Boxitvn
22-9-2012
Ngày
22-9-1932, tờ Phong hóa số 14 do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam làm
Giám đốc (sau khi mua lại giấy phép từ ông Phạm Hữu Ninh), ra mắt ở Hà Nội, gây
một tiếng vang rất lớn, mở ra một thời kỳ mới, đậm sắc thái dân chủ, trong đời
sống báo chí Việt Nam, đồng thời cũng góp phần đưa văn học Việt Nam bước hẳn
vào chặng đường hiện đại theo trào lưu văn học phương Tây, khép lại 10 thế kỷ
văn học cổ truyền lấy văn hóa Trung Hoa làm hệ quy chiếu.
Để
ghi nhớ bước đột phá quan trọng ấy, kể từ hôm nay BVN xin lần lượt gửi
đến bạn đọc xa gần toàn bộ các files ảnh hai tờ báo Phong hóa và Ngày
nay do nhóm các anh chị Phạm Thảo Nguyên, Nguyễn Trọng Hiền, Martina Nguyễn
Thục Nhi, Vu Gia, Nguyễn Tường Thiết và một số người khác… phân công sưu tầm,
chụp lại, và áp dụng kỹ thuật số để đưa lên mạng theo định dạng PDF, đi kèm với
bài Giới thiệu “Phong hóa” và “Ngày nay” do Phạm
Thảo Nguyên và Nguyễn Trọng Hiền chấp bút. Bạn đọc có thể download các files do
BVN cung cấp để sử dụng làm tài liệu tham khảo. Nhân đây, xin được bày
tỏ lời tri ân của chúng tôi đối với việc làm kỳ công của Nhóm kỹ thuật vì lợi
ích thiết thân của văn hóa dân tộc, cũng như tinh thần chủ động chia sẻ vô vụ
lợi của các bạn cho nhiều trang mạng cùng đồng loạt công bố.
Cũng
nhân kỷ niệm 80 năm báp Phong hóa ra đời dọn đường cho việc thành lập Tự
lực văn đoàn đúng một năm 6 tháng sau đó, BVN xin đăng lại dưới đây bài
tham luận Thử định vị Tự lực văn đoàn của GS Nguyễn Huệ Chi đọc trong
Hội thảo khoa học về Tự lực văn đoàn do sở Văn hóa Thể thao Du lịch tỉnh Hải
Dương phối hợp với UBND huyện Cẩm Giàng và các Hội Khoa học Lịch sử, Văn học
Nghệ thuật Hải Dương tổ chức tại thị trấn Cẩm Giàng ngày 9-5-2008. Bài tham
luận đã được các báo Văn nghệ, tạp chí Khoa học và Tổ quốc… cùng
một số trang mạng trong ngoài nước đăng tải, và nhận được nhiều phản hồi bổ
ích, như ý kiến của nhà văn Nguyễn Tường Thiết, con trai út nhà văn Nhất Linh,
hiện cư trú tại hoa Kỳ (http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=14128&rb=0205).
Bauxite
Việt Nam
Link download Phong Hóa từ số 14 – 21:
------------------------------
THỬ ĐỊNH VỊ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
Nguyễn
Huệ Chi
Trước
khi phát biểu mấy ý kiến trong bản tham luận ngắn này – giới hạn vào hai đặc
điểm thuộc tính theo tôi là cốt lõi của Tự lực văn đoàn với tư cách một tổ chức
văn học, chứ không bàn sâu đến thành tựu sáng tác của họ – xin được nói vài lời
phản biện với bản Báo cáo
đề dẫn mở đầu Hội thảo, trong phần điểm lại hai mặt: con người tiến
bộ và con người phản động của Nhất Linh, nhân người đề dẫn có mời gọi sự phản
biện của đại biểu “để cho ý kiến đề dẫn sáng tỏ hơn”.
Tôi
nhắc lại một câu bất hủ trong lá thư tuyệt mệnh của nhà văn Nhất Linh: “Đời tôi
để cho lịch sử xử”. Nhất Linh tin chắc lịch sử sẽ phán xử công bằng với mình.
Nhưng lịch sử mà ông hiểu là cả một thời đoạn dài, đủ sức sàng lọc mọi giá trị
và vén xong các lớp mây mù để lộ diện quy luật vận hành khách quan của nó. Lịch
sử quyết không phải là phát ngôn của quyền lực ở bất kỳ thời điểm nào đấy, càng
không phải là phát ngôn của những ai ảo tưởng rằng mình chính là tiếng nói cuối
cùng của chân lý. Nếu chấp nhận với nhau trên một cách nhìn như thế, tôi nghĩ,
câu nói của Nhất Linh phải được coi là nguyên tắc phương pháp luận then chốt
của cuộc hội thảo khoa học tại địa điểm Cẩm Giàng hôm nay, cũng như mọi cuộc
hội thảo về Nhất Linh và Tự lực văn đoàn rồi đây sẽ còn được tiến hành ở những
vùng miền khác. Có nhiều con đường yêu nước khác nhau chứ không phải chỉ một,
và sự so sánh hơn kém đúng sai giữa chúng, thông qua một góc nhìn thường là
chật hẹp, nặng tính chất thời vụ, bao giờ cũng chỉ rút ra được những giá trị
hết sức tương đối, đôi khi là giá trị ảo. Chưa biết con đường nào đã hay hơn
con đường nào nhưng nếu nhà yêu nước nuôi dưỡng trọn đời một lý tưởng trong
sáng, không có mưu đồ đem giang sơn Tổ quốc mà mình giành được ra chia chác,
“xã hội hóa” vô vàn đất đai béo bở thành của riêng của bè cánh mình, họ hàng
con cháu mình, làm cho đất nước lại có nguy cơ lâm vòng hiểm họa, thì trước
sau, hình bóng họ sẽ vẫn ghi đậm trong lòng dân chúng.
Nguyễn
Huệ Chi phát biểu. Ảnh: Hy Tuệ
1. Tự lực văn đoàn là tổ chức văn học đầu tiên của nước
ta mang đầy đủ tính chất một hội đoàn sáng tác theo nghĩa hiện đại. Hội đoàn ấy bắt đầu
bằng một tờ báo, đấy là tờ Phong
hóa bộ mới mà số đầu tiên phát hành vào ngày 8 tháng Chín năm 1932
– tức số 13 – đã lập tức biến một tờ báo vốn đang ế ẩm thành một hiện tượng đột
xuất trong làng báo Hà Nội lúc ấy. Theo Nguyễn Vĩ, ngay số đầu tiên, tờ báo đã
“bán chạy như tôm tươi” (Văn
thi sĩ tiền chiến) báo hiệu một cái gì thật mới mẻ đang xuất hiện
trên đất Hà thành. Hội đoàn ấy chính thức tuyên bố thành lập vào tháng Ba năm
1934(1), với một tôn chỉ gồm 10 điều mà chúng ta có thể tổng hợp lại trong 4
điểm, thể hiện bốn phương diện nhận thức liên quan khăng khít, tự thân chúng có
ý nghĩa đối trọng ngay lập tức với hiện tình sáng tác và thực trạng xã hội
đương thời: 1. Về văn học,
tôn chỉ nhắm tới 3 mục tiêu lớn: a. Dấy lên một phong trào sáng tác làm cho văn
học Việt Nam vốn đang nghèo nàn có cơ hưng thịnh (“Tự sức mình làm ra những
cuốn sách có giá trị về văn chương… mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong
nước”/ trước 1930 sự vắng vẻ của văn đàn vẫn là một tâm trạng mặc cảm của giới
cầm bút, mặc dầu văn học miền Nam đã sản xuất vô số tiểu thuyết văn vần và văn
xuôi theo hình thức lục bát và chương hồi); b. Xây dựng một nền văn chương
tiếng Việt đại chúng (“Dùng một lối văn giản dị dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối
văn thật có tính cách An Nam”/ ngôn ngữ của tạp chí Nam phong đại diện cho tiếng nói văn chương
thuở ấy vẫn là ngôn ngữ đệm nhiều danh từ Hán Việt và dành cho tầng lớp học
thức cao trong xã hội); c. Tiếp thu phương pháp sáng tác của châu Âu hiện đại
để hiện đại hóa văn học dân tộc (“Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng
vào văn chương Việt Nam”/ ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây đã đến miền Nam
khá sớm nhưng hình thức lại bị “lại giống” do “lai” với tiểu thuyết cổ Trung
Quốc); 2. Về xã hội,
đề cao chủ nghĩa bình dân và bồi đắp lòng yêu nước trên cơ sở lấy tầng lớp bình
dân làm nền tảng (“Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình
dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính
cách trưởng giả quý phái” / cho đến cuối những năm 20, các khái niệm “chủ nghĩa
bình dân”, “nết hay vẻ đẹp bình dân” và “yêu nước một cách bình dân” hãy còn là
quá mới lạ, chưa hề xuất lộ trong tư duy của tầng lớp sĩ phu được gọi là “tiên
tri tiên giác”, và cũng chưa hiện hình thành quan điểm ở một người vốn đã thực
hiện chủ nghĩa bình dân trong thực tiễn như Nguyễn Văn Vĩnh); 3. Về tư tưởng, vạch trần
tính chất lỗi thời của những tàn dư Nho giáo đang ngự trị trong xã hội (“làm
cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa” / công khai chống lại lễ
giáo phong kiến Tự lực văn đoàn đã gây một cú “sốc” ý thức hệ, chấn động hết
thảy mọi thành phần còn dính dáng ít nhiều đến Nho học, thậm chí vẫn để dư chấn
đến tận Hội thảo này); 4. Về
con người, lấy việc giải phóng cá nhân làm trung tâm điểm của mọi
sáng tác (“Tôn trọng tự do cá nhân”, “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí
phấn đấu và tin ở sự tiến bộ” / văn chương trước 1930 chưa bao giờ đưa con
người cá nhân lên vị trí trung tâm, không những thế, giọng điệu chung của nó là
bi ai sầu thảm. Tự lực văn đoàn tuyên chiến với thứ tâm trạng xã hội nặng nề
đó; với nó “cái bi” cũng phải được đối xử, vượt qua, bằng niềm vui sống).
Với
4 điểm như đã tóm tắt, cái hội đoàn do Nguyễn Tường Tam thành lập rõ ràng đã
hiện ra trong tư cách một trường phái văn học hoàn chỉnh, khu biệt với mọi kiểu
tổ chức văn học xuất hiện trước mình. Trở về trước, các thi xã truyền thống trong
lịch sử thường phải dựa vào thế lực của một tầng lớp bên trên như vua quan, hay
lãnh chúa một vùng, chẳng hạn Hội Tao đàn của Lê Thánh Tông, Chiêu Anh các của
Mạc Thiên Tích. Hoặc là tập hợp của một đám thượng lưu quý tộc, chẳng hạn Mặc
Vân thi xã của Anh em Miên Thẩm. Các loại thi xã đó đều lấy việc ngâm vịnh văn chương để chơi
làm mục đích, nên rất ít mở rộng ảnh hưởng ra ngoài thi xã. Tính khép kín là
đặc điểm hiển nhiên của chúng. Tự lực văn đoàn trái lại, là sự tập hợp những
con người không có quan tước, cũng không có thế lực nào bảo trợ. Họ gồm 7 người
là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, Xuân Diệu (không
có Trần Tiêu)(2). Đứng về mặt xã hội phải nói họ đều là “chân trắng”. Nhưng họ
lại tập hợp nhau lại vì một lý tưởng muốn cống hiến cho văn học, thông qua văn
học mà đóng góp cho xã hội, và cùng chung sức nhau xã hội hóa hoạt động sáng
tác của họ, trong sự vận hành của cơ chế thị trường văn học nghệ thuật đang dấy
lên từ Nam ra Bắc thuở bấy giờ. Nghĩa là họ chấp nhận sự cạnh tranh để sống còn
bằng nghề văn của mình. Họ không chỉ biết đến tiểu thuyết, thơ ca mà còn ràng
buộc với nhau trong việc sống nhờ vào hai tờ báo và một nhà xuất bản. Họ không
hy sinh mục đích văn chương cao quý cho việc kiếm kế sinh nhai bằng mọi giá, nhưng
việc kiếm kế sinh nhai lại chính là điều kiện để họ giữ vững thiên chức văn học
như một “mục đích tự thân”(3), điều mà có lẽ, từ 1945 đến nay, chưa một văn đoàn nào trên đất
Việt làm nổi và có ý thức, có gan làm (còn nhớ cách đây vài năm, khi có ý kiến đề
xuất chuyển các hội sáng tác văn học nghệ thuật trở về đời sống dân sự đúng
nghĩa, bỏ hẳn cơ chế “xin cho”, thì chính các vị lãnh đạo ở các hội ấy đã đồng
loạt lên tiếng khẩn thiết đòi bảo vệ quyền thiêng liêng của mình là… vẫn được
sống dựa vào Nhà nước). Cũng khác với các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, để
có thể tổ chức được một nhóm cầm bút với mục đích truyền bá cái mới của Âu Tây
cũng như bước đầu xây dựng nền văn chương quốc ngữ, đều không tránh khỏi phải
núp bóng Nhà nước Bảo hộ, Tự lực văn đoàn là một đoàn thể văn học hoàn toàn
mang tính chất tư nhân, không ve vãn, nhân nhượng bộ máy đương quyền và không
hề phát ngôn cho quyền lực dù lâm vào tình huống o ép khó xử nhất.
Như
vậy, có thể nói, Tự lực văn đoàn là tổ chức văn học chưa có tiền lệ trong văn
học ViệtNam. Những mặt ưu trội kể trên đưa lại cho nó một sức hấp dẫn đặc biệt,
không tiền và nếu tính đến nay thì cũng là khoáng hậu, đẩy nó lên địa vị gần
như tuyệt đối trên văn đàn trong vòng 8 năm nó tồn tại trên thực tế. Sự ra đời
của nó có tác dụng kích thích phong trào sáng tác văn học của cả nước như là
một tất yếu, một nhu cầu nội tại, với tư cách một sự tìm kiếm và tự thực hiện
của khát vọng tự do. Đó là phương diện chủ chốt vạch rõ sự khác biệt bản chất
giữa nó với các hội đoàn văn học từ 1945 về sau mà ta không thể mượn tiêu chí
này kia làm những cột mốc so sánh.
2. Bên cạnh đặc điểm
quan trọng như đã nói, một phẩm chất khác cũng không kém nổi bật là Tự lực văn
đoàn thể hiện cái khát vọng dân chủ trong đời sống văn học nghệ thuật. Dân chủ trước
tiên chính ở nề nếp sinh hoạt rất có tính nguyên tắc của một tổ chức văn học
được xây dựng theo những chuẩn mực mới mẻ của Âu Tây. Không chỉ đề xuất ra 10
tôn chỉ mà thôi, để luôn luôn quán triệt 10 tôn chỉ trong hoạt động thực tế,
mọi công việc của văn đoàn, nhất là công việc ra từng số báo, in từng cuốn
sách, đều được bàn bạc tập thể, đều có tranh luận sôi nổi với nhau và cuối cùng
có sự nhất trí của cả nhóm. Tư cách rất đáng trọng của Nhất Linh khiến ông làm
tròn vai trò hạt nhân của văn đoàn cho đến khi nó tan rã là ở chỗ, mặc dù quyết
đoán, ông không bao giờ lạm dụng uy thế một ông bầu và một ông chủ báo, hay cố
giữ một “khoảng cách” với người cộng sự, như hầu hết các ông chủ báo cốt dùng
tờ báo để khoe danh và thăng quan tiến chức. Ông hòa hợp mật thiết với anh em
đồng đội, nhận số lương ngang như anh em, gánh vác tất cả mọi việc không khác
gì anh em. Chính vì thế, tình nghĩa giữa 7 con người trong văn đoàn, như Tú Mỡ
thừa nhận, giữ được thắm thiết sâu bền. Quan trọng hơn nữa, nếu như Đông Dương tạp chí cũng
có cả một tòa soạn song rốt cuộc mọi cá nhân khác đều dường như lu mờ đi sau
cái bóng của Nguyễn Văn Vĩnh; nếu như Bộ biên tập của Nam phong tạp chí còn
hùng hậu hơn Đông Dương
tạp chí mà vẫn không ai nổi đậm bằng hoặc hơn so với Phạm Quỳnh, thì
Tự lực văn đoàn toàn toàn khác. Nói đến văn đoàn ấy không thể chỉ nói một mình
Nhất Linh. Trọng lực của văn đoàn phân đều cho mỗi thành viên và chỉ cần thiếu
đi một, sáu “ngôi sao” còn lại đã không thể hội tụ thành nguồn ánh sáng tiêu
biểu của văn đoàn. Đông
Dương và Nam
phong dù sao cũng chỉ mới là sự thăng hoa tài năng của một vài cá
nhân, còn đến Tự lực văn đoàn thì đã thật sự có một đột biến về chất: một sự
thăng hoa tập thể, nó là kết quả của ý thức dân chủ từ người đứng đầu chuyển
hóa sang đồng đội. Tất nhiên, cũng không phải vì thế mà uy tín người thủ lĩnh
của Nguyễn Tường Tam bị hạ thấp hay xem nhẹ. Là một nghệ sĩ đa tài, một con
người giàu tâm huyết và có tầm nhìn xa, Nhất Linh đã biết đoàn kết cả nhóm lại
trong một ý hướng chung do mình xướng xuất, biết truyền niềm say mê mãnh liệt
của mình cho người khác, nhất là có con mắt tinh đời, biết khơi gợi đúng thiên
hướng của từng người để mỗi tác giả trong văn đoàn trở thành một cây bút chuyên
biệt nổi danh về một thể loại. Như Khái Hưng, được ông khuyến khích chuyển từ
lối viết luận thuyết trên các báo Văn
học tạp chí, Duy
tân (dưới bút danh Bán Than)
sang viết tiểu thuyết; Tú Mỡ được ông gợi ý chuyên làm thơ trào
phúng; Trọng Lang được ông cổ vũ đi hẳn vào phóng sự; còn Thế Lữ dưới con mắt
Nguyễn Tường Tam phải là người mở đầu cho “thơ mới”… Có ai ngờ được rằng bấy
nhiêu lời chỉ bảo tưởng chừng bâng quơ như thế cuối cùng đều có một đáp án
chính xác: chỉ sau chưa đầy 3 năm kể từ ngày thành lập, Tự lực văn đoàn nghiễm
nhiên là một hàn lâm văn học sang trọng, phát ngôn cho mọi chuẩn mực giá trị
của văn học được công chúng xa gần thừa nhận. Và mỗi thành viên của nó cũng
nghiễm nhiên đóng vai trò ông tổ của cái hình thức sáng tác mà Nhất Linh đã phó
cho mình cầm chịch. Không ai còn có thể tranh ngôi vị cây bút tiểu thuyết tài
danh của Khái Hưng. Nói đến giọng thơ trào phúng kế sau Tú Xương ai cũng phải
nhường Tú Mỡ. Còn Thế Lữ thì được cả làng “thơ mới” thừa nhận là chủ soái thi
đàn. Cũng không thể quên Thạch Lam với những kiệt tác truyện ngắn trữ tình mà
về sau ít người sánh kịp. Và Xuân Diệu, người tiếp bước Thế Lữ đem lại sự toàn
thắng cho “thơ mới”, phổ vào thơ cái ma lực của những cảm xúc đắm say quyến rũ.
Riêng Nhất Linh không những không nhường Khái Hưng về tiểu thuyết, ông còn là
nhà văn luôn luôn tìm tòi không ngừng, không mỏi. Vừa cho ra mắt một loạt tiểu
thuyết luận đề làm cả một thế hệ thanh niên mê thích, ông lại thoắt chuyển sang
dạng tiểu thuyết không cốt truyện, lấy việc phân tích các biến thái tâm lý nhân
vật làm chủ điểm (Đôi bạn),
rồi lại thoắt chuyển sang dạng tiểu thuyết khơi sâu vào những miền khuất tối,
không dễ nhận biết của cái “tôi”, cái thế giới bí mật nhất trong mỗi con người,
kể cả sự mò mẫm vô thức trên quá trình cái “tôi” phân thân, tự hủy, ít nhiều
mang dáng dấp hiện sinh (Bướm
trắng)… Có thể nói từ sinh hoạt dân chủ trong nội bộ, thấm vào tình
cảm của mỗi thành viên rồi tác động qua lại lẫn nhau, tinh thần dân chủ đã như
một chất men kỳ lạ kích thích niềm phấn hứng sáng tạo của từng cá nhân trong
văn đoàn, bắt người nào cũng gắng sức đua tranh không chịu kém thua người khác,
khiến họ đều vươn tới vị trí đỉnh cao trên đàn văn cũng như bộc lộ hết tài hoa
của họ. Tác động liên hoàn giữa khát vọng dân chủ đến bùng nổ sức sáng tạo
chính là như vậy.
Phía trước nơi xưa
kia là “Trại Cẩm Giàng” nhìn ra con đường xe lửa trong truyện ngắn Thạch Lam.
Từ trái sang: Phong Lê, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Huệ Chi, Chương Thâu. Ảnh: Hy Tuệ
Nhưng
là một tổ chức văn học và báo chí có ảnh hưởng ngày càng sâu rộng, tinh thần
dân chủ nhen nhóm trong văn đoàn Tự lực cũng đã lan tỏa dần ra ngoài, đúng hơn,
nó được cả văn đoàn sử dụng như một nguyên tắc thẩm mỹ và một nguyên tắc hành
nghiệp linh hoạt mà bất biến, trong bất kỳ mọi sáng tạo văn học nghệ thuật cũng
như mọi hoạt động xã hội nào của họ.
Dân
chủ ở ngay cách đối xử với cộng tác viên nhiệt tình, trân trọng và hết mực chu
đáo, kể cả với người lần đầu cầm bút, nâng hẳn tầm thước của họ lên trong chính
mắt họ, đặt họ ngang hàng sòng phẳng với mình, gieo vào lòng họ niềm tin ở
thiên hướng nghệ thuật mà họ thực sự có tài năng và đang tận tâm đeo đuổi(4).
Tự lực văn đoàn là nơi phát hiện ra Anh Thơ, Tế Hanh, Nguyên Hồng, Đỗ Đức Thu,
Mạnh Phú Tư, Bùi Hiển, Thanh Tịnh… Cũng Tự lực văn đoàn lần đầu tiên trình diện
các bậc danh họa Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, xướng lên cuộc cải cách y phục
với kiểu áo “Lơ muya” của họa sĩ Cát Tường, và công bố trên tờ báo của văn đoàn
những bài tân nhạc của Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương… Dân chủ còn ở cách họ tổ
chức các giải thưởng văn học đầy uy tín, như những trọng tài tận tụy, công tâm,
mà một điều khoản hệ trọng được đặt lên đầu là Hội đồng Giám khảo không bao giờ
lại đồng thời là ứng viên dự giải – chuyện tưởng chừng “sơ đẳng”, đến phong
kiến cũng có luật “hồi tị”, mà hóa ra trong nền văn học nghệ thuật của chúng ta
suốt bằng ấy năm đã bị đảo ngược và cái đảo ngược đã trở thành “thông lệ”, đến
nỗi ở thời điểm 1956 học giả Phan Khôi không sao hiểu được phải lên tiếng phê
bình, oái oăm thay là sự thẳng thắn đó đã giáng tai họa lên đầu ông. Bởi thế,
khi xác nhận công lao của Tự lực văn đoàn như một hội đoàn có vị trí khai sáng
trong văn học hiện đại ta không nên quên rằng chính cái văn đoàn ấy, với đích
nhắm nghệ thuật vô tư, trong sáng, với văn hóa ứng xử đàng hoàng, mẫu mực,
phương pháp điều hành minh bạch, quy tụ được rộng rãi tinh hoa văn nghệ trong
cả nước, đã khai sáng ra cùng với nó những hình thức thể loại mũi nhọn trong
văn học hiện đại Việt Nam và cả trong nghệ thuật hiện đại Việt Nam như hội họa,
ca nhạc mà nó là nơi thể nghiệm, nơi ghi dấu ấn của những đại biểu tiên phong.
Vài
chục năm qua kể từ sau đổi mới, chúng ta đã dành nhiều giấy mực để luận bàn
nhằm từng bước giải tỏa nhiều thành kiến khắt khe, cố chấp, cố gắng trả về cho
lịch sử văn học những giá trị đích thực của khối lượng tác phẩm do Tự lực văn
đoàn để lại(5). Ta đề cập tới trong sách vở của họ các khuynh hướng đấu tranh
chống lễ giáo phong kiến, khuynh hướng lãng mạn, ca ngợi tình yêu và hạnh phúc
cá nhân, khuynh hướng nghiêng mình xuống số phận những con người cơ cực, bần
cùng, cho đến khuynh hướng không bằng lòng với cuộc sống trưởng giả, tẻ nhạt cũ
kỹ, quyết dấn thân vào con đường gió bụi, “mê man trong hành động”, tuy chưa
biết hành động sẽ đi đến đâu nhưng ít nhất cũng là sự giải thoát cho mình khỏi
nỗi mặc cảm đau xót của thân phận người dân mất nước v.v… Ta cũng không quên
cuộc cách tân văn xuôi to lớn của họ, cấp cho họ một giọng văn trong trẻo, chuẩn
mực, giàu sức biểu cảm tuy có lúc còn đơn điệu, và một cấu trúc thể loại mới
mẻ, trong đó quy luật tâm lý thay cho trục diễn tiến đường thẳng theo trình tự
thời gian và cái nhìn đa chiều trong soi chiếu nhân vật thay cho lối trần thuật
một giọng của người kể chuyện; là sự có mặt của thiên nhiên như một đối tượng
thẩm mỹ, v.v.
Nhưng
điều có dễ chưa mấy ai lưu ý là từ tất cả những bình diện khác nhau kia, tác
phẩm của Tự lực văn đoàn hình như đã đúc nên được một phong vị khó lẫn, nó là
cái yếu tố ẩn sâu dưới tầng ngôn bản, kết nối các giá trị ấy lại với nhau. Theo
tôi, đó chính là vẻ đẹp của tinh thần dân chủ mà mỗi thành viên đã thấm nhuần
sâu sắc và chuyển tải vào tác phẩm theo cách riêng. Chính nó đã gây ra cho
người đọc đương thời biết bao nhiêu bâng khuâng thắc thỏm về một điều gì mới lạ
mà mình không lý giải nổi khi đọc văn chương của nhóm Tự lực; cũng chính nó bắt
người đọc nhập thân vào thế giới nghệ thuật của Tự lực văn đoàn không giống như
đi vào thế giới của các nhà văn hiện thực phê phán, một bên là cái thế giới bắt
mình có sự nghiệm sinh trong đấy, bên kia là cái thế giới để mình phẫn nộ, lên
án, nhưng không nhất thiết có mối liên lạc với mình. Phải chăng khi đến với
những trang viết của Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam… bao giờ người ta cũng phải
bắt mình đối diện với chính cái “tôi” một cách bình đẳng, nghiền ngẫm tra vấn
nó, tức là nhìn vào thế giới sâu thẳm bên trong mình. Dân chủ trong tiếp nhận
văn học trước hết là ở đấy. Dù ngày nay ngôn ngữ văn chương không ít tác phẩm
của Tự lực văn đoàn đã bộc lộ sự mòn sáo thì âm hưởng “tự nghiệm” của chúng vẫn
không cũ.
Tuy
nhiên, điều rất cần nhấn mạnh ở đây còn là một phương diện khác, một cách biểu
hiện dân chủ bằng sự vận dụng hữu hiệu ngôn ngữ trào phúng. Với tờ báo Phong hóa, ngay từ buổi
đầu thành lập, Tự lực văn đoàn đã biết nắm lấy một vũ khí lợi hại là tiếng
cười. Ai cũng biết tiếng cười là một liều thuốc hóa giải được mọi khổ đau. Về
mặt mỹ học, xin mượn một câu nói của Hegel: nó “trình bày cái thế giới hư hỏng
như là đang giãy giụa chống lại tình trạng hư hỏng của mình, tình trạng này
biến mất do tính chất vô nghĩa lý ở bản thân nó”(6). Tiếng cười còn thần kỳ ở
chỗ, chỉ trong phút chốc, mọi địa vị xã hội bị nó đảo lộn, thằng hóa ra ông,
ông hóa ra thằng. Tận dụng được các phương cách này, đúng như Vu Gia nói, tờ
báo Phong hóa
có sức công phá như một “trái bom nổ giữa làng báo”(7). Dưới ngòi bút của họ,
cả một xã hội gồm những ông tai to mặt lớn trong giới quan trường, học thuật,
báo chí, văn chương, uy thế đến như Toàn quyền Brévié, Thống sứ Châtel, Khâm sứ
Graffeuil, Hoàng đế Bảo Đại, Thượng thư Phạm Quỳnh, Tổng đốc Hoàng Trọng Phu,
Đốc lý Virgitti, cho đến cả những nhân vật hủ lậu ở nông thôn mà biểu tượng là
Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh… đều bị đem ra chế giễu, bị ngòi bút châm chọc của họ
làm cho điêu đứng. Bằng tiếng cười của mình, Tự lực văn đoàn đã khéo léo hạ bệ
các thần tượng phong kiến và thực dân, đưa các vị xuống đứng cùng hàng với đám
chúng sinh khổ ải. Mặt khác, lại cũng phải nói như Vũ Bằng, sự chế giễu tuy thế
vẫn biết giữ ở chừng mực của học vấn và trí tuệ, ngoại trừ một số trường hợp
nào đó, nó không đi quá đà đến đả kích cay cú, “cười cợt người ta mà không thóa
mạ ai”(8). Tuy cùng thời với Nhóm Tự lực cũng có khá nhiều tờ báo tìm nhiều
cách gây cười cho độc giả, nhưng phải đến báo Phong hóa thì cái cách cười hóm hỉnh thông
minh của nó mới đủ hiệu lực biến một xã hội già nua lụ khụ thành một thế giới
vui nhộn trẻ trung. Lần đầu tiên, báo chí giành được cho mình cái quyền trao
đổi công khai mọi chuyện nghiêm trang nhất, biến nó thành những chuyện để cười,
thành một sinh hoạt bình thường, hợp pháp, lành mạnh, được xã hội thừa nhận.
Thử hỏi, báo chí chúng ta cho đến đầu thế kỷ XXI này đã dám đem những chuyện
nghiêm trang ra trao đổi một cách dung dị từ góc nhìn bình đẳng – đùa vui với
nó – mà không có gì phải e ngại, hay là mỗi khi muốn cười cợt đôi chút vẫn phải
nhìn trước ngó sau xem đã đi đúng “lề đường bên phải” mà quyền lực dành cho
mình? Vậy nên, phải nói trào phúng là đóng góp lớn lao của Tự lực văn đoàn vào
việc dân chủ hóa đời sống xã hội, một đóng góp từ trước chưa hề có và từ sau
1945 đến nay, báo chí cách mạng cũng dễ đâu đã theo kịp.
*
* *
Tự
lực văn đoàn đã chấm dứt hoạt động thực tế kể từ sau năm 1940, tính đến nay đã
68 năm, gần bằng tuổi đời của kẻ viết bản tham luận này. Một khoảng thời gian
không phải là ngắn, kèm theo biết bao sóng gió của một thời không chút bình yên
về mọi mặt. Nhưng có điều rất lạ: càng lùi xa thì độ sáng của hiện tượng văn
học mà ta đang xem xét dường như lại sáng hơn lên, diện mạo của những nhân vật
nòng cốt trong Nhóm Tự lực lại càng hằn bóng nơi tâm trí chúng ta. Đó là bằng
chứng chắc chắn của những giá trị đã biết cách tự khẳng định, không để cho quy
luật sinh tồn đào thải. Điều may mắn là chúng ta còn một địa chỉ để tìm lại ít
nhiều những dấu vết cũ: mảnh đất Cẩm Giàng, nơi xưa kia từng có trại Cẩm Giàng
của dòng họ Nguyễn Tường. May mắn, bởi vì với tốc độ của công cuộc công nghiệp
hóa ào ạt – và cả lộn xộn – hiện tại trên hầu khắp làng thôn Việt Nam, giữ được
nguyên trạng mảnh đất trại Cẩm Giàng xưa quả thực là hy hữu. Thiết tưởng, đã
đến lúc tỉnh Hải Dương và huyện Cẩm Giàng đón lấy thời cơ để biến mảnh đất gọi
là “cố trạch” ấy thành một di
tích lịch sử. Đó là việc làm hợp lẽ tiến hóa và là niềm mong mỏi
không phải chỉ của Cẩm Giàng hay Hải Dương mà còn của giới văn học và khách
tham quan văn hóa trong cả nước, hơn thế, cả nhiều người Việt ở nước ngoài và
nhiều nhà ViệtNam học thế giới.
N.H.C.
([1])
Lâu nay nhiều sách báo đã dựa vào tư liệu của Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân
biên (1965) và Thanh Lãng trong Bảng
lược đồ văn học Việt Nam (1967), ghi ngày công bố 10 tôn chỉ của Tự
lực văn đoàn là 2-III-1933, nhưng theo bản tham luận của Nguyễn Huy Cương tại
Hội thảo này thì số 87 báo Phong
hóa thực ra ra ngày 2-III-1934 (tham luận có kèm theo 3 trang chụp
số báo Phong hóa
87). Trong cuốn Phê bình
văn học thế hệ 1932 (1973) chính Thanh Lãng đã điều chỉnh lại. Vì
vậy, trong tham luận này, chúng tôi dựa vào số liệu của Nguyễn Huy Cương.
(2)
Trong cuốn Trần Tiêu, nhà
văn độc đáo của Tự lực văn đoàn (2006), Vu Gia dựa vào ý kiến của
Tú Mỡ trong hồi ký Trong
bếp núc của Tự lực văn đoàn (1969) và ý kiến Lê Thị Đức Hạnh trong
bài Trần Tiêu có phải là
thành viên trong tổ chức Tự lực văn đoàn hay không (Tạp chí văn học, số
5-1990), đã mạnh dạn đưa ra lời khẳng định: Trần Tiêu là thành viên của Tự lực
văn đoàn. Tuy nhiên, có nhiều chứng cứ cho thấy Trần Tiêu cũng như Trọng Lang…
là những cộng tác viên thân tín chứ chưa bao giờ được kết nạp vào Tự lực văn
đoàn như thành viên chính thức. Trong mục từ “Tự lực văn đoàn” của Từ điển văn học bộ mới
(2005), chúng tôi đã không xếp Trần Tiêu vào danh sách các thành viên của TLVĐ.
(3)
“Nhà văn không hề xem công việc của mình như là một kế sinh nhai. Đó là một mục đích tự thân, nó
không phải là một kế sinh nhai đối với anh ta cũng như đối với người khác, đến
nỗi nhà văn hy sinh sự tồn tại của
mình cho sự tồn tại của
nó nếu cần” (C. Mác. Về
văn học và nghệ thuật. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977; tr. 66).
(4)
Xem hồi ức của Bùi Hiển về việc gửi tập truyện Nằm vạ cho Nxb. Đời nay và cách đối xử lịch
thiệp, tận tình của Tự lực văn đoàn đối với bản thảo của ông, trên tạp chí Cửa Việt số 16, 1992.
Chuyển dẫn theo Vu Gia trong Nhất
Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, Nxb. Văn hóa, Hà Nội,
1995; tr.100-101.
(5)
Đáng kể nhất là chùm công trình nghiên cứu của Vu Gia gồm 6 tập: Khái Hưng nhà tiểu thuyết,
Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1993; Thạch
Lam thân thế và sự nghiệp, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1994; Nhất Linh trong tiến trình hiện đại
hóa văn học, Sđd; Hoàng
Đạo nhà báo – nhà văn, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1997; Trần Tiêu nhà văn độc đáo của Tự lực
văn đoàn, Nxb. Thanh niên, Bến Tre, 2006; Tú Mỡ -người gieo tiếng cười,
Nxb. Thanh Niên, Bến Tre, 2008.
(6)
Hegel. Mỹ học.
Phan Ngọc dịch. Nxb. Văn học và Trung tâm Văn hóa Đông Tây, Hà Nội, 2005; tr.
499-500.
(7)
Vu Gia. Nhất Linh trong
tiến trình hiện đại hóa văn học, Sđd; tr. 67.
(8)
Vũ Bằng. Những cây cười
tiền chiến, dẫn theo Vu Gia, Sđd; tr. 73.
No comments:
Post a Comment