1512013
“Khôn ngoan” và “ngu dốt” là hai
tĩnh từ để chỉ khả năng nhận xét, phán đoán một vấn đề dựa theo kiến thức sẵn
có. Theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, bản in 1970 “khôn
ngoan là biết phân biệt lợi hại, phải quấy, khôn ngoan giữa đám ba bề, đừng cho
ai lận, chớ hề lận ai” và “ngu dốt là ngu đần dốt nát, chẳng hiểu việc
phải trái ở đời hay lễ nghĩa xã giao ở đời.” Vì sự kính trọng dành cho đồng
loại, nhất là với những người mang bịnh chậm khôn, khi cần diễn tả cái ngu,
người ta thường dùng thú vật để so sánh như “ngu như bò”, “ngu như trâu” chứ
không nói là ngu như một người nào đó.
Từ ngày nghe bài giảng của ông Đại
tá Trần Đăng Thanh, trên Internet tràn ngập bài đánh giá ông là ngu, ngu đủ
kiểu, từ ngu tuyển tập đến ngu toàn tập, thậm chí “ngu như Trần Đăng Thanh”.
Tuy nặng lời nhưng không oan ức. Trong cương vị một đại tá, phó giáo sư, cán bộ
giảng dạy Học Viện Chính Trị nhưng những đánh giá của ông về các mối quan hệ
chính trị trong vùng cũng như thế giới thấp đến mức không thể nào tin được rằng
tri thức của ông đang trong trạng thái bình thường. Tuy nhiên, cũng thật bất
công và xúc phạm nếu chỉ trích dẫn những điều ấu trĩ, sai lầm trong bài giảng
của ông mà không phân tích.
Làm thế nào để có thể “không
được mất chủ quyền và quyền chủ quyền nhưng phải ưu tiên tối thượng là giữ được
môi trường hòa bình” trước một Trung Quốc đang âm mưu khống chế toàn thế
giới để vừa nuôi dưỡng chế độ độc tài toàn trị vừa nuôi sống nền kinh tế khổng
lồ nhưng đầy tham nhũng và thất thoát? Cách diễn dịch duy nhất theo lý luận của
Trần Đăng Thanh là đầu hàng Trung Quốc. Quan điểm của ông là quan điểm “Nhập
Tống” của Trần Nhật Hiệu trong cuộc Kháng Nguyên lần thứ nhất. Đất nước này
không chỉ bị mất đi một lần nhưng đã giành lại được, Thăng Long không chỉ bị
đốt cháy một lần nhưng đã xây lại được, bởi vì tinh thần độc lập, tự chủ đã hòa
trong máu của dân tộc từ thuở tổ tiên lên đường đi khai phá phương nam nhiều
ngàn năm trước.
Ngay cả trường hợp “Trung Quốc
đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép
để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ” phát
xuất từ... “trái tim bồ tát” của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đi nữa, chẳng
lẽ hôm nay làm ngơ để chúng chiếm đoạt toàn bộ biển Đông, đẩy Việt Nam từ một
quốc gia bán đảo nhìn ra Thái Bình Dương bao la và phong phú tài nguyên thành
một nước không có biển như Lào, Mông Cổ. Đôi mắt ông Trần Đăng Thanh nhìn đâu
mà không thấy đường lưỡi bò do Trung Quốc công bố gần như phủ kín Biển Đông và
ép Việt Nam, đất nước hình chữ S phì nhiêu thành một thân xác già nua co ro
trên bờ biển dài hơn ba ngàn cây số?
Ngày xưa “Ra khơi, thấy lòng
phơi phới, thấy tình thế giới, thấy mộng ngày mai, thấy niềm tin mới”, ngày
nay mỗi chuyến ra khơi của ngư dân Hải Phòng, Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Khánh Hòa là mỗi lần phó thác số phận không chỉ cho sóng to gió lớn
mà còn trong những viên đạn không một chút xót thương của hải quân Trung Quốc.
Ba mươi tám năm qua, lương tâm ông Trần Đăng Thanh cất giấu ở đâu mà không cảm
thông cho sự chịu đựng vô cùng đau thương của hàng ngàn ngư dân Việt Nam, người
bị giết, tàu bè bị đâm thủng, những em bé chiều chiều ra biển chờ cha đi đánh
cá không bao giờ trở về. Ba mươi tám năm, nói như nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa Tổ
quốc tôi như miếng da lừa, một lần ước mất đi một góc, ước phồn vinh: rừng mất
cây, biển mất cá, ước vẹn toàn: mất hải đảo, mất Cao Nguyên. Hoàng Sa đã
rơi vào tay Trung Quốc từ lâu và Trường Sa mang tiếng là của Việt Nam nhưng đến
nay chỉ còn vài đảo nhỏ trong quần đảo rộng lớn này, ông biết không?
Ông Trần Đăng Thanh nhắc nhở học
viên “không quên họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên
họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội
nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc hai điều không được quên” mà không biết
rằng Trung Quốc chẳng quan tâm gì đến chuyện “giải phóng miền Nam” hay “thống
nhất đất nước”. Trong buổi gặp gỡ Henry Kissinger năm 1971, Chu Ân Lai tiết lộ
Trung Quốc “nhường cơm xẻ áo” cho Việt Nam chẳng phải là chiến lược hay tư
tưởng CS gì cả mà dựa hoàn toàn trên gánh nợ lịch sử của tổ tiên y giao phó. Họ
Chu lúc đó nghĩ đến việc Mỹ không thua nên chỉ muốn kiểm soát miền Bắc Việt Nam
trong gọng kèm chặt chẽ theo truyền thống cai trị chư hầu thời phong kiến. Ngay
cả khi chiến tranh chưa chấm dứt, Trung Quốc đã xây dựng các trục lộ từ Trung
Quốc sang Lào để kịp thời can thiệp trong trường hợp chư hầu Việt Nam đủ mạnh
đứng lên khởi nghĩa và thôn tính nước Lào. Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai rồi Đặng
Tiểu Bình không phải là những kẻ chủ trướng chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc mà
là những người khai triển chính sách Đại Hán đô hộ các nước nhỏ lân bang truyền
thống của tổ tiên y trong thời đại toàn cầu. Trần Đăng Thanh cóp nhặt rất nhiều
thông tin nhưng lại bỏ sót những dữ kiện rất hiển nhiên trong lịch sử này.
Trần Đăng Thanh khẳng định, Mỹ
“đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật
sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha” nhưng không
biết rằng chỉ có hai lãnh đạo quốc gia mà Đặng Tiểu Bình không thuyết phục được
sự ủng hộ để đánh Việt Nam là Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu và Tổng thống
Mỹ Jimmy Carter. Lý Quang Diệu sáng suốt chỉ ra cho họ Đặng thấy “Không có
một cộng đồng Nga kiều nào tại các nước Đông Nam Á có thể dẫn đến các cuộc nổi
dậy của Cộng Sản do Liên Xô ủng hộ nhưng ở đâu cũng có các cộng đồng Hoa kiều
được đảng và nhà nước CS Trung Quốc xúi giục và ủng hộ.” Với Mỹ, ngày 30
tháng 1 năm 1979, Tổng thống Jimmy Carter mời Đặng Tiểu Bình gặp riêng và trong
buổi họp này Tổng thống Carter đọc cho họ Đặng nghe quan điểm của Mỹ từ lá thư
do chính tay tổng thống soạn thảo, trong đó, Tổng thống Carter yêu cầu họ Đặng
vì sự ổn định của Đông Nam Á và thế giới, cố tự chế hành động xâm lược Việt
Nam. Cá nhân Jimmy Carter có thể thương hay ghét Việt Nam nhưng rõ ràng chính
sách và tầm nhìn của một tổng thống Mỹ chẳng bao giờ là “chưa bao giờ tốt
thật sự với Việt Nam” như Trần Đăng Thanh “suy bụng ta ra bụng người”.
Gát qua một bên chiêu bài “chống Mỹ
cứu nước” tào lao được mấy cái loa tuyên truyền lập đi lập lại đến nhàm chán mà
cứ tạm xem đế quốc Mỹ cũng là kẻ thù của Việt Nam, thì giữa Trung Quốc và Mỹ,
kẻ thù nào đe dọa trực tiếp đến an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam và trong trường hợp phải chọn một để đi, người khôn ngoan nên biết chọn ai?
Một người có kiến thức chính trị
bình thường cũng biết chỗ dựa phải là Mỹ. Trong quan hệ chính trị quốc tế không
có chuyện “tốt với Việt Nam” hay “xấu với Việt Nam” mà chỉ có “thuận
với quyền lợi Việt Nam” hay “nghịch với quyền lợi Việt Nam”.
Trần Đăng Thanh biết ăn cắp câu nói
nổi tiếng của cố Thủ tướng Anh Lord Palmerston thời Nữ Hoàng Victoria “Nước
Anh không có đồng minh bất diệt, kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia dân
tộc là bất diệt và vĩnh viễn” nhưng không hiểu tại sao Thổ Nhĩ Kỳ biết liên
minh với Anh, Mỹ, những cựu thù ở xa, để chống kẻ thù độc tài hung bạo Liên Xô
ở gần. Sau thế chiến thứ hai, các quốc gia Nhật Bản, Tây Đức, Nam Hàn, Đài
Loan, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ ngã về phía Mỹ và sau khi khối Liên Xô sụp đổ hầu hết
các nước Đông Âu Cộng Sản cũ cũng ngã về phía Mỹ. Lý do rất dễ hiểu, các quốc
gia vừa bước ra khỏi chiến tranh hay độc tài lạc hậu rất cần khoa học kỹ thuật,
văn hóa giáo dục, giao thương kinh tế. Không có gì hổ thẹn phải đi học cái hay
cái đẹp của người khác đem về áp dụng cho đất nước mình, chỉ có những kẻ “ngồi
trong đáy giếng thấy trời bằng vung” mới nghĩ không ai khôn hơn mình.
Ông bà ta dạy “gần mực thì đen, gần
đèn thì sáng”, Trung Quốc không chỉ là mực mà là đế quốc tội ác, thâm độc, bất
nhân. Lãnh đạo CS Trung Quốc không thương xót ba chục triệu dân họ chết dưới
bàn tay của Mao Trạch Đông thì thương xót gì một dân tộc nhỏ nhoi mà tổ tiên
nhà Hán của chúng đã nhiều lần cố đồng hóa mà không được.
Ông Trần Đăng Thanh có biết “côn
đồ” Đặng Tiểu Bình đã từng muốn xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng
một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy) khi nói với Tổng thống Jimmy
Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt
ngón tay đó đi” không?
Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân
sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á. Cựu Ngoại
trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về
Trung Quốc (On China) của ông: “Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn
bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự
ngăn chận tấn công của Trung Quốc... Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát
động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng
Đông Nam Á”. “Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt
Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, đụng
độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu quyết định trước khi Việt Nam có
khả năng chống trả.
Đặng Tiểu Bình không mua chuộc được
sự ủng hộ công khai của Mỹ nhưng ít ra không phải về tay trắng. Mỹ đồng ý giúp
Đặng theo dõi sự động binh của 55 sư đoàn Liên Xô phía Bắc. Mỹ cũng dùng vệ
tinh để theo dõi trận đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh
mà các cơ quan truyền thông biết ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên
giới Việt Trung 1979. Trong buổi họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên
máy bay, Đặng khẳng định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”.
“Côn đồ” Đặng Tiểu Bình với chính sách cây gậy
Lý do Trung Quốc
đánh Việt Nam năm 1979 ngày nay đã quá tỏ tường. Trung Quốc đánh Việt Nam trước
hết phát xuất từ nỗi lo sợ bị bao vây.
Tháng 4 năm 1968, Chu Ân Lai tiết lộ với Phạm Văn Đồng: “Trong một thời gian
dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ
phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng đáp: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại
đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó chính
là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Việc Việt Nam ngã theo Liên Xô đã
xác định vòng vây hoàn toàn khép chặt chung quanh Trung Quốc. Riêng một Việt
Nam đã quá lo, nếu cộng thêm Miên và Lào với tổng số gần 100 triệu dân thù địch
nằm ngay phía nam là một đe dọa lớn.
Để ngăn chận khối Việt Miên Lào
liên minh nhau, tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu Bình chia sẻ với Khieu Samphan,
nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường
khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông
Nam Á”. Họ Đặng kêu gọi đảng CS Campuchia đoàn kết với Trung Quốc trong
việc ngăn chận Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời
tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane
nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của y vào tháng Ba năm 1976. Tháng Sáu năm
1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam ký
Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô.
Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia. Đặng Tiểu Bình chọn phương pháp
quân sự để chọc thủng vòng vây.
Một lý do khác,
Đặng Tiểu Bình khinh rẻ lãnh đạo CSVN là phường “ăn cháo đá bát”. Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc không chỉ viện
trợ tiền của mà còn bằng xương máu. Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một
bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê
các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam: “Trong
chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân
Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu
đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), phòng
không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc
điều khiển các giàn hỏa tiển phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và
sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc
giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh
Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95
trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000
quân Trung Quốc hiện diện”.
Lý do thứ ba là
sự khinh bỉ, căm ghét Việt Nam của cá nhân họ Đặng. Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo Trung Quốc giai
đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông
Hưng và Đặng Tiểu Bình thì Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất
với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo
CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác
những hy sinh của Trung Quốc dành cho đảng CSVN. Như tôi đã viết trong bài Chu kỳ thù hận
Việt Trung Miên, đảng CSVN sống bằng gạo trắng của Trung Quốc
nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết đói
trên 10 triệu người. Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không
ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết
chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng Tư năm 1965, chính Lê Duẩn đã
sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân trực tiếp tham chiến. Với
những đóng góp xương máu đó, việc họ Đặng tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”
không phải là chuyện tự nhiên. Câu “Việt Nam là côn đồ” được các đài
truyền hình Trung Quốc phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự
Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó.
Trong điều kiện kinh tế và quân sự
còn rất yếu của Trung Quốc vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô
cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ chính trị đảng CS Trung Quốc nhưng
về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á
Châu và Mỹ. Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công
du chính thức, lịch sử và duy nhất với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc
để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam. Từ cuối năm
1978 đến đầu 1979, Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái
Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng
luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho
hòa bình và ổn định Đông Nam Á. Đặng Tiểu Bình phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng
11 năm 1978: “Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc...
mà là một âm mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm
bao vây Trung Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung
Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và
Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới
bị đe dọa.” Ngoại trừ Singapore, Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc
gia Đông Nam Á.
Trong số các quốc gia họ Đặng viếng thăm, chuyến viếng
thăm Mỹ là quan trọng nhất. Sự đe dọa
của Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong nghị trình giữa Đặng Tiểu Bình và
các lãnh đạo Mỹ. Nói chung, Mỹ từ chối việc ủng hộ phương án quân sự nhưng để
giữ mối quan hệ đang tiến triển tốt, Mỹ đồng ý cung cấp tin tức tình báo về các
hoạt động quân sự của Liên Xô vùng biên giới phía bắc Trung Quốc. Trên đường về
nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật. Ngày 17 tháng 2,
1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 400 ngàn quân, tùy theo nguồn
ghi nhận, tấn công Việt Nam.
Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị
một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các
lãnh đạo CSVN vẫn tin người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nỡ
lòng đem quân đánh đàn em CS Việt Nam, những người từ trong tay áo Trung Quốc
chui ra. Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong
tận đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và
Trung Quốc từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung Quốc] chẳng lẽ thay đổi hoàn
toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.” Khi hàng trăm ngàn quân
Trung Quốc tràn sang biên giới, Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại tướng Tổng
tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn đang viếng thăm Campuchia. Tình báo Việt
Nam không theo dõi sát việc động binh ồ ạt của Trung Quốc. Nếu ngày đó giới
lãnh đạo Đảng không tin tưởng một cách mù quáng vào ý thức hệ CS và “tình hữu
nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã
không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư
đoàn Trung Quốc đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.
Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân
tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến
của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội Trung Quốc. Tạp chí Time tổng
kết dựa theo các nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và
khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam
vùng biên giới đã hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Quốc. Lần nữa, như lịch sử đã
nhiều lần minh chứng, không có khẩu súng nào bắn chính xác hơn khẩu súng của
lòng yêu nước.
“Côn đồ” Đặng Tiểu Bình chuyển sang chính sách củ cà
rốt
Đối với Đặng Tiểu Bình, tổn thất
vài chục ngàn quân không quan trọng, điều quan trọng là y đã bao vây được Việt
Nam và đẩy CSVN vào chỗ nghèo nàn, lạc hậu và cô lập. Sau mười năm thù địch,
Đặng Tiểu Bình, để thích nghi với điều kiện kinh tế toàn cầu, đã thay đổi chính
sách từ cây gậy sang củ cà rốt.
Trung Quốc vào thời điểm 1990 đang
phát triển mạnh nên cần chiếm biển Đông chiến lược đầy tài nguyên, và họ Đặng
cũng biết, sau khi Liên Xô sụp đổ, CSVN như những kẻ đang chới với trong đại
dương đang tuyệt vọng cần một cái phao. Nghe triệu tập giống như nghe lịnh đại xá, Nguyễn Văn
Linh, Đổ Mười và Phạm Văn Đồng đã vội vàng đưa nhau sang Thành Đô triều kiến. Tại khách sạn Kim
Ngưu, thủ phủ Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, lúc 2 giờ chiều ngày 4 tháng 9 năm 1990,
các lãnh đạo CSVN và Trung Quốc đã ký kết thỏa hiệp tái lập quan hệ giữa hai
đảng CS.
Hơn hai mươi năm qua, nội dung của thỏa hiệp Thành Đô
được hai bên giữ bí mật. Phía Trung Quốc dĩ nhiên không dại gì công bố và phía
lãnh đạo CSVN không thể công bố, đơn giản bởi vì đó là thỏa hiệp mang nội dung bán nước. Nếu các điều khoản trong thỏa hiệp nhấn mạnh đến việc
tái lập bang giao trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, hợp tác cùng có lợi giống như phần lớn các thỏa hiệp quốc tế giữa các
nước có chủ quyền, lãnh đạo CSVN đã tổ chức đại lễ công khai hóa lâu rồi. Tuy nhiên, dù giữ kín tới đâu, nội dung chính không phải
là khó đoán: CSVN nhìn nhận chủ quyền
của Trung Quốc trên biển Đông để đổi lấy sự tồn tại của đảng CSVN trong vòng
ảnh hưởng kinh tế, chính trị và tư tưởng của CS Trung Quốc.
Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa
ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua “Luật
Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả
bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa
(Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Quốc ký hợp đồng khai thác dầu khí với công
ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm
lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài raTrung
Quốc còn ngang ngược ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp
huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Tất cả diễn biến trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 1990 đến
nay cho thấy thỏa hiệp Thành Đô, về ý nghĩa, cũng tương tự như hòa ước Giáp
Thân hay còn gọi hòa ước Patenôtre được ký giữa đại thần nhà Nguyễn Phạm Thận
Duật và đại diện Pháp Jules Patenôtre chia đất nước Việt Nam thành ba mảnh và
đặt quyền bảo hộ Việt Nam vào ngày 6 tháng 6 năm 1884 tại Huế. Việt Nam thực
chất là một chư hầu của Trung Quốc và vị trí của nhà nước CSVN cũng không hơn
gì vị trí của triều đình nhà Nguyễn sau hòa ước Patenôtre.
Thỏa hiệp Thành Đô là một chiến
thắng lớn của Trung Quốc. Giang Trạch Dân vui vẻ tặng phái đoàn CSVN hai câu
thơ của Lỗ Tấn “Sau kiếp nạn anh em còn đó, Trông nhau cười, thù oán sạch
không”. “Anh em còn đó” tức chú em vong ơn, phản trắc CSVN đã biết
phục thiện trở về trong vòng kim cô Trung Quốc.
Sỡ dĩ Trung Quốc chưa chiếm trọn
quần đảo Trường Sa vì tranh chấp chủ quyền Trường Sa liên quan đến nhiều quốc
gia không phải chỉ riêng với Việt Nam và ngoài ra, các môi quan hệ kinh tế
chính trị vô cùng phức tạp trong thời đại toàn cầu hóa, việc sử dụng các biện pháp
quân sự mạnh không phải là quyết định dễ dàng. Trung Quốc sau ba mươi năm phát
triển nhưng vẫn chưa đủ mạnh bên ngoài và rất yếu bên trong. Mặc dù tuyên bố
hung hăng, quá khích, phô trương tàu chiến, gây hấn qua vài hành động quân sự
nhỏ có tính cục bộ để giữ gìn sự đoàn kết nội bộ, Trung Quốc cần ổn định hơn
bất cứ quốc gia nào khác trong vùng và luôn tránh né việc quốc tế hóa các tranh
chấp quốc tế.
Nhiều người có thể phản biện lý
luận này khi cho rằng Việt Nam vẫn phản đối Trung Quốc và tuyên bố chủ quyền
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vâng, nhưng xin đừng quên quyền được
phản đối giới hạn cũng có thể là một điều khoản của thỏa ước Thành Đô. Nếu ai
thắc mắc hãy so sánh lời tuyên bố của các phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao CSVN từ
Lê Dũng trước đây đến Lương Thanh Nghị hôm nay sẽ thấy những lời phản đối chỉ
khác về ngày tháng, còn nội dung đều tương tự như nhau, toàn là những câu phản
đối ngoại giao sáo rỗng, lấy lệ, chẳng ai quan tâm và không gây một tác dụng
gì. Dưới chế độ CS, việc phản đối, ủng hộ, hoan hô, đả đảo chỉ là một hình thức
tuyên truyền và không phản ảnh chính sách bên trong của đảng. Trong buổi hội
kiến giữa Mao Trạch Đông và Tổng thống Mỹ Richard Nixon ngày 21 tháng 2 năm
1972, họ Mao nhắc chừng cho tổng thống Mỹ biết quan hệ hai quốc gia đã cải
thiện tốt đẹp và đang tiến đến việc bình thường hóa nhưng đừng lấy làm lạ khi
Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục công kích Mỹ.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline
Albright có câu nói rất hay “Lịch sử chưa bao giờ lập lại một
cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử.”
Với chính sách bao vây Trung Quốc
của Mỹ hiện nay và với nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhưng không lối thoát
cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán
cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không. Việt Nam,
quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một
chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước,
dù cá nhân mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, đặt
quyền lợi dân tộc lên trên, chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân
chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần
bạc nhược, đầu hàng. Lịch sử không thể viết lại nhưng cơ hội luôn còn đó cho
những ai thành tâm quay đầu về với tổ tiên.
______________________
Tham khảo:
Hội nghị bí mật
Thành Đô 1990, Blog Ngô Đức Thọ
Henry Kissinger, On China, The
Penguin Press, New York 2011
Graham Hutchings, Modern China,
Harvard University Press, 2001
A Reassessment, China’s 1979 War
with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, 2005
Todd West, Failed Deterrence,
University of Georgia
Reuter, China admits 320,000 troops
fought in Vietnam, May 16 1989
Russell D. Howard, The Chinese
People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for
National Security Studies 1999
Time, China-Vietnam Border War, 30
Years Later, a photo essay.
Wikipedia Đặng Tiểu Bình
Wikipedia Chiến tranh biên giới
Việt-Trung, 1979
Vietnam tense as China war is
marked, BBC, 16 February 2009
No comments:
Post a Comment