ngược lại là bênh vực chế độ vì còn cho nó một sự chính đáng lịch sử mà nó hoàn toàn không có. Chúng ta không cần những lập luận này nữa.
Không nên bệnh vực ông Nguyễn Trọng Vĩnh dù ta cảm phục lòng yêu nước và nghị lực của một người 96 tuổi vẫn còn trăn trở với dân tộc và đất nước.
Để kể công lao của Đảng CS ông Nguyễn trọng Vĩnh đặt câu hỏi: "Nếu không có đảng CSVN..."? Xin trả lời thẳng thắn: nếu không có ĐCSVN thì đất nước VN đã khá hơn nhiều rồi chứ không đến nỗi nghèo khổ, tụt hậu và bị xiềng xích như hiện nay.
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh nói DCSVN ngày xưa tốt, ngày nay xấu. Sai hoàn toàn, sai 101%. Đảng cộng sản ngày nay dù tồi tệ như ta đã thấy vẫn còn hơn đảng cộng sản ngày xưa rất nhiều. Đảng cộng sản ngày xưa là một đảng khủng bố khát máu. Nó đã thẳng tay tàn sát các đảng phái quốc gia, nó đã tàn sát 172.008 người vô tội trong chiến dịch cải cách rưộng đất, nó đã thẳng tay trù dập trí thức, văn nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Nó đã ký công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 nhìn nhận chủ quyền của TQ trên Hoàng Sa và Trường Sa. Công lao của nó chỉ là đã phát động cuộc nội chiến Nam Bắc vô ích và độc hại làm 4 triệu người Việt Nam thiệt mạng.
Một lập luận không đúng có thể có tác dụng tốt nhưng tới một lúc nào đó trở thành có hại nếu cứ tiếp tục.
Những lập luận kiểu "Bác Hồ ngày trước không như thế, Đảng ngày xưa tốt lắm v.v." trước dây có tác dụng khởi động sự phản kháng. Ngày nay chúng có tác dụng ngược lại là bênh vực chế độ vì còn cho nó một sự chính đáng lịch sử mà nó hoàn toàn không có. Chúng ta không cần những lập luận này nữa.
No comments:
Post a Comment