11-1-2013
Có lẽ lãnh đạo Đảng Cộng sản
Việt Nam (ĐCSVN) quan niệm rằng
- quy định về quyền lãnh đạo
của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội, và
- quy định đất đai thuộc sở
hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý
tại Điều 4 và Điều 17–18 của Hiến pháp 1992 là hai tử huyệt của chế độ. Vì
vậy, dư luận càng muốn hủy bỏ hoặc sửa đổi hai quy định đó, thì họ càng kiên
quyết bảo lưu. Chúng nằm trong định hướng bất di, bất dịch của lãnh đạo đảng,
và được tái thể hiện tại Điều 4 vàĐiều 57 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Tử huyệt độc quyền
lãnh đạo
Trong thế giới văn minh, quyền
lãnh đạo đất nước của một đảng chính trị chỉ có thể giành được thông qua tranh
đấu và bầu cử dân chủ. Kể cả khi đang cầm quyền,đảng vẫn phải phấn đấu liên
tục, để thuyết phục Nhân dân tin tưởng và tiếp tục trao cho quyền lãnh đạo.
Không thể lấy công lao trong
một giai đoạn quá khứ để bù lại cho hiện tại yếu kém, với bao sai lầm, tội lỗi,
và áp đặt cho cả tương lai vô định. Nếu cứ từng có công là được cầm quyền vĩnh viễn, thì ĐCSVN phải trả lại
chính quyền cho triều đình nhà Nguyễn, và triều đình nhà Nguyễn lại phải trả
lại chính quyền cho các triều đình trướcđó. Thế là khởi động cho một quá trình
truy hồi dằng dặc, mà không thể tìm được điểm kết thúc. Hơn nữa, thời gian qua
đi, giờ đây nắm quyền lực bao trùm đất nước lại là những người vốn chỉ đi
theo hoặc ăn theo cách mạng, hay từng được cách mạng o bế và cưu mang mà thôi.
Nếu họ từng có công, thì chưa chắc bù nổi những lỗi lầm đã gây ra. Phần lớn
những người có công đáng kể, những công thần của chế độ, đã qua đời, hoặc nếu
còn sống thì đã về hưu, và có lẽ đang đau lòng vì phải chứng kiến sự nghiệp
cách mạng của thế hệ mình bị phản bội.
Không thể coi quyền lãnh đạo đất nước của bất kỳ
đảng phái nào là đương nhiên, và vì vậy không thể ghi điều đó vào Hiến pháp. Vả lại, nếu quyền đó đã là đương nhiên, được mọi
người mặc nhiên thừa nhận, thì cũng chẳng cần ghi vào Hiến pháp làm gì, để khỏi
gây phản cảm một cách không cần thiết. Nếu một điều không phải là đương
nhiên và không được tất cả mọi người thừa nhận, mà vẫn bất chấp, áp đặt bằng
được trong Hiến pháp, thì chỉ riêng việc làm đó đã khắc họa xong tính dân chủ
và tính hợp pháp của đảng và chế độ.
Nếu ĐCSVN được đa số Nhân dân
tin cậy và ủng hộ, thì bất cứ cuộc tổng tuyển cử dân chủ nào cũng đưa lại một
kết quả tất yếu, đó là trao cho đảng quyền lãnh đạo đất nước. Cho nên, khi khẳng định rằng "bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát",
thì có nghĩa đã mặc nhiên thừa nhận thực trạng tệ hại của đảng, khiến đa số Nhân
dân không thể đồng tình ủng hộ và chắc chắn sẽ không bầu cho đảng. Nếu nghĩ là
mình không còn xứng đáng, không còn được đa số Nhân dân tín nhiệm, mà vẫn dùng
Hiến pháp để áp đặt bằng được vai trò lãnh đạo, thì có còn tử tế và vì Dân nữa
hay không?
Con người muốn tồn tại và phát
triển thì không thể khước từ thử thách, không thể lẩn tránh đối đầu. Ngược lại,
phải chấp nhận thử thách, vượt qua thử thách mà vươn lên. Nếu một đứa trẻ luôn
được o bế trong căn nhà vừa được vô trùng, vừa được điều hòa nhiệt độ một cách
tuyệt đối, thì sẽ dễ bị đổ bệnh khi ra khỏi cửa. Nếu con cái được bố mẹ quá bao
cấp, kèm cặp từng li từng tí, thì sẽ dễ ngã gục khi bước vào cuộc sống tự lập
trong xã hội. Để tránh bệnh tật, hàng tỷ người trên thế giới chấp nhận tiêm
vắc-xin, nhằm phát triển khả năng miễn dịch, tức là chủ động đưa cơ thể mình
vào trạng thái thử thách. Muốn khỏe, con người không thể ỳ ra, mà phải thường
xuyên khổ luyện dưới hình thức thể dục. Không có cạnh tranh, không có thi đua
(thực chất), thì con người không thể khá lên được.
Không chỉ từng cá thể, mà cả
quần thể, với tư cách tổ chức, đảng phái, hay cả xã hội, cũng phải biết đương
đầu với thử thách. Vì biết tận dụng cuộc cạnh tranh giữa hai hệ thống chính trị
trên thế giới để tự hoàn thiện, để giành phần thắng trong cuộc chiến tranh
lạnh, nên các nước tư bản hàng đầu đã phát triển vượt bậc, không chỉ về kinh
tế, khoa học và công nghệ, mà cả về dân chủ và phúc lợi xã hội, cũng như về
quyền con người.
Ngược lại, các nước trong phe
xã hội chủ nghĩa đã xử lý sai tình huống và quan hệ địch ta. Nhìn đâu cũng thấy
địch, kể cả trong Dân, nên nhiều khi đối xử với Dân cũng giống như với địch,
khiến dần dần mất Dân. Ỷ thế vào cường quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đầu têu
trong việc cấm đảng phái khác hoạt động, để rồi sau này ĐCSVN cũng nối gót sai
lầm. Các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa chấp nhận đa đảng, nhưng cũng chỉ
là hình thức. Dân chủ xã hội và quyền
con người bị bóp nghẹt, khiến tinh thần và trí tuệ cũng bị lụi tàn. Tưởng
rằng như vậy thì các đảng cộng sản sẽ rảnh tay, có thể tập trung lực lượng
chiến đấu với kẻ thù chính ở hệ thống bên kia, nhưng kết quả thì ngược lại.
Kinh tế suy sụp, lòng Dân ly tán, khiến hệ thống chính trị được dày công xây
dựng suốt hơn nửa thế kỷ bị phá từ trong phá ra, đổ rụp trong chốc lát, làm cho
đối thủ cũng bị bất ngờ đến ngỡ ngàng.
Họa đôi khi cũng là phúc, nếu
biết rút ra bài học hợp lý từ thảm họa. Nếu quay ra chấp nhận cạnh tranh một cách dân chủ
trong xã hội đa đảng, đa nguyên, ĐCSVN sẽ buộc phải lựa chọn những người lãnh đạo thuộc
loại ưu tú nhất, và chắc chắn sẽ chọn được hàng ngũ lãnh đạo tốt hơn gấp
bội lần so với đội hình đương nhiệm, kể cả tài lẫn đức. Mọi phần tử thoái hóa, tham
nhũng sẽ bị vạch trần và bị đào thải.Trong ba triệu đảng viên không
thiếu người tài, người tốt. Vấn đề là phải dùng dân chủ để giải phóng tiềm năng
bị độc quyền giam hãm bấy lâu. Không chỉ dựa vào nội lực, dân chủ xã hội còn
cho đảng thêm cả sức mạnh từ ngoài đảng. Nếu đảng cầm quyền không tự nhận ra
tồn tại yếu kém của mình, thì các đảng đối lập cũng sẽ vạch ra cho. Chẳng cần
đến những nghị quyết vô dụng, những màn kịch phê bình –tự phê bình giả dối và
lố bịch, thì ĐCSVN vẫn có thể vươn lên, tốt hơn hẳn hiện tại, để được Nhân dân
tin tưởng mà trao quyền lãnh đạo.
Tiếc rằng, lãnh đạo của ĐCSVN
lại phản ứng như gã tài xế ù lì, chỉ biết nghiến răng tăng ga, khi cỗ xe đang
lao xuống đầm lầy. Một mặt, đảng càng suy sụp thì họ càng bóp nghẹt dân chủ
trong đảng, dân chủ trong xã hội, và càng hạn chế quyền con người, nhằm duy trì
quyền lực bằng bạo lực. Mặt khác, giới cầm quyền tranh thủ tham nhũng, đua nhau
vơ vét, tước đoạt cả tài sản của Dân. Chính
họ, chứ không phải thế lực thù địch nào khác, đã và đang phá nát ĐCSVN. Trạng thái độc đảng đã triệt
tiêu sức chiến đấu và bản năng sống lành mạnh của đảng. Buông thả trong thế độc
quyền, ĐCSVN đang tự tha hóa, tự hủy diệt, như cỗ xe không phanh, lao xuống
dốc, hướng thẳng tới vực thẳm.
Có ý kiến đề xuất tăng cường dân
chủ trong nội bộ đảng để bù lại, để tự gột rửa và điều trị căn bệnh ung thư đã
bước sang giai đoạn di căn. Nhưng không thể tồn tại dân chủ trong
một đảng độc quyền. Chỉ có dân chủ ngoài xã hội mới thúc đẩy dân chủ trong
đảng, chứ không phải ngược lại.
Khước từ dân chủ xã hội, trong đó có thể chế đa đảng, ĐCSVN không chỉ gây
thêm thù oán với Dân, mà còn tự tước bỏ khả năng đề kháng và hy vọng chữa trị
căn bệnh nan y của chính mình. Sự bảo thủ kiêu ngạo đã bịt mắt giới lãnh đạo, khiến họ cố tình làm ngơ
trước thực tế là: Đảng Nhân dân Camphuchia, một đảng từng được ĐCSVN nâng đỡ và
phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn gấp bội, vẫn có thể giữ được quyền lãnh
đạo đất nước thông qua bầu cử, mà không cần phải bức hại đa nguyên, không cần
phải cưỡng bức Hiến pháp.
Cần phải nói thêm rằng: Quy định ĐCSVN là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội không có nghĩa nó là lực lượng lãnh đạo duy nhất,
càng không phải là đảng duy nhất được phép tồn tại. Do đó, kể cả khi
duy trì Điều 4 của Hiến pháp 1992, thì việc ngăn cấm các đảng phái chính
trị khác thành lập và hoạt động là vi phạm quyền tự do hội họp, lập hội,được quy định tại Điều
69, Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tử huyệt sở hữu
toàn dân về đất đai
Hiến pháp 1946 không đề cập đến đất đai. Hiến pháp 1960 chỉ quy định đất hoang thuộc sở hữu của toàn
dân. Nhưng Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 thì quy định (toàn bộ) đất đai thuộc sở hữu
toàn dân.
"Sở hữu toàn dân" lại có nghĩa là chẳng người dân nào có quyền sở hữu. Trớ
trêu thay, nhân danh "sở hữu toàn dân" để tước đi quyền sở
hữu của toàn dân. Những mảnhđất vốn dĩ có chủ, được khai hoang, được trao
đổi, mua bán, hay được thừa kế hợp pháp từ bao đời, nay bỗng nhiên trở thành vô
chủ. Bộ máy cầm quyền, vốn dĩ chẳng có gì, mà nay lại chiếm được tất cả, trong
đó có quyền quyết định về đất đai trong cả nước.
Để vận động hàng chục triệu
nông dân giúp đỡ cướp chính quyền, ĐCSVN đã giương khẩu hiệu "dân cày
có ruộng". Chữ "có ruộng" ở đây đương nhiên là "sở
hữu ruộng đất", chứ không phải chỉ là "có quyền sử dụng đất".
Sau khi giành được chính quyền ở miền Bắc, đảng đã lấy ruộng của người giàu
chia cho người nghèo, rồi tiếp đó lại vận động nông dân góp ruộng để làm ăn tập
thể, trong mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Khi đã giành được chính quyền trong
cả nước, lãnh đạo ĐCSVN quyết định quốc hữu hóa đất đai, dưới hình thức "sở
hữu toàn dân". Nếu biết trước kết cục sẽ mất đất như vậy, liệu hàng
triệu người có còn theo đảng, giúp đảng giành chính quyền nữa hay không?
Khi chính quyền tử tế, có khả
năng sử dụng đất đai một cách vô tư, hợp lý và công bằng, thì sở hữu toàn dân
về đất đai có thể tạo ra một sức mạnh cộng hưởng để xây dựng đất nước. Và người
dân có thể tự an ủi rằng mình hy sinh bớt lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích
cộng đồng, trong đó có cả bản thân và gia đình mình. Nhưng khi chính quyền tham nhũng thì
sở hữu toàn dân về đất đai gây ra đại họa, không chỉ làm khổ muôn dân, mà phá
nát cả chính quyền. Chỉ mất mấy giây hạ bút, kẻ mang danh "công
bộc" đã có thể vơ về cả đống tiền của, mà một người lao động chân chính lăn
lộn cả đời cũng không kiếm nổi. Chỉ với mấy chữ ký loằng ngoằng của mấy kẻ có
chức quyền, hàng trăm, hàng ngàn người dân đã bị tước mất đất đai, nơi họ đang
làm ăn, sinh sống, trở thành dân oan, lang thang khiếu kiện khắp nơi. Càng duy trì sở hữu toàn dân về đất đai, thì càng gia
tăng oán hận của Dân, càng sinh sôi tham nhũng trong tầng lớp lãnh đạo, và càng
đẩy nhanh quá trình tự hủy diệt của chế độ.
Bộ máy cầm quyền đầy ắp những
kẻ tha hóa, cấu kết với bao kẻ vốn đã lưu manh từ trước khi chen chân vào chốn
quan trường. Cái thứ "sở hữu toàn dân" ngon lành và dễ ăn như
thế, làm sao kìm nổi lòng tham? Có thể những người đã no nê cũng tán thành tư
nhân hóa đất đai, vừa giũ bỏ được cái nguồn kiếm chác béo bở đã trở thành
"của nợ", vừa có được quyền sở hữu vĩnh viễn cho số đất đai đã thu
gom bấy lâu. Nhưng những vị còn chưa thấy đủ no và những kẻ kế cận đang mong
chờ đến lượt mình được vơ vét thì lại không dễ buông tha.
Muốn nuốt thì hóc, mà muốn nhả
ra cũng không hề dễ. Tư nhân hóa đất đai thế nào? Trao quyền sở hữu cho ai và
trao bao nhiêu? Khi còn là sở hữu toàn dân thì chủ đất cũ đành chịu lặng thinh.
Nhưng khi mảnh đất vốn của mình lại được giao cho một người lạ hoắc sở hữu, thì
chủ cũ đâu dễ chịu ngồi im. Đất đai vốn dĩ nằm trong trạng thái phân bổ tương đối
ổn định và hợp lý về mặt lịch sử, mấy chục năm qua bị đẩy vào tình trạng hỗn
loạn. Nếu bây giờ muốn sửa chữa sai lầm, lập lại trật tự, thì lại quá khó. Hoàn
cảnh thực tại giống như gã phàm ăn nuốt phải lưỡi câu: Nuốt tiếp thì vướng cước
và có thể bị chọc thủng dạ dày, mà lôi ra thì móc vào cổ họng.
Thách thức vượt quá năng lực
tư duy và hành động của những đầu óc u mê, trí tuệ giáo điều. Biết làm gì ngoài
việc câu giờ, dồn hậu họa lên đầu những người kế nhiệm?
Quả là rất khó để thoát ra khỏi tình trạng sa lầy về sở hữu đất đai. Sai lầm
càng lớn thì khắc phục càng khó. Song lãnh đạo ĐCSVN cần xác định rằng họ có trách nhiệm
giải thoát Dân tộc ra khỏi bãi lầy, mà chính đảng đã đẩy Dân tộc xuống.
Nếu biết huy động trí tuệ của Dân tộc và tạo được sự đồng thuận của Nhân dân,
thì khó mấy cũng làm được. Cách làm như thế nào không phải là chủ đề trao đổi
của bài này.
*
*
Quy định trong Hiến pháp về quyền
lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội tưởng để đảng trường
tồn, nhưng lại là điều khoản khai tử của ĐCSVN, khai tử khỏi lòng Dân và khai
tử khỏi cuộc sống chính trị.
Quy định đất đai thuộc sở hữu
toàn dân và do Nhà nước quản lý như cỗ máy khổng lồ, từng phút từng giờ đùn ra
hàng đống thuốc nổ, nén chặt vào lòng Dân. Nó giống loại ma túy cực độc, có thể
thỏa mãn cơn nghiện tham lam vô biên của giới cầm quyền, nhưng cũng tăng tốc
quá trình tự hủy diệt của ĐCSVN và chế độ do đảng dựng nên.
Vì vậy, nếu muốn bảo vệ ĐCSVN và chế độ này, thì cần phải nhanh chóng loại bỏ hai
quy định đó ra khỏi Hiến pháp.
Ngược lại, nếu muốn gạt bỏ sự lãnh
đạo của ĐCSVN, thì có thể sẽ sớm được toại nguyện, nếu tiếp tục duy trì hai quy
định ấy trong Hiến pháp, bởi lẽ không có cách phá nào nhanh hơn là tự phá.
Hà Nội, 11/01/2013
Cùng
tác giả:
No comments:
Post a Comment