Đặng Tiến
22-9-2012
Ngày
22-9-1912, thi sĩ Hàn Mạc Tử chào đời tại thị xã Đồng Hới, Quảng Bình, tính đến
hôm nay vừa chẵn 100 năm. Hôm qua, 21-9-2012, tại Quy Nhơn đã diễn ra cuộc Hội
thảo khoa học kỷ niệm 100 năm sinh của ông. Nhân dịp này, từ nước Pháp, nhà phê
bình quen biết Đặng Tiến gửi cho BVN
một chùm 3 bài về Hàn Mạc Tử, nói rõ nguyên ủy việc ông tìm ra bản thảo tập thơ
Gái quê gần
với nguyên tác nhất mà chúng ta sắp xuất bản nay mai, đồng thời cũng đưa ra
những đính chính tư liệu cần thiết thuộc «đời và thơ Hàn Mạc Tử» sau nhiều năm
bỏ nhiều công sức nhiên cứu cuộc đời và tác phẩm của nhà thơ.
BVN trân trọng công bố
thành một chùm dưới đây, hai bài sau đặt đưới tiểu mục Phụ lục 1 và Phụ lục 2 theo đúng tinh
thần của tác giả.
Bauxite
Việt Nam
---------------------------------
Hàn
Mạc Tử là nhà thơ lớn, đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc cách tân thơ
Việt Nam qua nhiều giai đoạn hiện đại hóa, đồng thời đã trải qua một đời sống
vật chất bi thiết. Đã nhiều người đề cập đến đời sống mà không mấy ai quan tâm
vào những đóng góp lớn lao của Hàn Mạc Tử cho nền thi ca Việt Nam.
Nhà
phê bình lý luận Phan Cự Đệ trong một biên khảo 1993, đã «xét lại» giá trị của
thơ Hàn Mạc Tử, và tổng lược đồng thời đánh giá : «trong khoảng trên dưới một chục năm trời hoạt động
trong thi đàn, Hàn Mạc Tử đã từ cổ điển, lãng mạn tiến nhanh sang tượng trương,
siêu thực, góp một phần quan trọng vào quá trình hiện đại hóa thi ca Việt Nam»
(1).
Một
nhận định như thế, đến từ một cây bút phê bình nổi tiếng, và nổi tiếng chính
thống, tưởng cũng là một bước «đổi mới», tiến đến thái độ công minh đối với một
tác gia văn học, có tác dụng tốt, dù muộn màng, là trả văn học về cho văn học.
Tuy
nhiên, trong biên khảo công phu, dài 70 trang nói trên, Phan Cự Đệ chưa kịp đề
cập đến những cái mới nơi Hàn Mạc Tử, vượt qua biên giới phong trào Thơ mới
1932-1945. Ngày nay, độc giả và người làm thơ thế kỷ XXI, đọc lại một số câu,
hoặc bài thơ Hàn vẫn còn sửng sốt trước vẻ tân kỳ, sáng tạo. Yếu tố mới thì
nhiều lắm, nhưng điều chính là Hàn Mạc Tử đã dâng hiến đời sống chân thành,
thảm khốc, ngắn ngủi của mình cho thi ca, đã để «hồn trào ra đầu ngọn bút / mỗi lời thơ đều dính não cân
ta». Ông đã làm thơ bằng cuộc sống thực, đau đớn, bi thương, bệnh
hoạn, khốn cùng.
«Tôi
làm thơ?
-
Nghĩa là tôi yếu đuối quá ? Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng
tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi mất trí,
tôi phát điên…
Tôi
đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng
hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận,
hờn đến gần đứt cuộc sống».
Tấm
lòng chân thực và thành khẩn ấy, tự nó đã tạo giá trị nhân bản cho tác phẩm.
Huống chi nhà thơ còn là bậc tài năng lớn, hoàn toàn làm chủ kỹ thuật điêu
luyện, ngôn ngữ phong phú, hình tượng độc sáng, đi từ lối Đường luật cổ điển
chuyển sang nguồn thi hứng hoàn toàn hiện đại, gần với trường phái siêu thực
phương Tây thời đó – vẫn còn mới mẻ đến ngày nay.
Cuộc
sống nghiệt ngã của tác gỉả, rồi lịch sử dân tộc đa đoan, đã giới hạn âm vang
của tài thơ. Trong một thời gian dài, tác phẩm Hàn Mạc Tử chỉ được phổ biến
rộng rãi tại các thành phố, ở nửa phần đất nước. Từ cuộc Đổi mới, cụ thể là từ
1987, tác phẩm Hàn Mạc Tử đã được truy tầm, phổ biến. Đặc biệt là Nhà xuất bản
Hội Nhà văn đã cố gắng in lại những tập thơ ấn hành trước 1945 theo đúng nguyên
bản, và không tị hiềm chính trị. Tuy nhiên, nhà xuất bản không tìm ra tác phẩm Gái quê của Hàn Mạc
Tử, do tác giả tự xuất bản, in tại Nhà in Tân dân, Hà Nội, xong ngày 23-10-1936
. Để cho đủ bộ sưu tập, và in ấn kịp thời toàn bộ 12 cuốn, nhà xuất bản năm
1992 đã phải đành lòng in lại tập thơ theo bản chép tay của Chế Lan Viên, mà
nhà Văn học đã xuất bản 1987, gồm có 21 trên 34 bài trong nguyên tác; trong
phần chọn in lại, có bài bị cắt xén. Từ bấy đến nay, Nhà xuất bản Hội Nhà văn
đã có lời hứa cố công tìm lại Gái
quê, bản in 1936, nhưng vô hiệu.
Chúng
tôi lưu cư tại nước ngoài non nửa thế kỷ, nhưng vẫn quan tâm đến văn học nước
nhà. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Hàn Mạc Tử, chúng tôi thử tìm lại thi tập Gái quê, bản in Tân
dân, năm 1936, dọ hỏi những gia đình thân thuộc với nhà thơ, trong và ngoài
nước, thì họ cho biết đã từng sở hữu, nhưng hiện thời lạc mất. May mắn được bà
Hoàng Thị Quỳnh Hoa, ở Maryland, Mỹ, có lưu giữ một bản sao trong tư liệu
ngườicô là Hoàng Thị Kim Cúc (Huế, nhân vật «áo trắng» trong bài thơ Thôn Vỹ,
có gìn giữ kỷ niệm về nhà thơ), do Trần Như Uyên đánh máy lại năm 1969, từ một
bản đánh máy khác của nhà thơ Phan Văn Dật, cùng ở Huế.
Sau
khi đối chiếu với nhiều nguồn tư liệu sẵn có, thì chúng tôi nhận thấy bản đánh
máy đáng tin cậy.
Ví
dụ bản Gái quê
của Chế Lan Viên 1987, sau này Nhà xuất bản Hội Nhà văn 1992 và 1998 lấy lại,
đều không có bài Hát giã
gạo mà Vũ Ngọc Phan chê «suồng sã» và ghi trang 31(2); so sánh với
bản mục lục mà ông Nguyễn Đình Niên(3) đề xuất trong luận văn cao học đệ trình
tại Sài Gòn, tháng 7.1973, thì đúng số trang.
Bài
Nụ cười (trang
7), Bẽn lẽn
(trang 10), cũng đúng số trang. Ngoài ra bài Tình
quê, trang 35, nổi tiếng, có hai câu :
Dầu
ai không mong đợi
Dầu
ai không lóng nghe
Bản
đánh máy, cũng như nhiều bản đang lưu hành, ghi «lắng nghe». Đối chiếu với văn
bản của những tác gia uy tín, chắc chắn đã từng đọc Gái quê từ bản gốc
in 1936, như Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, thì đúng là «lóng nghe».
Để nói rằng bản đánh máy chúng tôi có dưới tay, vì chỉ là bản sao, nên chưa
chắc đã chính xác từng chữ một, nhưng lỗi đánh máy thì có thể phục chế. Quý hồ
là nó gồm đủ 34 đề thơ, thay vì 21 theo bản Chế Lan Viên; và gồm cả lời tựa của
Phạm Văn Ký. Chưa kể bài Em
lấy chồng, tr. 47, gồm 4 khổ thơ, bản Chế Lan Viên gạt bỏ 3 khổ,
chỉ chừa đoạn cuối. Theo ông chủ trương, thì trong một tuyển tập, «mình có
quyền cắt»(4).
Nói
tóm lại, văn bản Gái
quê chúng tôi đề xuất, không dám nói là trung thực tuyệt đối so
với bản in tại Nhà in Tân dân 1936, nhưng chắc chắn là đầy đủ, không bị cố tình
đục bỏ, cắt xén.
Toàn
tập 34 bài không phải bài nào cũng hay. Và «nhiều bài có thể là của ai cũng
được» như lời phê phán công bình của Hoài Thanh(5), nhưng toàn tập không thể
thiếu trong việc khôi phục sự nghiệp Hàn Mạc Tử, trong đồng bộ phong trào Thơ
mới 1932-1945.
Mai
kia mốt nọ, có ai tìm ra được ấn bản 1936, thì phục chế lại bản in lần này,
cũng không phải khó khăn.
Niềm
vui là cơ duyên tìm được văn bản thất tung lâu nay, đúng vào dịp kỷ niệm một
trăm năm ngày sinh nhà thơ, 22 tháng Chín 1912.
Cũng
là nén hương xa, từ ngoài nước, gửi về quê hương, tưởng niệm một nhà thơ lớn
lao và bất hạnh của đất nước.
Orléans,
Pháp, 21.9.2012
Đ.T.
Ghi chú : Trong bài này chúng tôi dùng chính tả Hàn Mạc Tử – bút
danh cuối cùng của nhà thơ, theo những phát hiện mới đây – thay vì Hàn Mặc Tử.
Bút
danh Hàn Mặc Tử được lưu truyền vì đã được sử dụng trong nhiều tuyển tập được
phổ biến rộng rãi trước đây.
(1)
Phan Cự Đệ, Thơ văn Hàn
Mạc Tử, tr.22, NXB Giáo dục, 1993, Hà Nội.
(Nói
là «trên dưới một chục năm
trời », kỳ thật Hàn Mạc Tử chỉ sáng tác thơ mới trong năm năm cuối
đời, từ bài «Sống khổ và phấn đấu» trên báo Công
luận, ngày 6.4.1935. Mười năm sau Phan Cự Đệ có điều chỉnh : «chỉ trong mấy năm, từ 1935 đến 1940
ông đã làm cuộc hành trình văn học dài bằng một thế kỷ… ông là người tiên phong
đưa thơ vào con đường hiện đại, hòa nhập vào mặt bằng thơ hiện đại thế giới»,
trong Văn học Việt
Nam thế kỷ XX,
tr 454, NXB Giáo Dục, 2004, Hà Nội.
Nhà
phê bình Hà Minh Đức cũng đã có nhận định đại khái như vậy : «Hàn Mạc Tử đã thổi vào thơ sinh khí
của tuổi trẻ và hơi ấm của cuộc đời, để tạo nên những câu thơ có dáng vẻ riêng».
Trong Thơ Hàn Mạc Tử, khổ bỏ túi,
tr. 7, NXB Giáo Dục, 1994, Hà Nội.
Chúng
tôi nhớ lại: Hai ông Đệ và Đức là những bậc thẩm quyền trước đây đã nhiều lần
phê phán nặng nề Hàn Mạc Tử, làm cho người ta… e nể.
(2)
Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện
đại, tập III, 1942, tái bản nhiều lần, tr.707, NXB Khoa Học Xã Hội,
1989, Hà nội.
(3)
Nguyễn Đình Niên, Kinh
nghiệm về thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử, tr 53, NXB
Seacaef, California, 2009.
(4)
Chế Lan Viên, Tuyển tập
Hàn Mặc Tử, Tựa, tr 25, NXB Văn Học, 1987, Hà Nội.
(5)
Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi
nhân Việt Nam, 1942, tr205, in lại 1967, Sài Gòn.Lê Tràng Kiều trên
Hà Nội Báo tháng 11- 1936, trong mục điểm sách, cũng có dè dặt như thế.
***
Phụ
lục 1
TIỂU TRUYỆN SƠ LƯỢC
Đặng
Tiến
Hàn
Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, lần lượt, có khi cùng một lúc, lấy bút
hiệu Minh Duệ Thị, Phong Trần, PT, Lệ Thanh, hay Hàn Mặc Tử, thỉnh thoảng trên
báo còn dùng dăm ba bút danh khác.
1912: Nhà thơ ra đời
khoảng 8 giờ sáng ngày 22 tháng 9. Âm lịch, nhằm giờ Thìn, ngày 12 tháng 8 năm
Nhâm Tý, tại làng Lệ Mỹ, nơi cửa biển Nhật Lệ, thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng
Bình. Gia đình Công giáo thuần thành, ông có tên thánh Phanxicô (François)
không phải Phê-rô (Pierre) như nhiều tư liệu ghi nhầm.
Thân
phụ làm công chức thương chánh (quan thuế), gốc Thanh Hóa, tên Nguyễn Văn Toản,
nguyên họ Phạm. Mẹ tên Nguyễn Thị Duy.
1921: Thân phụ thuyên
chuyển đi làm việc nhiều nơi có cửa khẩu: Sa Kỳ (Quảng Ngãi), Quy Nhơn, Bồng
Sơn, rồi trở lại Sa Kỳ. Tử di chuyển theo gia đình, việc học không ổn định.
1926:
Cụ Nguyễn Văn Toản bị bệnh, qua đời. Gia đình dời về Quy Nhơn, số nhà 20 đường
Khải Định; ở cùng người con cả là Nguyễn Bá Nhân, làm thầu khoán, yêu văn thơ,
dưới bút danh Mộng Châu, cùng em xướng họa.
Hàn
Mạc Tử làm thơ từ đấy, bút hiệu Minh Duệ Thị, thường là thơ theo luật Đường.
Tử
học tiểu học tại Quảng Ngãi; khi dời vào Quy Nhơn học hai lớp cuối cùng bậc
tiểu học, và thi không đỗ.
1928
– 1930:
Ra Huế, theo học Trường dòng Pellerin (Bình Linh), ngoại trú, lớp Nhất niên B,
tức lớp 6 bây giờ. Không phải là lớp Premiere áp cuối bậc trung học thời ấy.
Phải ở lại lớp, đỗ bằng Tiểu học, thời ấy gọi là Pháp Việt Sơ học, rồi thôi
học.
1930
– 1931:
về lại Quy Nhơn.
Dưới
bút danh Phong Trần, đã có thơ đăng báo. Xướng họa và giao tiếp với cụPhan Bội
Châu, được cụ đề cao.
1932
– 1933:
Làm thư ký Sở Đạc điền (Địa chính) Quy Nhơn. Đọc sách, nghiên cứu; có thơ đăng
nhiều báo: Tiếng dân,
Phụ nữ tân văn,…
Đơn phương yêu Hoàng Cúc (Hoàng Thị Kim Cúc) và bắt đầu liên lạc thư từ với
Mộng Cầm (Huỳnh Thị Nghệ).
1934
– 1935:
Thôi việc, theo bạn bè vào Sài Gòn làm báo. Phụ trách trang văn chương báo Sài Gòn, viết cho báo Công luận, Trong khuê phòng. Lấy
bút hiệu Lệ Thanh và Hàn Mạc Tử.
Dưới
bút hiệu Lệ Thanh, được một giải thưởng thơ gì đó.
1936: Anh ruột là Nguyễn
Bá Nhân qua đời vì tai nạn.
Cảm
thấy sức khỏe suy giảm và trở về Quy Nhơn. Chấm dứt quan hệ tình cảm, sau hai
năm giao du thân mật với Mộng Cầm, cư ngụ tạiPhan Thiết.
Xuất
bản tập thơ Gái quê,
ký Hàn Mặc Tử, in tại Nhà in Tân dân, Hà Nội, xong ngày 23.10.1936, 48 trang,
khổ 12,50 x 19,40, gồm 34 bài. Tự phát hành.
Về
Huế, bán tác phẩm tại Hội chợ, gặp lại Hoàng Cúc, vẫn là sơ giao.
1937: Bệnh phong (cùi)
phát lộ rõ, nhưng vẫn sinh hoạt văn nghệ tại nhà. Gặp gỡ bạn bè văn nghệ, đứng
tên xuất bản đặc san Nắng
xuân. Thành lập Trường Thơ Loạn, mà tuyên ngôn là bài tựa thi tập Điêu tàn của Chế Lan
Viên.
Khi
bệnh phát nặng thì rời nhà, sống lẩn tránh nhiều nơi ngoại vi thành phố, có khi
về nhà. Cắt đứt liên lạc thư từ với bạn bè.Mai Đình(Lê Thị Mai) đến thăm nhiều
lần, trong quan hệ văn chương.
Tài
chánh khó khăn, phải nhờ cậy bè bạn, nhất là Quách Tấn.
1938: tập hợp tác phẩm
thành tập Thơ điên,
sau đổi tên là Đau thương,
nhưng không tìm ra được nhà xuất bản, và cũng không còn khả năng tự xuất bản
như với tập Gái quê
trước đó.
1939: Tiếp tục sáng tác
trong hoàn cảnh quẫn bách.
Đề
tựa cho Tinh huyết
của Bích Khê, viết bạt cho Một
tấm lòng của Quách Tấn. Tập hợp bản thảo tập thơ Xuân như ý rồi Thượng thanh khí.
Liên
lạc thư từ với Thương Thương (Trần Thị Thương Thương), một nữ sinh Huế 15 tuổi,
qua liên hệ của bạn văn là Trần Thanh Địch, chú ruột cô gái, muốn an ủi người
bệnh. Quan hệ này, chỉ qua thư từ, và cái tên Thương Thương, đã gây cảm xúc và
cảm hứng cho Hàn Mạc Tử sáng tác tập Cẩm
châu duyên gồm một số bài thơ và hai kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội; tác phẩm
cuối cùng này nửa chừng đã đình chỉ theo lời gia đình cô gái yêu cầu ngưng sử
dụng tên cô..
1940: Bệnh tình nguy
kịch, gia đình đưa vào Bệnh viện Quy Nhơn, ngày 8 tháng 9; rồi chuyển vào Trại
cùi Quy Hòa, ngoại thành Quy Nhơn, ngày 20 tháng 9.
Qua
đời về bệnh kiết lỵ lúc 5 giờ 45 sáng, ngày 11 tháng 11 năm 1940, và được mai
táng ngay buổi chiều ngày hôm đó tại nghĩa địa của bệnh viện, theo thông lệ của
trại cùi; người trong Viện không biết bệnh nhân quá cố là nhà thơ Hàn Mạc Tử;
gia đình không được thông báo.
Mộ
phần Hàn Mạc Tử sẽ được cải táng, dời về Gành Ráng, Quy Nhơn, năm 1959. Trùng
tu 2008.
Ngày
nay, thơ Hàn Mạc Tử được nhiều nơi in lại và phổ biến rộng rãi.
Đ.T.
Đối
chiếu và thiết lập, Orléans ngày 10-7-2012
***
Phụ
lục 2
HÀN MẠC TỬ, NHỮNG ĐIỂM TỒN NGHI
Đặng
Tiến
Trước
tiên là bút danh: Hàn Mạc hay Hàn Mặc?
Giới
nghiên cứu gần đây đã đồng thuận về bút hiệu sau cùng trong sinh thời nhà thơ,
chính thức là Hàn Mạc Tử. Lúc đầu ông ký Hàn Mặc Tử (có dấu ă trên chữ Mặc)
trên báo Công luận,
ngày 29.3.1934; và ở trang 3 tập Gái
quê, 1936, là tác phẩm duy nhất được xuất bản lúc sinh tiền. Do đó,
Vũ Ngọc Phan, trong Nhà
văn hiện đại, cuốn III, đã ghi tên Hàn Mặc Tử(1) và trong bài phê
phán Trần Thanh Mại(2) đã nêu bằng chứng, từ tập Gái quê, và cho rằng chữ Hàn Mạc Tử, mà
Trần Thanh Mại(3) đã dùng trong sách mình là sai và vô nghĩa. Hoài Thanh và
Hoài Chân trong Thi Nhân
Việt Nam(4), cũng đồng tình rằng «chữ Hàn Mạc Tử không có trong từ điển», tuy
nhiên vẫn ghi Hàn Mạc Tử theo Trần Thanh Mại.
Về
tên người, vấn đề không phải là ý nghĩa, mà là cách sử dụng của đương sự trước
khi qua đời, là Hàn Mạc Tử, bắt đầu trên Sài
Gòn tiểu thuyết, 21.9.1937, và thường xuyên, nhiều nơi, từ 1939.
Ngày nay, bia mộ mới nhất của nhà thơ ghi Hàn Mạc Tử.
Về
bút hiệu Lệ Thanh, các tư liệu nghiêm chỉnh nhất, từ Võ Long Tê, Phan Cự Đệ,
Phạm Đán Bình, đều cho rằng tác giả sử dụng từ 1934, khi vào Sài Gòn làm báo.
Thật sự là trước đó: trên Phụ
nữ tân văn, đã có tên Lệ Thanh dưới các bài thơ Cảm hứng, số báo 163,
ngày 11.8.1932, hay bài Vợ
chồng đi thuyền, số tiếp theo(5).
Dưới
bút danh Lệ Thanh, tác giả được một giải thưởng thơ gì đó của Thi xã Gia Định,
có lẽ khoảng 1934.
Thứ
đến là tên thánh (nhận được khi rửa tội) của người Công giáo Nguyễn Trọng Trí
(tên thật của Hàn Mạc Tử), là Phanxicô (François) chứ không phải là Phêrô
(Pierre) như người em ruột Nguyễn Bá Tín đã ghi(6) và nhiều người khác cứ thế
mà ghi tiếp vì không nghi ngờ gì. Thậm chí, tại Gành Ráng, nơi mộ phần xây
1959, trên tấm bia cẩm thạch khắc tên «Hàn
Mặc Tử tức Phero Phanxico Nguyễn Trọng Trí», do chính tay Nguyễn Bá
Tín (sđd, tr. 121) vẽ mẫu chữ để khắc vào bia đá. Nhưng bên cạnh đó, lại có một
thánh giá bằng xi măng cốt sắt, làm 1957, dời từ nghĩa địa Quy Hòa về, ghi rõ
tên thánh François Nguyễn Trọng Trí.
Bút
tự (chữ ký) cuối cùng của nhà thơ, một ngày trước khi qua đời, tại trại cùi Quy
Hòa, là François Trí.
Gần
đây, một nhà biên khảo nghiệp dư, vì trân trọng Hàn Mạc Tử, đã tìm ra được
chứng chỉ rửa tội của Nguyễn Trọng Trí, ngày 25-9-1912, tại họ đạo Tam Tòa, Giáo
xứ của nhà thơ tại Đồng Hới, sau 1954 dời vào Đà Nẵng và còn lưu giữ hồ sơ. Tác
giả Phanxipăng, trong một bài báo gần đây, cũng đã trình bày rành rẽ việc tên
rửa tội của nhà thơ là Phanxicô(7).
Ngoài
ra, theo thông tin từ Giáo phận Quy Nhơn, tên thêm sức, theo nghi thức Công
giáo, tại Nhà thờ chính tòa Quy Nhơn, năm 1933, của nhà thơ là Phanxicô-Xa viê.
Nhưng nay chưa tìm ra giấy tờ.
(Ngoài
đề 1: người làm việc nghiên cứu văn học Việt Nam thật vất vả: một chi tiết nào
nhỏ nhặt đều phải rà soát: gian nan một cách phù phiếm).
Việc
sinh thành Hàn Mạc Tử cũng thành vấn đề: Trần Thanh Mại trong một tài liệu cơ
bản, cho rằng Hàn sinh thiếu tháng vì thân mẫu uống rượu (sđd, tr. 27), gia
đình nhà thơ đã cải chính(8). Nhưng có thể là Hàn Mạc Tử lúc sơ sinh sấu nhược,
lớn lên vóc dáng nhỏ bé, như nhiều nhân chứng ghi nhận, chủ yếu là bạn thiếu
thời là Bùi Tuân(9): «Hàn
Mạc Tử là một đứa trẻ bạc nhược,
cằn cỗi, tưởng chừng không thể lớn lên được» Không biết tình trạng
này có liên hệ gì đến việc, về sau, nhà thơ yểu mệnh hay không.
*
* *
Về
học trình, vì thân phụ làm quan thuế thuyên chuyển nhiều nơi, nên việc học hành
của cậu bé dễ bị gián đoạn. Học lớp Ba tại Quảng Ngãi, lớp Nhì và lớp Nhất tại
Quy Nhơn (1926 – 1928). Theo hồi ký đáng tin cậy của Bùi Tuân (sđd, tr. 28) thì
Tử không đậu «ri-me» (tiểu học). Nguyễn Bá Tín ghi lại «hai chúng tôi cùng vào học Trường
trung học Quy Nhơn. Đến lớp Nhất anh
Trí ra Huế học Trường
Pellerin (sđd, tr. 20) là không hợp lý, có lẽ ý ông Tín là «sau lớp nhất» nhưng
nhiều người theo đó mà sai lầm; ngày nay nhà trường còn lưu chiểu học bạ của
nhà thơ(10) xác nhận hồi ký Bùi Tuân: «Nguyễn
Trọng Trí vào lớp
Nhất niên B Trường Pellerin ngày 5.9.1928. Cuối năm học 1928-1929 chàng không được lên lớp, có lẽ
vì chưa có bằng tiểu học. Cuối niên học ấy, tháng 6-1930, Trí thi đậu bằng tiểu
học» (tr. 33). Và thôi học (Bùi Tuân, sđd, tr. 33).
«Nhất
niên» là lớp đầu tiên bậc trung học, bây giờ gọi là lớp 6, không phải là «lớp
nhất» bậc tiểu học (cours supérieur) hay «lớp đệ nhất», cuối bậc trung học trước
kia. Điều này đã tạo ra nhầm lẫn vì có người hiểu, và dịch «nhất niên» thành
Première(11) theo chương trình Pháp.
Pellerin,
tên Việt là Bình Linh, là một trường trung học lớn, do các sư huynh dòng La-san
cai quản; trường Công giáo, có nội trú, nhưng theo Bùi Tuân (sđd, tr. 29), Hàn
ở trọ bên ngoài, nhà ông bà PhanThiện Tuần, và đi học đều đặn, chứ không «học hai ngày nghỉ một»
như Trần Thanh Mại đã ghi (sđd, tr. 25). Học trình chăm chỉ, học lực trung
bình, giỏi luận quốc văn, theo học bạ nhà trường còn lưu trữ.
Từ
học vấn sang học bổng. Nhiều tư liệu, có lẽ bắt nguồn từ Quách Tấn, ghi lại
rằng Hàn vì xướng họa, rồi tiếp xúc với nhà cách mạng Phan Bội Châu đang bị an
trí tại Huế từ 1926, nên bị xóa tên trong danh sách học sinh được học bổng đi
Pháp. Điều khó tin vì nhà thơ học lực tầm thường, mà cũng không có tư liệu cụ
thể nào chứng tỏ điều này. Nhưng cơ quan cấp học bổng là Hội như Tây du học, do
Thượng thư Nguyễn Hữu Bài sáng lập và chủ trì. Ông này quen biết với gia đình
Hàn Mạc Tử, cho nên dù giả thuyết không đáng tin, nhưng cũng không nên loại
trừ. Duy nó không quan trọng, và không chứng minh được gì. Nhiều người nhắc
lại, thổi phồng vì muốn chứng tỏ ông là nhà thơ yêu nước. Và lấy thêm minh
chứng khác: trong tập Gái
quê, tr. 42, có bài Lòng
quê tả tâm sự một nhà cách mạng bị tù, Chế Lan Viên đã thổi phồng,
gắn huân chương cách mạng cho bạn(12); khổ nỗi bài này không phải của Tử mà là
do ông «lược dịch» thơ Tàu của Uông Tinh Vệ, một chính khách Trung Quốc, đăng
trên báo Sài Gòn
hai số 18 và 25 tháng 11.1935, ký bút hiệu Lệ Thanh.
Phan
Cự Đệ, vì chưa bao giờ thấy toàn tập Gái
quê, 1936, nên cho rằng Tuyển
tập 1987 ghi nhầm(13), kỳ thật là in đúng, Chế Lan Viên chỉ bỏ sót,
hay đã cắt bỏ 1/3 tập thơ khi công bố năm 1987, chứ không thêm vào. Điều này
thêm một chứng minh việc phát hiện và tái bản tập thơ Gái quê theo nguyên bản
1936 là cần thiết.
*
* *
Sinh
thời ngắn ngủi, và yêu đương thật sự cũng không bao nhiêu, nhưng cuộc đời tình
ái của Hàn Mạc Tử đã gây ra dư luận và tranh luận. Điều này tự nó «cũng vui
thôi», nhưng mải lo lập thuyết hay giả thuyết về tiểu tiết đời tư, ít người
bình luận đến sự nghiệp văn học của Hàn Mạc Tử, chính ra phải là đề tài thiết
yếu.
Bài
này cũng không thoát khỏi vòng luẩn quẩn kia, nhưng mục tiêu là cố tình minh
định đôi sự tồn nghi, để độc giả an tâm đi vào tìm hiểu sự nghiệp văn học của
Hàn, mà không cần thắc mắc về tiểu truyện và huyền thoại.
*
* *
Bài
thơ được phổ biến nhất của Hàn Mạc Tử là Đây
thôn Vỹ Dạ, đã tạo nên nhiều giai thoại nhất. Bài thơ được sáng tác
cuối năm 1939, lúc tác giả ở Quy Nhơn, bệnh đã trầm trọng, nhận được một tấm
bưu ảnh phong cảnh Huế của cô Hoàng Thị Kim Cúc, từ Huế, gửi lời thăm chúc sức
khỏe; Hàn trả lời, cảm ơn bằng bài thơ này, dưới tên Ở đây thôn Vỹ Giạ, ngày
nay còn bút tích nhờ đương sự Kim Cúc tồn trữ.
Hoàn
cảnh và thời điểm sáng tác đã nhiều người biết qua nhiều tư liệu, như của Quách
Tấn, viết từ 1959, đăng trên báo Lành
mạnh, Huế, từ ấy, in lại trên báo Văn(14) và nhiều nơi khác. Thế mà Chế Lan
Viên, cuối 1986 trong bài tựa tuyển tập Bài
thơ thôn Vỹ, in 1987, tại Huế đặt nó vào đặc san Nắng xuân (Quy Nhơn),
chỉ ra được một số 1937, khiến nhiều người nhầm theo, kể cả danh gia Hà Minh
Đức(15) đã bình giảng cho học sinh, sinh viên, hay các vị Mã Giang Lân, Vũ Quần
Phương, v.v.
Tập
Nắng xuân, «sách chơi Xuân
Đinh Sửu», 1937,
là tập san, đứng
tên Chủ biên Nguyễn Trọng Trí, 32 trang, có 2 bài thơ ký Hàn Mặc Tử, là Mùa xuân chín, tr. 4 và Thi sĩ Chàm, tr. 14, đề
tặng Chế Bồng Hoan là… Chế Lan Viên !
Chuyện
tình thôn Vỹ, tóm tắt như sau: Năm 1932 Hàn Mạc Tử 20 tuổi, vào làm Sở Đạc
điền, Quy Nhơn, đơn phương yêu thầm một thiếu nữ tên Hoàng Thị Kim Cúc, thường
được gọi tắt là Hoàng Cúc, thuộc gia đình gia thế ở cùng đường Khải Định. Yêu
mơ mộng vậy thôi, chỉ có bày tỏ cùng một bạn thơ là Hoàng Tùng Ngâm, em họ cô
Cúc. Sauđó Tử thôi việc vào Sài Gòn làm báo. Về lại Quy Nhơn, xuất bản tập Gái quê, 1936. Cuối năm,
ra Huế tặng Gái quê
cho các em cô Cúc nhưng không tặng cô – dường như cô không muốn nhận. Có đến
nhà cô, ở Vỹ Dạ nhưng chỉ đứng ngoài vườn nhìn vào. Năm 1939, khi bệnh đã trở
nặng, thì Hoàng Tùng Ngâm có mách chị. Bà chị cảm động, gửi một tấm bưu ảnh 4×6
cm tả phong cảnh Huế cổ điển: con đò, dòng sông, ánh sáng, khóm trúc. Phía sau
có dòng chữ thăm hỏi và chúc sức khỏe, không ký tên, không đề ngày tháng, do
cậu em chuyển đi. Sau đó, tháng 11.1939, cô nhận được, vẫn do cậu em chuyển
lại, bài thơ chép tay dưới tựa đề chính xác: Ở
đây thôn Vỹ Giạ. Câu chuyện đơn giản và đơn phương như vậy, không
như người đời thêu dệt về sau: rằng Hàn Mạc Tử muốn tiến đến hôn nhân nhưng nhà
gái chê «không xứng mặt
đông sàng» (Quách Tấn, sđd, tr. 93). Rằng Kim Cúc đã gửi một «phiến ảnh 6×9, chị mặc áo dài lụa
trắng, đứng trong vòm cây cây xanh mát» (Nguyễn Bá Tín, sđd, tr.
50). Hai tác giả là thân cận với thi nhân mà còn lệch lạc như thế, trách chi kẻ
khác lắm điều thêu hoa dệt gấm. Bà Kim Cúc (1913-1989) là một cư sĩ Phật giáo,
sống tại Huế, hy sinh trọn đời độc thân cho Phật sự và sự nghiệp giáo dục, qua
đời tại Huế, sau một tai nạn lưu thông xảy ra tại Sài Gòn.
Tình
sử Mộng Cầm, thì ít gây tranh luận hơn, và vì vậy cũng mơ hồ hơn. Tư liệu chủ
yếu là bài phỏng vấn của Châu Hải Kỳ. Bà ấy cho biết: năm mười bảy tuổi, học
lớp Nhất, đã làm thơ và có thơ đăng báo Công
luận (1933), từ đó giao thiệp thư từ với Hàn Mạc Tử, đang làm Sở
Đạc điền. Khi Hàn vào Sài Gòn làm báo, thì có tìm địa chỉ và đến thăm lúc bà
đang học nữ hộ sinh tại Mũi Né, Phan thiết, khoảng tháng 4-1934. Và hai bên đi
đến «giao du thân mật», khoảng hai năm, khi bà về Phan Thiết dạy học và mỗi
cuối tuần nhà thơ đi tàu lửa từ Sài Gòn ra thăm chơi, có hôm đi thăm Lầu Ông
Hoàng mắc mưa. Có lúc Hàn đề nghị đi đến hôn nhân, nhưng bà từ chối, theo bà vì
biết Hàn Mạc Tử mắc bệnh hiểm nghèo, rồi lấy lý do tôn giáo bất đồng, bà còn
cho biết : «đó là mối tình
văn thơ, còn xác thịt thì hoàn toàn không nghĩ tới»(16). Hai bên
ngưng «giao du thân mật»
(chữ của bà) vào giữa năm 1936, nhưng vẫn liên lạc đến cuối năm. Sáu tháng sau
đó bà lấy chồng, và bị nhiều người trong giới văn chương chê trách: Quách Tấn,
Trần thanh Mại… Và Bích Khê.
Bà
tên Huỳnh Thị Nghệ (1917-2007), không phải họ Lê như trong một số tư liệu, cháu
gọi nhà thơ Bích Khê bằng cậu, nhưng Hàn MạcTử chỉ gặp và kết bạn với Bích Khê
sau khi quen Mộng Cầm.
Cùng
làm thơ như Mộng Cầm là Mai Đình, tên thật là Lê Thị Mai (1917-1997), sinh
trưởng trong một gia đình công chức, gốc Thanh Hóa, định cư tại Phan Thiết;
theo Võ Long Tê «làm nghề
cô giáo nữ công ở các trường tư thục Sài Gòn Chợ Lớn, đồng lương có thể nói là
gấp đôi gấp ba lương
công chức trung cấp, do
vậy mà thường thấy Mai Đình chạy vô chạy ra trục Sài Gòn Quy Nhơn»
(17), hoàn
toàn trái ngược với hình ảnh phổ biến, do Trần Thanh Mại đưa ra, một cô gái «đi giang hồ… Gió đời cứ đưa tấp nàng
tới bến kia ghềnh nọ»
(sđd, tr. 141). Họ Trần còn mô tả một «cốt
chuyện ly kỳ làm sao! một nhà thơ phung với một cô gái đi giang hồ»
(sđd, tr. 148). Cuốn sách nổi tiếng, đã kéo theo nhiều tác phẩm hư cấu, nào
truyện, kịch, tuồng, cải lương. Sự thật là: bà Mai Đình đến thăm nhà thơ năm
1937; về sau trở lại dăm ba lần, có lần ở lại hai hôm, chứ không có chuyện «tuần trăng mật kéo dài đến hai
tháng. Nàng đi chợ, nấu ăn, sắc thuốc, giặt quần áo cho nhà thi sĩ»
(sđd, tr. 146-148) khiến gia đình nhà thơ đã quyết liệt cải chính(18). Thậm
chí, nhiều lần, Trần Thanh Mại đã thẳng thừng xem bà như là gái giang hồ «ong qua bướm lại đã thừa xấu
xa» (sđd, tr.
146).
BàMai
Đìnhlàm thơ hay, có gia đình ổn định, tham dự kháng chiến chống Pháp, lập
nghiệp tại Hà Nội, làm ngân hàng; về sau dời vào TP Hồ Chí Minh, trong nhà vẫn
có bàn thờ Hàn Mạc Tử.
Tình
sử cuối cùng của Hàn là Thương Thương, sinh 1924, con gái Thượng thư Trần Thanh
Đạt, nữ sinh Huế, một mối tình tưởng tượng, do bạn nhà thơ là Trần Thanh Địch,
chú ruột cô gái bịa đặt để an ủi nhà thơ, khi ông đã bệnh nặng, năm 1939. Về
chuyện này, tư liệu đã ghi đúng, trừ việc cô gái lúc ấy 15 tuổi, chứ không phải
12 như Trần Thanh Mại, cũng là chú ruột, đã viết (sđd, tr.184)
Cuộc
tình tưởng tượng, qua thư từ này, và cái tên cô gái, đã tạo cảm hứng cho Hàn
Mạc Tử, năm 1940 viết tập thơ, lúc đầu có tựa đề Thương Thương, sau đổi thành Cẩm châu duyên, gồm một
vài bài thơ và 2 vở kịch thơ Duyên
kỳ ngộ và Quần
tiên hội, là tác phẩm dài cuối đời, phải bỏ dở theo lời gia đình cô
gái yêu cầu ngưng sử dụng tên Thương Thương.
*
* *
Cuối cùng, về bệnh
trạng Hàn Mạc Tử, cũng có đôi điều cần thống nhất.
Sau
bốn năm ẩn lánh đó đây tại nhiều địa điểm ngoại vi thành phố Quy Nhơn, để chữa
bệnh theo đông y, như Gò Bồi, Xóm Động, Thôn Tấn, có khi về nhà, cho đến cuối
1940 thì bệnh tình nguy kịch.
Ngày
8.9.1940 phải nhập viện Quy Nhơn là do quyết định của gia đình, chủ yếu là theo
lời khuyên của người anh rể lả Bửu Dõng, y tá bệnh viện Quy Nhơn chứ không phải
do chính quyền bắt ép, hay do có người chỉ điểm. Phòng thí nghiệm bệnh viện tìm
ra vi trùng Hansen gây bệnh phong cùi, nên ngày 20.9.1940, Hàn Mạc Tử được
chuyển vào Viện cùi Quy Hòa, do các dì phước dòng tu Phanxicô trông nom, dưới
tên Nguyễn Trọng Trí, không ai biết là nhà thơ nổi tiếng; rồi qua đời vì bệnh
kiết lỵ gia trọng, ngày 11.11.1940, lúc 05.45 giờ, chớ không phải 11 giờ trưa
như Trần Thanh Mại đã ghi chắc nịch (sđd, tr. 258) khiến nhiều người, kể cả
Quách Tấn nhầm theo.
Tìm
hiểu sai lầm sơ đẳng này, thì nghe nhiều người giải thích: vì nhà thơ qua đời
ngày 11 tháng 11, nên ghi giờ 11… cho có ý nghĩa (!!!)(19). Theo thông lệ của
Viện, việc chôn cất được cử hành ngay buổi chiều ngày hôm đó.
Và
bệnh nhân François Nguyễn Trọng Trí được mai táng tại nghĩa trang của Viện, chớ
không phải lại Đèo Son như Chế Lan Viên đã ghi trong tiểu sử «Tuyển tập» đã dẫn.
Trong
Nhà văn hiện đại
tập 3, viết 1942, chương Hàn Mạc Tử, Vũ Ngọc Phan đã nhận định công minh và
thực tế:
«Từ ngày Hàn Mặc Tử từ trần đến nay,
mới trong khoảng hai năm trời, mà người ta đã nói rất nhiều và viết rất nhiều
về Hàn Mặc Tử.
Chứng bệnh của thi sĩ, cuộc đời đầy đau thương của thi sĩ, lời thơ thành thực
của ông, khi nghẹn ngào, khi hoạt bát, nhưng bao giờ cũng chứa chan tình tứ hay
một tin tưởng cao xa, đã làm cho nhiều người chú ý đến đời ông và thơ ông.
Song
dư luận bao giờ cũng rất kỳ, đã chú ý đến người và đến thơ, thì dư luận gần như
trộn lẫn người với thơ làm một. Cho nên nói một cách công bình, thì gần đây
«người» của Hàn Mặc Tử đã làm quảng cáo cho thơ của Hàn MặcTử rất nhiều. Đến
nỗi về ông, người ta đã viết một giọng say sưa, ông là một thi sĩ mà trên thế
giới không một thi sĩ nào sánh kịp» (sđd, bản 1989, tr. 706).
«Người
ta», trong câu cuối, ám chỉ Trần Thanh Mại, tác giả cuốn Hàn Mạc Tử mà chúng tôi,
trong bài này đã nhiều lần tham chiếu.
Nhận
định của Vũ Ngọc Phan, từ thời điểm 1942 cho đến nay – tròn 70 năm – đã «cổ lai
hy», nhưng vẫn chưa chịu già: cho đến nay «người ta» vẫn tiếp tục nói nhiều,
viết nhiều, nhất là trên các mạng, «…
trộn lẫn người với thơ làm một… Người đã làm quảng cáo cho thơ…»
Không những nói hay viết, người ta còn dựng kịch, làm tuồng, phim ảnh, ca hát.
Mộ phần nhà thơ trở thành nơi du lịch, thương mại náo nhiệt, hấp dẫn bằng giai
thoại ly kỳ.
Nhưng
có một việc tối thiểu, là tìm lại tập thơ Gái
quê, bản gốc, tác phẩm duy nhất được in ấn, xuất bản năm 1936, sinh
thời tác giả, thì không ai làm. Bắt đầu từ gia đình, đến thân bằng quyến thuộc
trong làng văn chương hay giới sưu tập, có người có địa vị trọng vọng. Gì đến
nỗi không tìm ra được một ấn phẩm đã xuất bản chưa lâu?
Chúng
tôi ở ngoài nước, cũng vì tò mò thôi, tìm thử, cũng không công khó gì lắm, thì
có được bản Gái quê
in 1936; tuy chỉ bản đánh máy, nhưng sau khi đối chiếu với nhiều nguồn tư liệu
thì thấy chính xác, đầy đủ hơn những bản hiện lưu hành in theo bản chép tay của
Chế Lan Viên từ 1987.
Niềm
vui, có thể nói là cơ duyên, là tìm ra được tác phẩm nguyên gốc đúng vào dịp kỷ
niệm 100 năm sinh Hàn Mạc Tử. Do đó, nhân tiện, chúng tôi rà soát lại những tư
liệu về nhà thơ, rải rác từ 70 năm nay. Nhân thấy lắm điều bất nhất, chúng tôi
so sánh và tìm căn cứ hợp lý nhất đề xuất trong bài này.
Phần
nào, chúng tôi cũng có học tập biên khảo của Giáo sư, nhà văn Pháp, Etiemble
khi ông bỏ ra non một đời người để nghiên cứu «Huyền thoại Rimbaud» (Le Mythe de Rimbaud),
một nhà thơ thiên tài người Pháp, đã có cuộc đời ly kỳ và ngắn ngủi (1854 –
1891).
Bộ
«Huyền thoại»
này gồm 5 tập, đặc biệt là cuốn 2: Sự
hình thành của huyền thoại, hơn 500 trang, ấn hành năm 1954, kỷ
niệm bách niên ngày sinh của Rimbaud, như chúng ta tưởng niệm Hàn Mạc Tử năm
nay.
Dĩ
nhiên là công việc chúng tôi hôm nay, vội vàng và hời hợt, chưa đáng là hạt bụi
so với công trình đồ sộ và uyên bác của Etiemble; nhưng vẫn phải nói ra, tựa hồ
giọt nước nhớ đầu nguồn.
Việc
sưu khảo của chúng tôi chỉ giới hạn ở những tư liệu, sách báo may mắn có sẵn
dưới tay, chốn tha hương, nên nhất định còn nhiều thiếu sót; phương tiện đối
chiếu hạn chế, nên những đề xuất chưa chắc đã chính xác, cho nên tạm gọi bài
này là những điểm tồn ghi.
Mong
mai kia, ngày tiên tháng Phật rộng dài, thời gian sẽ có lời giải đáp thỏa
đáng.MHM
Orléans,
Pháp, 02.8.2012
Đ.T.
(1)
Vũ Ngọc Phan, NXB Tân Dân, 1942, Hà Nội, ấn bản Vĩnh Thịnh, tr 326, 1951, Hà
Nội, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội in lại 1989, tr. 706
(2)
Vũ Ngọc Phan 1989, nt, tr. 480
(3)
Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử,
NXB Võ Doãn Mại, 1942. Tái bản nhiều lần.
(4)
Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi
nhân Việt Nam,1942, in lại nhiều lần, bản 1967, tr. 203
(5)
Nguyễn đình Niên, Kinh
nghiệm về thân phận người làm thơ trong Hàn Mạc Tử (luận án cao học Sài Gòn
1973), tr 41, NXB SEACAEF, 2009, California.
(6)
Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử
anh tôi, tr 13, NXB Tin, 1990, Paris.
(7)
Phạm Xuân Tuyển, Đi tìm
chân dung Hàn MạcTử, NXB Văn học, Hà Nội, 1997, tr. 60-61.
Phanxipăng
trên báo Nghiên cứu và
phát triển, số 6-2010.
(8)
Nguyễn thị Như Lễ (chị ruột), báo Lành
mạnh, Huế, ngày 1-11-1959. Nguyễn Bá Tín nhắc lại, sđd, tr. 17)
(9)
Bùi Tuân, Một tình bạn
thanh cao, tr 21, tủ sách Bùi Gia, 2010, TPHCM, đã đăng trên tạp
chí Vinh Sơn,
Huế, ngày 1.2.1952.
(10)
Văn (tạp chí),
số 179 ra ngày 1-6-1971, tr. 86, Sài Gòn
(11)
H.Peras et VT Bích, Hàn MặcTử Le
Hameau des Roseaux, NXB Arfuyen, 2001, Paris
(12)
Chế Lan Viên, Tuyển tập
Hàn Mặc Tử, Tựa, tr. 18, NXB Văn học, 1987, Hà Nội.
(13)
Phan Cự Đệ, Thơ văn Hàn
Mạc Tử, tr. 108, NXB Giáo dục, 1993, Hà Nội.
(14)
Tạp chí Văn,
tr. 94 ; số 73 – 74, ngày 7-1-1967, Sài Gòn.
(15)
Hà Minh Đức, Tổng tâp Văn
học Việt Nam hiện đại
tr. 41-45 ; NXB Hà Nội, 1998; Hà Nội
(16)
Báo Văn số
179, đd, tr. 89-92. Đã đăng trước trên Phổ
thông số 63, ngày 15-8-1961, Sài Gòn. In lại nhiều nơi.
(17)
Trích theo Chế Lan Viên, tựa Tuyển
tập Hàn MạcTử, tr. 21, NXB Văn Học, 1987, Hà Nội.
(18)
Nguyễn Thị Như Lễ, Những
điểm sai lầm về Hàn Mạc Tử, báo Lành
mạnh, 1-11-1959. Huế. In lại nhiều nơi.
(19)
Phạm Xuân Tuyển, sđd, tr. 153, Phạm Đình Khiêm và Võ Long Tê, Như hương trầm bay lên,
tr. 173 và 179, NXB Tôn giáo, 2010. TPHCM.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
-------------------------
BÀI LIÊN QUAN :
Nhân tập thơ Gái
Quê được in lại - Thanh Thảo, Đặng Tiến— cập nhật lần cuối 19/09/2012
Các bút hiệu
của Hàn Mạc Tử - Phạm Đán Bình— cập nhật lần cuối 19/09/2012
Hàn
Mạc Tử, tiểu truyện sơ lược - Đặng Tiến— cập nhật lần cuối 19/09/2012
Hàn
Mạc Tử và bài thơ thôn Vỹ - Đặng Tiến— cập nhật lần cuối 19/09/2012
Hồn Thơ... - Hàn
Mạc Tử— cập nhật lần cuối 19/09/2012
No comments:
Post a Comment