TuanVietNam
Thứ
năm, ngày 24 tháng một năm 2013
Một bài phỏng vấn với ông cựu ngoại
trưởng ngoại giao Việt nam được đăng trên Tuần Việt nam Net,
nó có tính bạch hóa lịch sử, mà trước giờ mọi thông tin đều từ chối yếu tố lịch
sử mà ông nêu ra trong câu nói sau: "Các đồng minh lớn của ta, tuy bất đồng nhau, nhưng vẫn ủng
hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta, vì một lý do quan trọng mà cố Tổng bí thư Lê
Duẩn có lần đã giải thích một cách đơn giản: "Ta đánh là đánh cả cho
Trung Quốc, cho Liên Xô!"
------------------------------------------
TuanVietNam
24/1/2013 02:00
Ông
Nguyễn Mạnh Cầm:
Dân tộc và thời đại với nội hàm mới
Tuần Việt nam Net - Ngày
nay, dân chủ, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội là trào lưu nổi trội. Còn ý chí
tự cường, đoàn kết quốc gia và đồng thuận xã hội là cội nguồn sức mạnh của mỗi
nước. Phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là phải kết hợp được
nhuần nhuyễn các trào lưu phổ quát ấy.
LTS: Nhân 40 năm ngày ký Hiệp định Paris về Việt Nam (27/1/1973 -
27/1/2013), nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng bộ Ngoại
giao Nguyễn Mạnh Cầm đã phát biểu như trên với nhóm phóng viên Tuần Việt
Nam về quan điểm lịch sử khi đánh giá ý nghĩa của Hiệp định và về những kinh
nghiệm trong quan hệ với các cường quốc tại hòa đàm Paris. Sau đây là nội dung
cuộc trao đổi:
- Lùi
lại 40 năm sau sự kiện chấn động thế giới, giờ đây các nhà nghiên cứu quốc tế,
từ nhiều góc nhìn khác nhau, nhận xét Hiệp định Paris về Việt Nam 1973 như một
"tao đoạn kỳ lạ" (strange interlude), một "cự ly an toàn"
(decent interval) trong cuộc chiến. Xin ông bình luận?
Ông Nguyễn Mạnh Cầm: Nhận xét Hiệp định Paris về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam như một "strange
interlude" là muốn nói tới "thời gian giải lao" giữa hai trận
đánh. Trên thực tế, các hoạt động quân sự và ngoại giao đâu có dừng lại trong
thời đoạn từ lúc ký Hiệp định cho đến khi tổng tấn công và nội dậy!
Còn "cự ly an toàn" là muốn nói về ý đồ của Nixon vừa
muốn tái cử, vừa muốn giữ Thiệu. Tuy nhiên, do chủ trương tràn ngập lãnh thổ
của Sài Gòn, nên cơ hội hòa hợp dân tộc bị bỏ lỡ.
Nhưng vượt lên các thuật ngữ ấy là vấn đề triết lý lịch sử, nhất
là khi chúng ta đã qua một thời gian khá dài, lùi lại 40 năm như phóng viên vừa
nói. Về phương pháp luận, phải biết dựa vào những dữ kiện có thật, chứ không
thể chỉ dựa vào cảm quan của người viết
Có thể có chút phóng đại, nhưng tôi chia sẻ với nhận xét, có một
lịch sử như nó diễn ra và một lịch sử như nhà sử học viết ra...
Tâm thức nô dịch và bá quyền, chinh phục và triều cống
nhiều khi vẫn lấn lướt.... nếu ta không biết cách chế ngự nó, tương lai có
nhiều điều khó dự đoán! Ảnh Lê Anh Dũng.
Tâm thức nô dịch và bá quyền, chinh phục và triều cống nhiều khi
vẫn lấn lướt.... nếu ta không biết cách chế ngự nó, tương lai có nhiều điều khó
dự đoán! Ảnh Lê Anh Dũng.
Phương án đấu tranh ngoại giao
Hiệp định Paris về Việt Nam, ngay như tên gọi đã có phần thiếu
chính xác, một "misnomer" (gọi sai!). Tiếng là Hiệp định hòa bình năm
1973, nhưng trên thực tế, mãi tới ngày cuối cùng của tháng 4/1975, hòa bình
thực sự mới được vãn hồi, nhưng nền hòa bình ấy được lập lại không theo cách mà
các điều khoản của Hiệp định quy định. Ông bình luận như thế nào về nhận định
này của GS Kolko, tác giả một trong những cuốn sách "best seller" về
sự nghiệp đấu tranh của nhân dân ta, cuốn "Giải phẫu một cuộc chiến"?
Ông Nguyễn Mạnh Cầm: Hiệp định là phương án đấu
tranh ngoại giao để đi đến thực sự kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình ở
Việt Nam. Và như mọi dự án chính trị trong lịch sử, đó là sự thỏa hiệp giữa các
bên tham gia cuộc đàm phán ma-ra-tông. Phương án này phản ánh so sánh thế và
lực giữa các bên, phản ánh các tình huống trong cuộc chiến vào thời điểm các
bên quyết định ký kết để chấm dứt một giai đoạn, phục vụ cho ý đồ chính trị,
quân sự của giai đoạn tiếp theo.
Một trong những điểm mấu chốt là ý đồ của các bên không giống
nhau, thậm chí còn đối nghịch nhau. Cả bốn bên đều ý thức rõ điều này khi chấp
thuận đặt bút ký. Vì vậy mới có định nghĩa kinh điển "ngoại giao là nghệ
thuật của những điều không thể".
Việc lập lại hòa bình đã không diễn ra như các điều khoản của
Hiệp định không hề giảm giá trị đích thực của Hiệp định, bởi vì lịch sử không
bao giờ đứng yên. Lịch sử như một tiến trình và khi tiến trình ấy vận động thì
nó không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất cứ ai, mà tùy thuộc vào diễn tiến
khách quan của nhiều nhân tố. Bao giờ cũng có một giả thiết lịch sử và một thực
tế lịch sử như tôi đã nói ở trên; sự giao thoa giữ hai mảng này có thể nhiều
hay ít tùy thuộc vào tương quan lực lượng và tùy thuộc vào tương tác giữa các
nhân tố chủ đạo trong quá trình vận động. Trên thực tế, nội dung Hiệp định đã
mở ra nhiều "không gian trống" cho các tình huống về sau này...
Vâng, như chúng ta thấy, mặc dầu ký Hiệp định, nhưng Nixon vẫn
tuyên bố, Mỹ chỉ công nhận Việt Nam Cộng hòa do Thiệu cầm đầu là chính phủ hợp
pháp duy nhất. Điều này có nghĩa là Mỹ chỉ ủng hộ những nội dung nào của Hiệp
định có lợi cho Mỹ và bỏ qua những phần còn lại.
Đến lượt mình, chính quyền Thiệu cũng từ chối công nhận chính
quyền cách mạng và chỉ chịu ký một văn bản tách rời, loại trừ mọi ám chỉ liên
quan đến công nhận chính phủ cách mạng lâm thời. Tại sao lại có sự tréo ngoe
như thế?
Đấy là phương thức của thỏa hiệp, mà căn cốt của vấn đề là ở chỗ
phải tìm được lối thoát hợp lý, tại thời điểm ấy, cho một tình huống bất
thường, đó là có hai chính quyền không công nhận nhau về mặt pháp lý, nhưng lại
phải có chữ ký của cả bốn bên tham gia đàm phán thì mới đi đến chung cuộc của
quá trình hòa đàm. Chính những tréo ngoe ấy đã tạo ra các "không gian
trống" như tôi đã đề cập ở trên.
Đến lượt mình, các "không gian trống" ấy lại mở đường
cho các biến cố lịch sử mà khi ký Hiệp định không phải tất cả các bên đều trù
liệu giống nhau, thậm chí như tôi đã nói, hoàn toàn đối đầu nhau.
Vì các bên không công nhận nhau, đó là cơ sở khách quan để chính
quyền cách mạng chủ động thay đổi so sánh lực lượng, tiến lên giành thắng lợi
trên chiến trường về sau.
Quan hệ nước lớn với nước nhỏ
Ông đánh giá như thế nào về việc xử lý các mối quan hệ giữa Việt
Nam với các nước lớn liên quan đến quá trình đàm phán Paris? Làm thế nào mà
chúng ta vẫn đạt mục tiêu trong bối cảnh có chia rẽ sâu sắc giữa Liên Xô và
Trung Quốc?
Ông Nguyễn Mạnh Cầm: Đây là một chủ đề lớn, phức
tạp nhưng rất bổ ích, nó không chỉ liên quan đến hòa đàm Paris, mà còn là
"nguồn mạch chính" vận động hữu hình và vô hình trong quan hệ quốc tế
giữa nước lớn với các nước nhỏ nói chung, cũng như trong toàn bộ tiến trình
cách mạng Việt Nam nói riêng.
Với tư cách là một cán bộ ngoại giao được chứng kiến sự chỉ đạo
sát sao và trực tiếp của Bộ Chính trị, tôi nhận thức được một số nguyên tắc cơ
bản để xử lý mối quan hệ với các nước lớn, dù đó là bạn bè, đồng minh hay đối
thủ.
Trong
ngoại giao nói riêng và vận nước nói chung, nếu ta để nhỡ thời cơ, có khi phải
mất rất lâu, thời cơ mới xuất hiện trở lại. Ảnh Lê Anh Dũng.
Ta đã giữ được quan hệ "cân bằng động" giữa Liên Xô và
Trung Quốc, tranh thủ tối đa sự ủng hộ tích cực của cả hai đồng minh lớn, mặc
dù mỗi nước giúp Việt Nam tùy thuộc vào khả năng và xuất phát từ yêu cầu chiến
lược của mình. Các đồng minh lớn của ta, tuy bất đồng nhau, nhưng vẫn ủng hộ
cuộc chiến đấu của nhân dân ta, vì một lý do quan trọng mà cố Tổng bí thư Lê
Duẩn có lần đã giải thích một cách đơn giản: "Ta đánh là đánh cả cho Trung
Quốc, cho Liên Xô!"
Với chính quyền Mỹ, ta đã chủ động có các cuộc tiếp xúc, tìm
hiểu, gián tiếp và trực tiếp, nắm được yếu điểm cũng như điểm yếu chiến lược
của siêu cường lúc bấy giờ để chuẩn bị các phương án đấu tranh.
Thời kỳ khó khăn nhất là năm 1972, lúc cả Trung Quốc và Liên Xô
đều đi vào hòa hoãn với Mỹ, ta phải đối mặt với sức ép từ nhiều phía khác nhau,
nhưng rồi đều vượt lên được, nhờ đường lối độc lập, tự chủ kết hợp với chủ
trương đoàn kết quốc tế. Trong quá trình đàm phán ta đã tối ưu hóa các phương
thức tập hợp lực lượng quốc tế, đồng thời tìm mọi cách tác động vào nội bộ đối
phương, chuyển hóa tương quan lực lượng theo hướng có lợi cho cách mạng.
Vấn đề tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ là bài học vô cùng quan
trọng. Trong ngoại giao nói riêng và vận nước nói chung, nếu ta để nhỡ thời cơ,
có khi phải mất rất lâu, thời cơ mới xuất hiện trở lại, hạn chế rất lớn đến lộ
trình thực hiện các mục tiêu tổng thể của cách mạng.
Và ngành ngoại giao đã có những đóng góp như thế nào để phát huy
mặt tích cực, hạn chế các tiêu cực của tình hình quốc tế trong thời gian hòa
đàm?
Ngành ngoại giao đã thực hiện tốt chức năng là "khớp nối
mềm" giữa đất nước với thế giới, đã thực hành tốt bài học lớn của cách mạng
Việt Nam là "kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại". Nhờ đó,
chúng ta đã hình thành nên mặt trận rộng lớn nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam.
Về nghiên cứu chiến lược, ngoại giao đã đi trước một bước trong
phân tích tình hình, đánh giá ý đồ của các bên liên quan. Chúng ta đã phát huy
được vai trò tích cực và chủ động của ngoại giao, áp dụng phương thức vừa đánh
vừa đàm. Biết người biết ta, biết cách kết thúc chiến tranh, đó là những bài
học không bao giờ cũ cả.
Dân tộc/thời đại bối cảnh mới
Ý ông muốn nói tới bài học thời sự của Hiệp định đối với hoạt
động đối ngoại của ta hiện nay?
Ông Nguyễn Mạnh Cầm: Hoàn toàn chính xác!
Nhưng như tôi đã nói, lịch sử chuyển động không ngừng, vì vậy,
khi áp dụng các bài học trước đây phải luôn ý thức được nội dung mới trong
những khái niệm cũ. Nói kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì giờ
đây phải hiểu rằng cả hai vế trong định đề ấy đã có nhiều thay đổi.
Ngày nay, dân chủ, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội là trào lưu
nổi trội. Còn ý chí tự cường, đoàn kết quốc gia và đồng thuận xã hội là cội
nguồn sức mạnh của mỗi nước. Phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là
phải kết hợp được nhuần nhuyễn các trào lưu phổ quát ấy. Có như vậy, mới có sức
mạnh tổng hợp và vị thế Việt Nam mới thực sự vững chắc.
Các quốc gia nói chung và các cường quốc nói riêng đang rất
thiếu nền tảng của văn hóa khoan dung. Cái tâm thức nô dịch và bá quyền, chinh
phục và triều cống nhiều khi vẫn lấn lướt, tư duy "một mất một còn"
vẫn nổi trội trong các mối bang giao. Đấy chính là khởi nguồn đã gây ra bao
nghịch lý cho dân tộc Việt trong lịch sử, nay nếu ta không biết cách chế ngự
nó, tương lai có nhiều điều khó dự đoán!
Đấy cũng là căn nguyên của việc trước đây các bên ký Hiệp định
đã không tận dụng được tối đa cái cơ hội, cái triết lý của Hiệp định đã mở ra.
Cơ hội bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ bị đẩy
lùi hàng chục năm cũng là do tư duy đối đầu ấy gây ra!
Ngày nay, chúng ta đang thực thi chính sách hội nhập toàn diện.
Trong xu thế ấy, hẳn nhiên, một nền ngoại giao hiện đại là một nền ngoại giao
phải xuất phát từ tâm thức văn minh thời đại, biết lấy các giá trị phổ quát làm
động lực phát triển. Đó là cơ sở để bảo vệ các lợi ích quốc gia một cách hiệu
quả! Trong quá trình này, vấn đề thời cơ, vấn đề tập hợp lực lượng, ngày nay ta
gọi là xây dựng hệ thống các quan hệ đối tác, là những vấn để cốt tử của cách
mạng.
Hãy nhớ hai vế đối trên mộ Nguyễn Trường Tộ: "Nhất thất túc
thành thiên cổ hận / Tái hồi đầu thị bách niên cơ"; có thể hiểu là:
"Một lần nhỡ thời cơ, hận muôn đời / Khi quay đầu nhìn lại, cơ đồ mất trăm
năm!".
Phương Loan - Hoàng Lâm (thực hiện)
------------------------------------------------------------
TÀI LIỆU LIÊN QUAN TỚI NGUYỄN MẠNH
CẦM
No comments:
Post a Comment