Du Tử Lê
Wednesday,
September 12, 2012 2:34:45 PM
Việt Nam có nhiều vùng đất được ghi nhận là “địa linh nhân
kiệt.” Một trong những vùng được công nhận và, nói tới nhiều là Quảng Nam.
Nhà
thơ Luân Hoán. (Hình Luân Hoán)
Những
danh nhân có tên trong lịch sử, xuất thân từ xứ Quảng nhiều tới mức độ khó ai
có thể nhớ hết. Tuy nhiên, những tên tuổi như Hoàng Diệu, Tiểu La/Nguyễn Văn
Thành, Ông Ích Khiêm, Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Phan Chu Trinh, Nguyễn Bá
Trác, Phan Khôi,... khi được nhắc tới, hầu như ít ai không biết.
Xứ
Quảng cũng là nơi duy nhất, được vua Thành Thái sắc phong “Ngũ Phụng Tề Phi.”
Theo ghi nhận của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Q. Thắng thì, “Khoa Mậu Tuất
1898 tỉnh Quảng Nam có 5 thí sinh trúng kỳ thi Hội và thi Ðình nên được vua
Thành Thái (1879-1854) ban tấm biển ghi 4 chữ 'Ngũ Phụng Tề Phi' (năm con phụng
cùng bay) nhằm chúc, tặng cho các sĩ tử nói chung và học trò đất Quảng thuở ấy
học giỏi.” (1)
Nhiều
người nói với tôi rằng, đa số nam giới xứ Quảng chỉ có một trong hai chọn lựa:
Làm cách mạng hoặc làm văn nghệ.
Tôi
không rõ lắm xác suất của nhận định vừa kể. Nhưng, hiển nhiên, rất nhiều bằng
hữu trong văn giới của tôi, xuất thân từ đất Quảng. Nhiều người nổi tiếng rất
sớm. Cũng có những người khi bước qua tuổi trưởng thành, hoặc đã nửa đời người
mới chính thức tìm vào sinh hoạt văn học, nghệ thuật. Tuy muộn màng, nhưng
trong số này, cũng không thiếu người nổi tiếng.
Một
trong những bằng hữu Quảng Nam của tôi, bước chân vào sân chơi văn chương miền
Nam 20 năm, rất sớm là nhà thơ Luân Hoán. (2)
Ngay
từ năm 1964, 23 tuổi, nhà thơ Luân Hoán/Lê Ngọc Châu đã có tác phẩm xuất bản.
Thi phẩm “Về Trời.”
Ở phần “Lời Bạt,”
trước khi khép lại thi phẩm “Về Trời” của Luân Hoán, nhà văn Dương Kiền viết:
“Gia
tài quê hương của chúng ta đã bị xâu xé gần hết, chúng ta chỉ còn lại một di
sản quí báu: tình tự con người. Tình tự con người bất chấp mọi tương tranh,
chia cắt, vùi dập, thủ đoạn... nó sáng ngời trong đêm tối kéo dài từ hai chục
năm nay, nó là ngọn lửa sưởi ấm những tâm hồn còn biết hướng về nhau, những con
tim còn biết xôn xao mơ ước. Nó làm thành một thế giới trên những thế giới của
tham vọng và hận thù. Anh Luân Hoán, chính thơ anh đã đưa tôi vào thế giới
ấy...” (3)
Nhưng
theo ghi nhận của tôi, khi miền Nam cuối thập niên (19)60 bị đẩy sâu vào giai
đoạn chiến tranh khốc liệt; dẫn tới việc nhà thơ của chúng ta đã để lại nơi
chiến địa bàn chân trái của mình, Luân
Hoán viết:
nằm im mà thấy bềnh
bồng
nghe như mây đảo
vòng vòng trong tim
tỉnh ra sửng sốt
giật mình
một đoạn chân đã
tuyệt tình bỏ đi
...núi Vàng, cõi đặt
mộ bia
cho bàn chân trái
nằm kia, mơ hồ
cái chân một thuở
đánh rơi
hình như đang nhớ
đến tôi, khóc thầm (4)
Ðó
là năm 1968. Nơi “...bàn chân trái nằm kia, mơ hồ” của Luân Hoán/Lê Ngọc Châu
là “Núi Vàng,” thuộc quận Ðức Phổ, Quảng Ngãi.
Nhưng
chính sự “một đoạn chân đã tuyệt tình bỏ đi” mà, từ đó, giới thưởng ngoạn được
đọc thi phẩm “Nén hương cho bàn chân trái” của họ Lê.
Theo
tôi, cũng chính từ thi phẩm vừa kể, Luân Hoán được người đọc và, văn giới chú ý
tới thơ ông nhiều hơn nữa.
Trước
đấy, dự cảm mang tính tiên tri, dường báo trước cho Luân Hoán biết, bi kịch
chiến trường, rồi đây, sẽ xẩy đến cho ông, sau khi chúng đã tìm đến những người
bạn của ông:
từ đồn Ðức Hải ta về
phép
bạn thế chân ta kích
xóm đêm
đâu có chỗ nào vừa
mắc võng
nằm hoài cũng mỏi
cái lênh đênh.
bạn mới ngả lưng lim
dim mộng
cạc-bin, bảy-chín,
lẫn AK
trời xanh thăm thẳm
hồn nhiên quá
phận số dành riêng
mỗi chúng ta?
ta trở lại đồn qua
xóm cũ
rút colt bắn lẫy cái
lu sành
nước tràn, lu vỡ,
trời ta khóc
bóng bạn chập chờn
đóm lệ xanh
Nam ơi, Ðức Phổ trưa
nay vắng
biển lặng ngồi
không, xót phận mày
ngày mai nhổ trại
lùng Ðức Phụng
đến lượt ta, hay đứa
nào đây? (5)
Mặc
dù Luân Hoán/Lê Ngọc Châu mang được vào trong thơ của mình, tên của nhiều loại
súng hơn bất cứ một tác giả nào khác; nhưng tôi vẫn không thấy tính hận thù,
sắt máu trong thơ ông. Khi nhớ tới bạn đã hy sinh nơi trận địa thì mức độ “bi
phẫn” cao nhất của họ Lê, cũng chỉ là rút cây “cold” bắn... vỡ “cái lu sành” -
Và sau đấy, ông bật khóc!
Cũng
vậy, khi nhận được giấy gọi động viên, ông bình thản, như thể sự kiện ấy, không
hề là một điều gì to lớn hay nghiêm trọng:
bỏ lệnh gọi trong
túi quần
tôi đi qua từng
đường phố
không biết phải làm
gì
tôi trở về rửa mặt
quyết định ngủ một
ngày
thản nhiên không mơ
mộng...” (6)
Phải
chăng thanh niên miền Nam, trong cuộc chiến miền Nam 20, ngay từ tấm bé, đã
không bị dạy dỗ, nhồi nhét tinh thần căm thù?
Phải
chăng, vì thế mà, đặc tính thơ, văn miền Nam, theo ghi nhận của Giáo Sư Neil. L
Jamieson, vốn đầy tính nhân bản? (7)
(Còn
tiếp một kỳ)
Chú
thích:
(1)
Theo Wikipedia, Bách khoa toàn thư mở “Khoa cử và giáo dục Việt Nam,” NXB Văn
Hóa Thông Tin, 1993. Vẫn theo Wikipedia thì “Một lập luận khác của ông Trương
Duy Hy là danh hiệu 'Ngũ phụng tề phi' do Tổng Ðốc Nam-Ngãi Ðào Tấn và Ðốc Học
Quảng Nam Trần Ðình Phong lấy từ tích xưa đặt cho 5 vị đại khoa nói trên, đồng
thời tặng cho bức trướng có 4 chữ 'Ngũ phụng tề phi', có thêm hình 5 con chim
phụng đặt tại dinh Tổng Ðốc ở Ðiện Bàn. Và theo Giáo sư Sử học Ðặng Tiến thì
‘...chuyện này không có sử sách nào ghi lại mà chỉ lưu truyền ở dân gian. Nhất
là những đoàn hát bội ở Trung bộ lấy đó làm vẻ vang truyền tụng nhằm vinh danh
xứ Quảng.' Tuy nhiên, việc 5 đại khoa (gồm 3 tiến sĩ và 2 phó bảng người Quảng
Nam đỗ đại khoa trên 17 vị toàn quốc cũng được cho là hi hữu xưa nay hiếm tại
Việt Nam.”
(2)
Nhà thơ Luân Hoán tên thật là Lê Ngọc Châu, sinh ngày 10 tháng 1, 1941 tại Hội
An, Quảng Nam. Gia đình ông di chuyển ra Ðà Nẵng từ 1953. Là sĩ quan QLVNCH,
ông bị mất bàn chân trái tại mặt trận Ðức Phổ, Quảng Ngãi, 1968. Kể từ năm
1985, cùng với gia đình, ông định cư tại Montreal Canada.
(3),
(4), (5), (6): Nguồn đd.
(7)
Ðọc thêm “Understanding Vietnam,” bản paperback, in lần thứ nhất năm 1995, bởi
liên đại học Berkeley, Los Angeles & London.
Wednesday,
September 19, 2012 2:07:32 PM
Ở những trang viết trước, tôi trích dẫn khá nhiều thơ liên quan
tới chiến tranh của Luân Hoán. Ðó là những bước tới (của thơ), sau khi bàn chân
trái của ông đã vĩnh viễn gửi lại nơi chiến địa. Ðiều đó không có nghĩa tôi có
chủ tâm phân chia từng mảng thơ của Luân Hoán/Lê Ngọc Châu thành những ốc đảo
biệt lập.
Tôi
hiểu có nhiều cây bút khi phê bình thơ, thường có thói quen phân vùng, chia
khu, đánh đai cho cõi giới thi ca của một số tác giả mà họ đề cập.
Tôi
cũng hiểu sự chia khu, phân vùng đó, sẽ giúp cho người đọc dễ tiếp cận từng
mảnh vườn mà, nhà thơ kia đã lao tác cực lực, kinh qua nhiều giai đoạn nổi trôi
đời người. Nhất là với những nhà thơ có số lượng sáng tác phong phú, giầu có,
như trường hợp của Luân Hoán/Lê Ngọc Châu.
Tuy
nhiên, ở một mặt nào khác, tôi cho sự thuận tiện, dễ dàng nọ, không thích ứng
lắm với những kênh mạch tình cảm phức tạp của họ Lê.
Trong
ghi nhận của riêng tôi thì, Luân Hoán không chỉ thả vào dòng sông thi ca của
ông một lượng chữ, nghĩa dồi dào mà, dòng sông chữ, nghĩa của ông còn chảy qua
nhiều tâm cảnh khác nhau - Như những nét cắt sắc, sâu của một nhân chứng sống,
giữa thời hoang, loạn.
Không
ít người đã từng xếp bài thơ nhan đề “Vết Thương” của Luân Hoán vào kênh thơ
tình. Có lẽ bởi vì bài thơ là một đối thoại mang tính tự hỏi/đáp của tác giả
với đối tượng người yêu (giả thiết hiện diện) của ông.
Riêng
tôi, tôi không thấy dù chỉ thấp thoáng chút lãng mạn (ngay cả lãng mạn thương
đau) trong những khổ thơ mở đầu bằng những câu hỏi (hay tự hỏi) của Luân Hoán,
như: “Em không hỏi vì sao ta bỏ cuộc / Em không hỏi vì sao ta bất lực /...”
Người
đọc có thể cảm nhận được tính chất tha thiết, lòng chân thành muốn giãi bày tâm
sự của tác giả, với người con gái ông gọi bằng “em” trong bài thơ...
Nhưng,
rốt ráo, những câu tác giả tự hỏi cũng chỉ là cái cớ để ông bộc bạch cái nhìn
của ông về thế sự thăng trầm. Luôn cả người con gái được Luân Hoán chọn nhân
xưng đại danh tự ngôi thứ hai “em” (có thể hiểu là người bạn đời của ông,) cũng
chỉ là cái cớ để họ Lê nói được một cách tự nhiên những cảm nghĩ thật của một
người lính được giải ngũ, trở về với gia đình, sau thương tích.
Thí
dụ, những câu thơ như:
...Giữa chợ đời
không bán nốt lương tâm.
Hay:
...Ngồi bó gối chờ
đợi áo cơm em.
Hoặc
nữa:
...Rượu đã hết xin
cho ta giọt lệ
Giọt mồ hôi em đổ
sáng sang chiều.
Tôi
cũng không tìm thấy những chỉ dấu lãng mạn hay, thơ mộng nào trong bài thơ dài
nhan đề “Ðôi mắt ngã tư Ba La,” của Luân Hoán, để có thể gọi đó làm một bài thơ
tình thuần chất.
Tâm
bão hay nội dung bài thơ này, theo tôi là hệ quả tự thân của chiến tranh. Sự
nhìn lại trần truồng, không ma mị, không nhân danh một lý tưởng to lớn nào, để
“mỹ viện hóa” sự trần trụi, sần sùi, hầm hố... nhân sinh kia, khi ông viết:
...Ta bỗng hiện
nguyên một thằng thua cuộc
ngồi mé ngã tư, đứng
dựa ngã ba
thơ thẩn bỗng không
hơn gì giấy lộn
đắp mặt không xong,
phủ lòng xót xa
định mệnh bất ngờ
giúp nhau mở lối
trái mìn oan khiên
như vị cứu tinh
em chợt vội vàng làm
cô dâu mới
vợ đã yên lòng nuôi
gã thương binh.
Ta phỉnh ai đâu,
phỉnh ta đấy chứ
cho đến bây giờ ta
vẫn phỉnh ta
nhớ nước sông Trà
quay bờ xe nước
lòng đậu hay trôi
ngã tư Ba La?
(Trích
“Ðôi mắt ngã tư Ba La”)
Cách
khác, tôi muốn nói, tôi thấy không nên phân loại thơ Luân Hoán một cách máy
móc. Kiên cưỡng. Tôi không thấy đó là một bài là thơ chiến tranh thuần túy.
Trong
thơ chiến tranh của Luân Hoán, không chỉ có súng, đạn, địch, ta. Mà trong thơ
tạm gọi là chiến tranh của Luân Hoán vẫn thấm đẫm tình yêu. Như chiếc bóng mơ
hồ của bi kịch.
Cũng
thế, trong thơ tình Luân Hoán, tôi vẫn thấy những phân tranh, những cuộc chiến
cam go giữa chân/giả. Giữa thất vọng và, niềm tin. Giữa dối trá hôm qua và,
ngày mai ký thác trăm năm.
Tôi
thấy, tất cả mọi kênh, mạch ý niệm, kinh nghiệm sống, chết của họ Lê, đã trộn
lẫn trong thơ ông. Như máu, thịt. Tuồng chúng đồng nhất thể. Bất khả phân ly.
Chưa
kể, cường lực sáng tác của Luân Hoán rất sung mãn. Nó không bị sút giảm theo
thời gian. Và, thật đáng kể, nếu chúng ta nhớ rằng, môi trường sống ở những xã
hội Tây phương vốn dị ứng - Nếu không muốn nói là khắc tinh của những rung cảm
cần thiết, cho những ấu trùng văn chương nở thành những cánh bướm rực rỡ!
Nhiều
người không giải mã được hiện tượng nghịch chiều này, nơi tác giả “Nén Hương
Cho Bàn Chân Trái.”
Cá
nhân, tôi nghĩ, ngoài nguồn mạch tình yêu, thủy chung dành cho người bạn đời
của mình, sinh-phần thơ Luân Hoán còn có những tế-bào-gốc:
Tế-bào-gốc-quê-hương. Tế bào gốc tình yêu ân nghĩa. Tế-bào-gốc-bằng-hữu...
Một
cách ngắn gọn, tôi muốn gọi chung là: Tế-bào-gốc-Luân-Hoán/Lê Ngọc Châu.
Tôi
không nghĩ tình cảm riêng tư của tôi, vốn có những góc khuất, những điểm mù khi
viết những điều trên.
Thực
tế cho tôi thấy, có những thi sĩ thành công với loại thơ đối kháng nhưng, thất
lạc ở tự trào. Cũng có những nhà thơ nhuần nhuyễn với loại thơ khẩu khí; nhưng
vẫn có thể gập ghềnh khi bước vào thể loại thơ khác.
Thực
tế cũng cho tôi thấy, có những nhà thơ xuất sắc với loại thơ nói về một cuộc
chiến, dù đứng ở góc độ nào (lên án chiến tranh/giễu cợt kẻ thù/trào phúng
chính mình, như một sinh vật bất lực tội nghiệp trước những mù lòa súng
đạn/thậm chí tố cáo tội ác đối phương...) nhưng không có gì bảo đảm rằng, họ sẽ
tiếp tục gặt hái hoa, trái tốt tươi khi trầm mình trong thế giới tình yêu đôi
lứa.
Luân
Hoán, ngoại lệ. Ông làm thơ dễ dàng. Phong phú. Thơ ông, như những cánh diều
chữ nghĩa, tâm tưởng, bay được với bất cứ thời tiết nào. Dù cho đó là những dằn
xóc hay, mịt mờ, u ám của những khoảng đất trời bất trắc thiên nhiên.
Người
đọc có thể thích/không thích lượng thơ tuôn trào như thác đổ của ông, những năm
quê người.
Người
đọc có thể cảm/vô cảm trước những bài thơ ông viết xuống một cách hồn nhiên với
mọi sinh hoạt diễn ra chung quanh đời sống hàng ngày của ông.
Nhưng,
bằng vào những tế-bào-gốc như đã nói, dòng chảy của thơ Luân Hoán đã và, sẽ còn
tiếp tục chảy tới. Với thời gian, chúng vẫn cuộn xiết những nụ cười tự trào. Ân
nghĩa. Và, những đôn hậu tình bằng hữu...
Du
Tử Lê
(Calif.
Tháng 9, 2012)
-------------------------------------------------
Luan Hoan Home Page
No comments:
Post a Comment