Viên Linh
Wednesday,
September 19, 2012 2:16:49 PM
“Thái Tuấn đã tổng hợp tinh túy của nghệ thuật Á Ðông và kỹ
thuật hội họa Âu Châu để vẽ nên những tấm tranh của mình. [...]Tiến vào nền
nghệ thuật mới, cuộc Triển lãm Hội họa Mùa Xuân Giáp Thìn, 1964, do Văn Hóa Vụ
tổ chức ở Nhà Hát Lớn Sài Gòn là một cột mốc đáng kể. Có 583 họa phẩm sơn dầu
do hơn 200 họa sĩ khắp nơi gửi về tham dự.
Họa
sĩ Thái Tuấn tự họa, 2004. (Hình: Tài liệu riêng của Viên Linh)
Phòng
tranh này đã gây được nhiều dư vang trong cuộc sống tinh thần của đất nước
chính phần nào cũng là nhờ ở sự thúc đẩy của Hội Ðồng Giám Khảo cuộc triển lãm,
cổ xúy cho cái mới, hỗ trợ cho những tiếng nói trẻ táo bạo, với chủ tịch hội
đồng là Thái Tuấn và 4 thành viên khác trong hội đồng.” (Huỳnh Hữu Ủy, Hai Mươi
Năm Hội Họa Miền Nam, 1954-1975, Khởi Hành 81, 7.2003)
Họa
sĩ Thái Tuấn là một nghệ sĩ toàn diện mà tài năng không chỉ ở nghệ thuật tạo
hình, ông còn làm thơ, viết tiểu luận, tổ chức các cuộc triển lãm lớn qui tụ
nhân tài trong nước, nhất là nhân tài trong giới trẻ chưa có dịp xuất hiện; ông
còn là người, qua nét vẽ của mình, đưa vẻ đẹp phương Ðông giản dị hiển hiện và
tồn tại trong tâm tưởng người thưởng ngoạn. Sau năm 1954 ông đã thúc đẩy nền
hội họa miền Nam tiến triển không ngừng, mà từ đó, khơi dậy sự sáng tạo tưng
bừng, chỉ bốn năm sau, 1958, miền Nam có hơn 50 cuộc triển lãm hội họa! Theo
tổng kết của nhà biên khảo nghệ thuật tạo hình Huỳnh Hữu Ủy, năm sau có 300 bức
họa được chọn (trong hàng ngàn bức) để trưng bày trong Phòng Triển Lãm Mùa Xuân
Kỷ Hợi 1959. Ðỉnh cao đáng kể nữa là năm 1962, Việt Nam lần đầu tiên đứng ra tổ
chức một cuộc triển lãm mời nghệ sĩ các nước tham dự, mệnh danh là “Ðệ Nhất
Triển Lãm Quốc Tế Mỹ Thuật” tại Sài Gòn, diễn ra trong một tuần lễ tại Vườn Tao
Ðàn, có mặt nhiều nước như Pháp, Ðức, Mỹ, Hòa Lan, Thụy Sĩ, Á Căn Ðình, Thổ Nhĩ
Kỳ, các nước Á Châu như Nhật, Trung Hoa, Ấn Ðộ, Úc Châu,... và nhiều nước khác.
Trong lòng cuộc sinh hoạt nghệ thuật này, Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam được thành
lập, và đây là nhóm nghệ sĩ xung kích nổi bật nhất của Việt Nam trong thời hiện
đại; ở đó người ta thấy những người sẽ trở thành các nghệ sĩ tên tuổi không
phải của một thời, mà sau 1975, cho dù chính thể biến chuyển, họ vẫn tồn tại,
vẫn được trọng vọng, dù ở hải ngoại hay ở trong nước.
Các
nghệ sĩ của miền Nam trưởng thành sau thập niên '50 đã trở nên một hiện tượng rỡ
ràng. Dù không muốn so sánh, người ta vẫn tự nhiên nhìn thấy sự so sánh. Vì sao
ở hữu ngạn con sông cỏ cây phong cảnh tốt tươi, mà nơi tả ngạn là sự còi cụt
khô cằn và ảm đạm? Ðiều giản dị và căn bản là nghệ sĩ bên hữu ngạn đã được nuôi
dưỡng bởi tinh thần sáng tạo, lối sống tự do, nội dung nhân bản, được đãi lọc
trong ảnh hưởng của tinh hoa nghệ thuật thế giới, vì hữu ngạn mở cửa ra với thế
giới, đón nhận cái hay cái đẹp của thế giới. Nơi nào cá tính bản chất con người
được nẩy nở, được vun bồi, nơi ấy cuộc sống thăng hoa. Ngược lại phía tả ngạn
“toàn là hoa cúc vạn thọ” như văn hào Phan Khôi đã báo động từ thập niên '50 ở
Hà Nội.
Cho
tới ngày nay, nói tới hội họa Việt Nam, khởi nguồn từ thế hệ thứ nhất sau khi
trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Ðông Dương được người Pháp thành lập ở Thăng Long-Hà
Nội năm 1925, chúng ta nói đến những sinh viên họa sĩ khóa đầu tiên, những Lê
Phổ, Mai Trung Thứ, Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Ðệ, sau đó là những tinh túy của
thời tiền chiến, nhưng Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Tạ Tỵ,
Trần Văn Cẩn, Nguyễn Phan Chánh... Theo Nguyễn Hải Yến, bà nhắc đến “tứ quí Trí
Lân Vân Cẩn.* Ở miền Nam thời dựng nước Cộng Hòa, chúng ta có Thái Tuấn, Duy
Thanh, Ngọc Dũng, Tú Duyên, Văn Ðen, và tiếp đó là một lớp sóng triều ào ạt:
Nguyễn Trung, Ðinh Cường, Cù Nguyễn, Nguyễn Phước, Trịnh Cung, Nguyên Khai, Lê
Tài Ðiển, Nguyễn Ðồng, Nguyễn Thị Hợp, Hồ Thành Ðức, Bé Ký.
Tranh
Thái Tuấn một mình tách hẳn khỏi đám đông. Ðó là những bảng màu nhạt lạnh,
nhiều màu đen, xám, xanh rêu, xanh lục, mênh mông không gian, nếu khoảng trống
là không gian. Ngoài phụ nữ ông ưa vẽ đàn ông trong vai hề, hay vai diễn viên.
Còn nhớ tôi thực sự quen ông là vào năm 1960, khi đang ở chùa Phú Thạnh. Ngôi
chùa có mặt tiền mở ra đường Nguyễn Huỳnh Ðức, mặt hông phía phải là con ngõ
trổ ra đường Trương Tấn Bửu. Lúc đầu ở một mình, sau họa sĩ Nguyễn Trung chia
một nửa căn nhà để làm xưởng vẽ, tôi cũng có vẽ một tấm tranh sơn dầu để ở xó
nhà. Nguyễn Trung cũng để ở xó nhà một bức, màu bleue nhạt. Bức này đem dự Cuộc
Triển Lãm Mùa Xuân 1960 hay 61, và được trao Huy Chương Bạc. Một hôm đang ở nhà
thì Nguyễn Trung đi đâu về, dẫn theo họa sĩ Thái Tuấn. Thấy anh ngó tấm tranh
với bảng màu nâu sẫm đỏ màu máu bầm, tôi khoe là tranh của tôi. Anh không có vẻ
ngạc nhiên gì, nhưng chăm chú hơn. Vẽ tiếp đi nhé, anh bảo tôi.
Thái Tuấn tên thật
là Nguyễn Xuân Công, ra đời ở Hà Nội năm 1917, vậy lúc gặp nhau lần đầu anh 43
tuổi, tôi 22. Suốt thời gian quen biết, sau Tháng Tư 75, chúng tôi vẫn thường
trao đổi thư từ, đôi khi thư anh kèm theo một tấm tranh vẽ trên giấy croquis,
đôi khi là một bài thơ, thảng hoặc là một bài tiểu luận ngắn.
Lúc
4 giờ sáng thức dậy, nấu xong một ly cà phê expresso, lục mở di cảo ra xem, tôi
thấy bản sao cái catalogue khi người Pháp tổ chức triển lãm tranh cho anh ở La
Maison Francaise tại Tòa Ðại Sứ Pháp ở thủ đô Washington, D.C. Phần tái bút
Thái Tuấn gọi tôi bằng ông: “T.B. Cái tờ catalogue phê bình Tây nó phong cho
mình là Maitre ông thấy có ‘xướng’ không?”
Lá
thư chót tôi tìm được trong mớ giấy tờ anh gửi cho tôi thấy đề năm 2005. Cũng
sung sướng tìm thấy 3 tấm tranh “original” tặng tôi, có một tấm tranh mầu khỏa
thân phía sau là 4 câu thơ anh viết tay:
Trần
truồng tự thuở nằm nôi
Ðến
khi từ giã cuộc chơi vẫn truồng...
(Thái
Tuấn, 2005)
Ðó
chỉ là hai câu trích trong bài thơ anh vịnh tấm tranh tố nữ, ký 2005, lúc 88
tuổi. Vì tấm tranh quá khổ cho một cái phong bì, và cái phong bì quá khổ đã bị
vứt đâu mất, nên không rõ lúc làm bài thơ này anh ở đâu, hải ngoại hay Sài Gòn. Chỉ biết hai năm sau, anh mất ở Sài Gòn,
ngày 26 tháng 9, 2007. (Tài liệu từ Hồi Ký Viên Linh, chưa in)
No comments:
Post a Comment